Ảnh hưởng của chế độ cắt đến các thành phần lực cắt trong tiện cứng trực giao thép 9XC bằng dụng cụ CBN
TÓM TẮT
Bài báo này trình bày một nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của vận tốc cắt và lượng chạy
dao đến các thành phần lực cắt trong tiện cứng trực giao thép 9XC. Mảnh dao CBN dạng đặc với
thành phần CBN cao được sử dụng trong quá trình tiện cứng phôi ống thép 9XC. Hai nhân tố vận
tốc cắt và lượng chạy dao được tiến hành thí nghiệm ở hai mức yếu tố. Trong quá trình tiện cứng,
các thành phần lực cắt đã được đo đạc. Phân tích phương sai kết quả thí nghiệm cho thấy cả ba yếu
tố vận tốc cắt, lượng chạy dao và tương tác giữa chúng đều có ảnh hưởng đáng kể đến các giá trị
của lực cắt. Trong đó, lượng chạy dao có ảnh hưởng lớn nhất và vận tốc cắt có ảnh hưởng ít hơn so
với ảnh hưởng của tương tác giữa vận tốc cắt và lượng chạy dao.
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của chế độ cắt đến các thành phần lực cắt trong tiện cứng trực giao thép 9XC bằng dụng cụ CBN", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của chế độ cắt đến các thành phần lực cắt trong tiện cứng trực giao thép 9XC bằng dụng cụ CBN
Phan Quang Thế và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 83(07): 67 - 71 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 67 ẢNH HƯỞNG CỦA CHẾ ĐỘ CẮT ĐẾN CÁC THÀNH PHẦN LỰC CẮT TRONG TIỆN CỨNG TRỰC GIAO THÉP 9XC BẰNG DỤNG CỤ CBN Phan Quang Thế, Nguyễn Thị Quốc Dung*, Hoàng Minh Phúc Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Bài báo này trình bày một nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của vận tốc cắt và lượng chạy dao đến các thành phần lực cắt trong tiện cứng trực giao thép 9XC. Mảnh dao CBN dạng đặc với thành phần CBN cao được sử dụng trong quá trình tiện cứng phôi ống thép 9XC. Hai nhân tố vận tốc cắt và lượng chạy dao được tiến hành thí nghiệm ở hai mức yếu tố. Trong quá trình tiện cứng, các thành phần lực cắt đã được đo đạc. Phân tích phương sai kết quả thí nghiệm cho thấy cả ba yếu tố vận tốc cắt, lượng chạy dao và tương tác giữa chúng đều có ảnh hưởng đáng kể đến các giá trị của lực cắt. Trong đó, lượng chạy dao có ảnh hưởng lớn nhất và vận tốc cắt có ảnh hưởng ít hơn so với ảnh hưởng của tương tác giữa vận tốc cắt và lượng chạy dao. Từ khóa: Tiện cứng, lực cắt, dụng cụ cắt, phân tích phương sai, tiện cứng trực giao ĐẶT VẤN ĐỀ* Với nhiều ưu thế nổi bật, tiện cứng đang là một phương pháp gia công tinh được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong các ngành công nghiệp[1]. Có rất nhiều nghiên cứu liên quan đến quá trình tiện cứng đã được công bố. Xem xét các kết quả nghiên cứu cho thấy, thuộc tính của dụng cụ cắt và vật liệu phôi, thông số hình học của dụng cụ, điều kiện gia công và các tính chất của hệ thống công nghệ được coi như là các thông số đầu vào của quá trình tiện cứng và chúng có thể được lựa chọn khi bắt đầu gia công. Các thông số như lực cắt, nhiệt cắt, chất lượng bề mặt và tuổi thọ dụng cụ được coi như là các tiêu chuẩn về hiệu quả của quá trình hoặc là các thông số đầu ra. Việc xác định chính xác lực cắt trong quá trình gia