Bài giảng Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (Bản đẹp)
I. KHÁI LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
1. Chủ nghĩa Mác-Lênin và ba bộ phận cấu thành
- Chủ nghĩa Mác-Lênin “là hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học của C.Mác, Ph.Ăngghen và sự phát triển của V.I.Lênin; là sự kế thừa và phát triển những giá trị của lịch sử tư tưởng nhân loại, trên cơ sở thực tiễn của thời đại; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động và giải phóng con người.
- Ba bộ phận lý luận cơ bản cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin
+ Triết học Mác-Lênin: Là bộ phận lí luận nghiên cứu những quy luật vận động và phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; Xây dựng thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
+ Kinh tế chính trị học Mác-Lênin: Nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất TBCN và sự ra đời của phương thức sản xuất mới – Phương thức sản xuất CNCS.
+ Chủ nghĩa xã hội khoa học: Là kết quả tất nhiên của sự vận dụng thế giới quan, phương pháp luận triết học và kinh tế chính trị Mác Lênin vào việc nghiên cứu để làm sáng tỏ những quy luật khách quan của quá trình cách mạng XHCN - Bước chuyển từ CNTB lên CNXH và tiến tới CNCS.
- Tính thống nhất của ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin:
Ba bộ phận lý luận này, dù có đối tượng nghiên cứu khác nhau nhưng đều nằm trong một hệ thống lí luận khoa học thống nhất, khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người.
- Vị trí, vai trò:
+ Hiện nay có nhiều học thuyết nhân đạo về lí tưởng giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức bóc lột nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác Lênin mới là học thuyết khoa học nhất, chắc chắn nhất, chân chính nhất để thực hiện lí tưởng ấy.
+ Chủ nghĩa Mác-Lênin bao quát các lĩnh vực tri thức hết sức rộng lớn với nhiều giá trị khoa học và thực tiễn, không chỉ với hơn 150 năm qua mà với thế giới đương đại nó vẫn còn giữ nguyên giá trị bất hủ.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (Bản đẹp)
Chương mở đầu NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN I. KHÁI LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN 1. Chủ nghĩa Mác-Lênin và ba bộ phận cấu thành - Chủ nghĩa Mác-Lênin “là hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học của C.Mác, Ph.Ăngghen và sự phát triển của V.I.Lênin; là sự kế thừa và phát triển những giá trị của lịch sử tư tưởng nhân loại, trên cơ sở thực tiễn của thời đại; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động và giải phóng con người. - Ba bộ phận lý luận cơ bản cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin + Triết học Mác-Lênin: Là bộ phận lí luận nghiên cứu những quy luật vận động và phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; Xây dựng thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng. + Kinh tế chính trị học Mác-Lênin: Nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất TBCN và sự ra đời của phương thức sản xuất mới – Phương thức sản xuất CNCS. + Chủ nghĩa xã hội khoa học: Là kết quả tất nhiên của sự vận dụng thế giới quan, phương pháp luận triết học và kinh tế chính trị Mác Lênin vào việc nghiên cứu để làm sáng tỏ những quy luật khách quan của quá trình cách mạng XHCN - Bước chuyển từ CNTB lên CNXH và tiến tới CNCS. - Tính thống nhất của ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin: Ba bộ phận lý luận này, dù có đối tượng nghiên cứu khác nhau nhưng đều nằm trong một hệ thống lí luận khoa học thống nhất, khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người. - Vị trí, vai trò: + Hiện nay có nhiều học thuyết nhân đạo về lí tưởng giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức bóc lột nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác Lênin mới là học thuyết khoa học nhất, chắc chắn nhất, chân chính nhất để thực hiện lí tưởng ấy. + Chủ nghĩa Mác-Lênin bao quát các lĩnh vực tri thức hết sức rộng lớn với nhiều giá trị khoa học và thực tiễn, không chỉ với hơn 150 năm qua mà với thế giới đương đại nó vẫn còn giữ nguyên giá trị bất hủ. 2. Khái lược quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin a) Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác - Điều kiện kinh tế-xã hội Đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, với việc hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp, CNTB đã phát triển trên cơ sở của chính mình, chiến thắng hoàn toàn chế độ phong kiến. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa có hai giai cấp cơ bản là giai cấp tư sản giữ địa vị thống trị và giai cấp vô sản làm thuê. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội càng trở nên trầm trọng hơn không thể giải quyết được. Phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại chế độ áp bức của chủ nghĩa tư bản ngày càng lên cao. Tuy nhiên các phong trào này chỉ mới dừng lại ở mức độ tự phát. Thực tiễn đó đặt ra một vấn đề cấp thiết là phải có lí luận cách mạng khoa học soi đường. Chủ nghĩa Mác ra đời trước hết từ đòi hỏi của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản. - Tiền đề lý luận: Chủ nghĩa Mác Lênin còn là kết quả của sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, trong đó trực tiếp nhất là là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. - Triết học cổ điển Đức: Triết học mác xít là sự kế tục triết học duy vật của Phơ Bách và triết học biện chứng của Hêghen. C.Mác, Ăngghen đã vận dụng phép biện chứng vào phân tích sự phát triển của xã hội loài người, trên cơ sở đó xây dựng chủ nghĩa duy vật lịch sử. Triết học mác xít không chỉ là thế giới quan và phương pháp luận của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh lật đổ CNTB, xây dựng CNXH mà còn là phương pháp luận nghiên cứu khoa học. - C. Mác, Ăngghen đã kế thừa những nhân tố hợp lý của chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, thổi vào đó những nhân tố mới, sức sống mới, biến chủ nghĩa xã hội không tưởng thành chủ nghĩa xã hội khoa học. - Kế thừa những thành tựu của kinh tế chính trị tư sản cổ điển mà tiêu biểu học thuyết của A. Xmít và Đ. Ricácđô, kinh tế chính trị học mác xít đã vạch rõ bản chất và các quy luật của phương thức sản xuất TBCN, đưa ra những luận chứng kinh tế, tính tất yếu của việc thay thế phương thức sản xuất TBCN bằng phương thức sản xuất CSCN. - Tiền đề khoa học tự nhiên + Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng đã chứng minh khoa học về sự không tách rời nhau, sự chuyển hoá lẫn nhau và được bảo toàn các hình thức vận động của vật chất. + Thuyết tiến hóa của Đác Uyn chứng minh dưới quá trình chọn lọc tự nhiên các sinh vật đều phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp ; thế giới luôn vận động và phát triển. + Thuyết tế bào khẳng định bản chất các cơ thể sống dù khác nhau như thế nào đi nữa cũng đều được cấu tạo từ tế bào. Từ đó Mác - Ăngghen khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới. Có thể nói, với những phát minh của mình, khoa học đã cung cấp những cơ sở tri thức khoa học để phát triển tư duy biện chứng vượt khỏi tính tự phát của phép biện chứng cổ đại, đồng thời thoát khỏi vỏ thần bí của triết học duy tâm; vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những dạng tồn tại khác nhau, các hình thức tồn tại khác nhau trong tính thống nhất của thế giới; vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của các sự vật và hiện tượng. b. Giai đoạn hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác - C. Mác (1818-1883), Ăngghen (1820-1895) là những người sáng lập ra học thuyết mác xít. Những tác phẩm như Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844; Gia đình thần thánh; Luận cương Phoiơbắc; Hệ tư tưởng Đứcđã thể hiện rõ nét việc C. Mác và Ăngghen kế thừa tinh hoa trong quan điểm duy vật và phép biện chứng của các bậc tiền bối để xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật. - Trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, C. Mác đã đề xuất những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa xã hội khoa học và bước đầu thể hiện tư tưởng về giá trị thặng dư. - Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C. Mác đã chỉ ra những quy luật vận động của lịch sử, thể hiện tư tưởng cơ bản về lý lận hình thái kinh tế - xã hội. Trong tác phẩm này, Mác cũng đã bàn đến những vấn đề về giai cấp. Với những quan điểm trên, C. Mác và Ăngghen đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử. - Lý luận về giá trị thặng dư cũng như quy luật hình thành, phát triển, diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, sự thay thế CNTB bằng CNXH và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được trình bày trong bộ Tư bản. c. Giai đoạn bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Bối cảnh lịch sử mới và nhu cầu bảo vệ, phát triển chtủ nghĩa Mác Thực tiễn của phát triển khoa học và phong trào vô sản ở đầu thế kỷ XX đã tạo điều kiện Lênin nghiên cứu, khảo sát và đúc kết thực tiễn thành những vấn đề lý luận mới, bảo vệ chủ nghĩa Mác trước các luận điệu của kẻ cơ hội và thù địch đòi xét lại chủ nghĩa Mác. - Vai trò của V.I Lênin đối với việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới. Lênin đã bảo vệ chủ nghĩa Mác một cách xuất sắc, không những thế, đã phát triển chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới, đạt được những kết quả thực tiễn to lớn nhất là ở nước Nga. + Những năm 1893- 1907, là những năm Lênin tập trung