công luôn đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu tối ưu hóa quá trình, thiết kế tối ưu các thông số của dụng cụ và hệ thống công nghệ. Lực cắt đặc trưng cho công suất cần thiết và là chỉ tiêu chủ yếu để thiết kế các phần tử của máy cắt kim loại, các cơ cấu kẹp và cố định dụng cụ cũng như các yêu cầu về độ cứng vững để đảm bảo loại trừ rung động trong gia công. Do lớp kim loại được cắt đi rất mỏng nên các thành phần lực đo được trong cắt kim loại thường không vượt quá vài chục đến vài trăm kilogram. Mặc dù lực tương đối nhỏ so với các quá trình gia công kim loại khác như rèn, épnhưng do tác dụng trên một diện tích rất bé đã khiến cho * Tel: 0915308818; Email: quocdung@tnut.edu.vn ứng suất sinh ra trong quá trình cắt kim loại thuộc loại cao nhất trong các quá trình gia công. Nhiệt độ cao và ứng suất lớn là nguyên nhân của một loạt các quá trình hóa lý phức tạp xảy ra trong quá trình cắt đồng thời diện tích tiếp xúc nhỏ là trở ngại lớn trong việc tiếp cận nghiên cứu vùng cắt. Trong quá trình tiện cứng, độ cứng cao của phôi cùng với các thông số hình học đặc trưng của dụng cụ, tốc độ cắt lớn và điều kiện gia công khô đã có ảnh hưởng lớn làm cho tác dụng của lực cắt có những thay đổi đáng kể so với quá trình tiện thông thường. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu tác động của các nhân tố cắt đến các thành phần lực cắt là điều cần thiết. Đó còn là cơ sở để tính toán ứng suất và nhiệt cắt, các nhân tố chính ảnh hưởng đến tuổi thọ dụng cụ cũng như chất lượng bề mặt gia công. Trong phạm vi tìm hiểu về các hiện tượng xảy ra trong quá trình tiện cứng, một loạt các nghiên cứu đã được tiến hành cho nhiều loại vật liệu. Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện thời về vấn đề này vẫn chưa cho phép khái quát hóa các kết quả đạt được và dự đoán trạng thái của các vật liệu khác. Vì vậy, việc nghiên cứu đối với các vật liệu này luôn phải tiếp tục[2]. Theo Nakayama và cộng sự[3], lực cắt trong gia công các vật liệu cứng không lớn hơn các vật liệu mềm mềm. Góc trượt lớn và sự hình thành phoi răng cưa do độ dẻo kém đã làm giảm lực cắt mặc dù độ bền cao của vật liệu cứng. Hơn nữa, khi gia công các thép cứng, góc trước âm của dụng cụ càng lớn thì lực dọc trục càng cao và lực cắt tiếp tuyến càng thấp. Sự biến thiên của các thành phần Phan Quang Thế và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 83(07): 67 - 71 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 68 lực cắt cũng bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của độ cứng của vật liệu gia công. Strafford và Audy [4] đã cho thấy khi tiện cứng thép AISI 4340 có độ cứng từ 29 đến 57 HRC bằng dụng cụ gốm đã có sự tăng tương ứng lực cắt từ 30-80%. Trong một công bố khác[5] đã chứng tỏ rằng tốc độ cắt càng cao, lực dọc trục và lực cắt riêng càng thấp, không phụ thuộc vào mòn dụng cụ. Ảnh hưởng của điều kiện cắt đến quá trình tiến triển của lực cắt cũng đã được mô hình trong nhiều nghiên cứu. Bằng việc tiến hành các thí nghiệm khi gia công thép AISI D2 ở độ cứng 62HRC với dụng cụ cắt CBN, Arsecularatne và cộng sự [6] đã kết luận có một mối liên hệ chặt chẽ giữa lực cắt và điều kiện cắt. Huang và Liang [7] trình bày lực cắt tổng cộng là tổng của các thành phần lực để tạo phoi và lực do mòn mặt sau. Mô hình này được đánh giá bằng thực nghiệm quá trình tiện cứng chính xác thép AISI 52100 ở độ cứng 62 HRC với dụng cụ CBN. Chen [8] cũng công bố khi nghiên cứu thực nghiệm tiện cứng thép bằng dụng cụ CBN, lực hướng kính có giá trị lớn nhất trong ba thành phần lực cắt. Để cải thiện hiệu quả chung của công nghệ tiện cứng, cần thiết phải có một sự hiểu biết hoàn chỉnh về quá trình. Với mục tiêu như vậy, nghiên cứu này tập trung vào phân tích ảnh hưởng của các nhân tố điều kiện cắt cũng như ảnh hưởng của sự tương tác giữa chúng đến các thành phần lực trong tiện cứng trực giao bằng phương pháp phân tích thống kê. THIẾT BỊ THÍ NGHIỆM Thí nghiệm được tiến hành trên máy tiện vạn năng Tuda (Nhật Bản). Phôi có dạng ống, chiều dài L=80mm, đường kính 100, làm từ thép hợp kim 9XC (Nga), tôi thể tích đạt độ cứng HRC 52-55 (hình1). Thành phần hóa học của vật liệu phôi cho trong bảng 1. Dụng cụ cắt dùng trong thí nghiệm là mảnh CBN đặc hình tam giác, ký hiệu TNGN110308E (SECO-Thụy Điển). Bán kính mũi dao r=0,1, chiều dày s=3,18 (hình 2). Thân dao của SECO ký hiệu CTFNR2525M11 hợp với mảnh dao để tạo thành góc trước = -60, góc sau = 60. Bảng 1. Thành phần hóa học của thép 9XC C Si P Mn Ni Cr Mo 0,823 1,2351 0,0241 0,5862 0,0332 1,113 0,0192 V Cu W Ti Al Fe Hình 1. Phôi và dao dùng trong thí nghiệm Các thành phần lực cắt được đo bằng thiết bị đo lực ba chiều ký hiệu PTNKĐ-ĐL (Viện Tên lửa-Việt Nam) như hình 2. Hình 2. Thiết bị đo lực PTNKĐ-ĐL TRÌNH TỰ THÍ NGHIỆM Với mục tiêu đơn giản hóa quá trình, thí nghiệm xác định ảnh hưởng của các thông số chế độ cắt đến các thành phần lực cắt được thực hiện theo sơ đồ cắt trực giao. Sơ đồ thí nghiệm như hình 3: Hình 3. Sơ đồ thí nghiệm tiện cứng trực giao Các nghiên cứu đã chứng tỏ quan hệ phụ thuộc giữa lực cắt và các thông số chế độ cắt là quan hệ hàm số mũ có dạng: F= Cvrtpsq (1) Trong trường hợp không xét đến tương tác kép giữa các biến thì C, r, p, q là các hằng số. Phan Quang Thế và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 83(07): 67 - 71 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 69 Để tuyến tính hóa, logarit hai vế, hàm biểu diễn quan hệ phụ thuộc giữa lực cắt vào chế độ cắt sẽ là: lnF=lnC+rlnv+plnt+qlns (2) Với sơ đồ cắt trực giao như hình 3, chiều sâu cắt t không thay đổi và thành phần lực hướng kính Fy sẽ được loại bỏ. Các thí nghiệm được qui hoạch theo kế hoạch bậc một hai nhân tố ở hai mức yếu tố như trong bảng 2. Ngoài 4 điểm thí nghiệm cần thực hiện theo qui hoạch còn có các thí nghiệm được thực hiện song song tại tâm. Mỗi thí nghiệm được thực hiện tương ứng với chiều dài cắt L=15mm theo phương dọc trục ở chiều sâu cắt cố định là 3mm. Các dữ liệu ghi được như trong hình 4 cho thấy lực cắt tương đối ốn định trên suốt chiều dài cắt chứng tỏ rung động là không đáng kể. Kết quả thí nghiệm được tổng hợp trong bảng 3. Bảng 2 Các thông số cắt và các mức giá trị Mức yếu tố Vận tốc cắt v (m/p) Lượng chạy dao s (mm/v) -1 75 0.09 +1 245 0.12 0 160 0.105 Hình 4. Biến thiên của các thành phần lực cắt ở a) n=330vg/ph; s=0,12 mm/vg; b) n=770vg/ph; s=0,12mm/vg; Bảng 3. Kết quả thí nghiệm xác định các thành phần lực cắt Thí nghiệm Nhân tố Lực cắt v (m/p) s (mm/vg) Fz (N) Fx(N) 1 75 0,09 1199.41 297.35 2 245 0,09 894.85 267.09 3 75 0,12 1153.09 337.03 4 245 0,12 1432.56 417.85 5 160 0,105 1362.48 351.48 6 160 0,105 1287.28 376.02 7 160 0,105 1311.52 361.33 PHÂN TÍCH KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Hình 5 là đồ thị ảnh hưởng của các nhân tố vận tốc cắt v, lượng chạy dao s và tương tác giữa chúng đến các thành phần lực cắt Fz và Fx trong tiện cứng trực giao. Phân tích phương sai của các thành phần lực cắt như trong bảng 4. Hình 5. Ảnh hưởng của các nhân tố v và s và tương tác giữa chúng đến các thành phần lực cắt trong tiện cứng trực giao Bảng 4. Phân tích phương sai của các thành phần lực cắt trong tiện cứng trực giao Mô hình phân tích hồi qui xác định giá trị lực cắt trong hệ tọa độ logarit sau khi loại trừ các hệ số không có nghĩa có dạng như sau: Lực Fz: 2 1 27,0509 0,1078 0,1275 $y x x x (3) Lực Fx: 2 1 25,7844 0,1078 0,0806 $y x x x (4) Mô hình hoàn toàn tương hợp với hệ thống thực nghiệm khi thỏa mãn tiêu chuẩn Fisher: F<Fb ; với Fb là giá trị chuẩn số Fisher tra a) c) d) f) e) b) 4 3,3903 1,4974ln 6,60203,719.10 vzF v s Phan Quang Thế và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 83(07): 67 - 71 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 70 bảng ở mức có nghĩa α=0,05, bậc tự do dư f1=1 và bậc tự do lặp f2=2: Fb=18,5; F là giá trị thống kê Fisher của các thành phần lực cắt: Fz=1,7203 ; Fx=3,4861. Giá trị xác suất P của các nhân tố v, s và tương tác giữa chúng đều lớn hơn 0,05 chứng tỏ các hệ số của chúng trong phương trình hồi qui là có nghĩa và chúng có ảnh hưởng đến các thành phần lực cắt. Phương trình hồi qui với các biến thực: (5) (6) Mặt hồi qui của hàm biểu diễn lực cắt theo các thông số vận tốc cắt v và lượng chạy dao s như trong hình 6. Phân tích mặt hồi qui cho thấy rõ tác dụng tương tác giữa các biến ảnh hưởng đến các giá trị lực cắt. Trên cả hai đồ thị, lượng chạy dao s có ảnh hưởng lớn nhất đến lực cắt, tiếp theo là ảnh hưởng của tương tác giữa lượng chạy dao và vận tốc cắt. Vận tốc cắt v có ảnh hưởng ít hơn. Phân tích hình ảnh mặt hồi qui hoàn toàn phù hợp với phân tích phương sai của các thành phần lực cắt. Hình 6. Mặt hồi qui và đồ thị đường mức của các thành phần lực cắt Fz (a) và Fx (b) KẾT LUẬN Trong nghiên cứu này, ảnh hưởng của các thông số chế độ cắt đến các thành phần lực cắt trong tiện cứng trực giao đã được trình bày. Nghiên cứu được thực hiện trên phôi thép 9XC với dụng cụ cắt CBN. Kết quả phân tích phương sai và phân tích hồi qui chứng tỏ rằng mô hình mô tả lực cắt có thể dự đoán các giá trị lực cắt với độ tin cậy là 95%. Mối liên hệ giữa các thông số cắt và hiệu quả quá trình cắt thông qua lực cắt được được biểu diễn bằng mô hình hàm số mũ. Phân tích phương sai các kết quả thí nghiệm cho thấy ảnh hưởng của lượng chạy dao đến lực cắt chiếm ưu thế hơn so với vận tốc cắt. Bên cạnh đó tương tác giữa vận tốc cắt và lượng chạy dao có ảnh hưởng đáng kể đến sự biến thiên của các thành phần lực cắt. Điều này cho phép xác định được vùng gia công phù hợp của vật liệu phôi và dụng cụ. Giá trị của các thành phần lực tăng khi tăng giá trị các thông số của chế độ cắt. Trong nghiên cứu này, giá trị của thành phần lực cắt tiếp tuyến luôn lớn hơn nhiều so với lực ăn dao, không phụ thuộc vào điều kiện cắt. Nghiên cứu này còn có thể làm cơ sở để phân tích tính toán nhiệt và ứng suất trong quá trình gia công. Phương pháp phân tích nghiên cứu đề xuất cũng có thể mở rộng hiệu quả cho các quá trình cắt khác. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Huang Y, Chou Kevin Y, Liang SY. CBN tool wear in hard turning: a survey on research progresses. Int J Adv Manuf Technol 2006;35(5– 6):443–53. [2]. Lahiff C, Gordon S, Phelan P. PCBN tool wear modes and mechanisms in finish hard turning. Robot Comput Integr Manuf 2007;23(6):638–44. [3]. Nakayama K, Arai M, Kanda T. Machining characteristics of hard materials. Ann CIRP 1988;37(1):89–92. [4]. Strafford KN, Audy J. Indirect monitoring of machinability in carbon steels by measurement of cutting forces. J Mater Process Technol 1997;67(1–3):150–6. [5]. Remadna M, Rigal JF. Evolution during time of tool wear and cutting force in the case of hard turning with CBN inserts. J Mater Process Technol 2006;178:67–75. [6]. Arsecularatne JA, Zhang LC, Montross C, Mathew P. On machining of hardened AISI D2 steel with PCBN tools. J Mater Process Technol 2006;171(2):244–52. [7]. Huang Y, Liang SY. Modeling of cutting forces under hard turning conditions considering tool wear effect. Trans ASME J Manuf Sci Eng 2005;127(2):262–70. [8]. Chen W. Cutting forces and surface finish when machining medium hardness steel using CBN tools. Int J Mach Tools Manuf 2000;40(3):455–66. 2,1426 0,9463ln 3,65040,0837 vxF v s Phan Quang Thế và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 83(07): 67 - 71 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 71 ABSTRACT THE EFFECT OF CUTTING CONDITION ON CUTTING FORCES IN ORTHOGONAL HARD TURNING 9XC STEEL WITH CBN TOOLS Phan Quang The, Nguyen Thi Quoc Dung * , Hoang Minh Phuc Thainguyen University of Technology - TNU This paper presents an experimently study of the effects of cutting speed and feed rate on the cutting force components in the orthogonal turning. The solid CBN inserts with high containt of CBN were used in hard turning of the 9XC steel tube. Two factors cutting speed and feed rate with two levels were performed. In the cutting process, force components were measured. Analysis of variances for results showed that three factors: cutting speed, feed rate and their interaction had influences on value of forces. Among them, speed rate has the largest effect and cutting speed has the lower effect compared with the interaction between cutting speed and speed rate. Key words: Hard turning, cutting forces, cutting tool, analysis of variance, othogornal hard turning * Tel: 0915308818; Email : quocdung@tnut.edu.vn
File đính kèm:
- anh_huong_cua_che_do_cat_den_cac_thanh_phan_luc_cat_trong_ti.pdf