chống phái dân tuý. Tác phẩm “Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao?” (1894) của Lênin, vừa phê phán tính chất duy tâm và những sai lầm nghiêm trọng của phái này khi nhận thức những vấn đề về lịch sử - xã hội, vừa vạch rõ ý đồ khi họ muốn xuyên tạc chủ nghĩa Mác bằng cách xoá nhòa ranh giới giữa phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác với phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Trong tác phẩm này, Lênin cũng đưa ra nhiều tư tưởng về tầm quan trọng của lý luận, của thực tiễn và mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn. + Cách mạng tháng Mười thành công mở ra một thời đại mới - thời đại quá độ quá độ từ CNTB sang CNXH trên phạm vi toàn cầu. Sự kiện này làm nảy sinh những nhu cầu mới về lí luận mà thời Mác và Ăngghen chưa được đặt ra. Lênin đã tổng kết thực tiễn cách mạng của quần chúng nhân dân, tiếp tục bảo vệ phép biện chứng mác xít và phát triển thêm một số nội dung mới như về giai cấp, thời kỳ quá độ, chính sách kinh tế mới... d. Chủ nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn phong trào cách mạng thế giới - Chủ nghĩa Mác-Lênin với cách mạng vô sản Nga (1917) Chủ nghĩa Mác – Lênin đã được Lênin vận dụng vào nước Nga, soi đường chỉ lối, mang lại thắng lợi cho nước Nga, đưa nước Nga trở thành một nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới. - Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. + Chủ nghĩa Mác – Lênin được vận dụng vào các nước đặc biệt là các nước bị áp bức nô dịch. Điều đó đã đưa tới sự thắng lợi ở hàng loạt nước và đồng thời cổ vũ phong đào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ và tiến bộ ở các nước tư bản chủ nghĩa. + Chủ nghĩa Mác – Lênin đã trở thành hệ tư tưởng nền tảng và kim chỉ nam hành động của các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cánh tả trên thế giới. II. ĐỐI TƯỢNG, MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU VỀ PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP, NGHIÊN CỨU MÔN HỌC “NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN” 1. Đối tượng và mục đích của việc học tập, nghiên cứu a. Đối tượng - Đối tượng học tập, nghiên cứu “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” là những quan điểm cơ bản, nền tảng và mang tính chân lý bền vững của chủ nghĩa Mác Lênin trong phạm vi ba bộ phận lý luận cấu thành nó. - Cụ thể: .+ Triết học Mác-Lênin: Là bộ phận lí luận nghiên cứu những quy luật vận động và phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. + Kinh tế chính trị học Mác-Lênin: Nghiên cứu nhứng quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là những quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất TBCN. + Chủ nghĩa xã hội khoa học: nghiên cứu làm sáng tỏ những quy luật khách quan của quá trình cách mạng XHCN - Bước chuyển từ CNTB lên CNXH và tiến tới CNCS. b. Mục đích của việc học tập, nghiên cứu - Học tập, nghiên cứu Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin là để xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học và vận dụng sáng tạo những nguyên lý đó trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. - Học tập, nghiên cứu Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin là để hiểu rõ cơ sở lý luận quan trọng nhất của Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Học tập, nghiên cứu Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin để giúp sinh viên hiểu rõ nền tảng tư tưởng của Đảng. - Học tập, nghiên cứu Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin là để xây dựng niềm tin, lý tưởng cho sinh viên. 2. Một số yêu cầu cơ bản về mặt phương pháp học tập, nghiên cứu Học tập, nghiên cứu Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cần phải theo nguyên tắc: - Cần phải hiểu đúng tinh thần, thực chất của nó; tránh bệnh kinh viện, giáo điều trong quá trình học tập, nghiên cứu và vận dụng các nguyên lý cơ bản đó trong thực tiễn. - Phải đặt chúng trong mối quan hệ với các nguyên lý khác, mỗi bộ phận cấu thành trong mối quan hệ với các bộ phận cấu thành khác để thấy sự thống nhất phong phú và nhất quán của chủ nghĩa Mác- Lênin, đồng thời cũng cần nhận thức các nguyên lý đó trong tiến trình phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại. - Học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin để hiểu rõ cơ sở lý luận quan trọng nhất của Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì vậy phải thường xuyên gắn kết những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn của đất nước và thời đại, để thấy được sự vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử. - Học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin để đáp ứng những yêu cầu của con người Việt Nam trong thời đại mới. Vì vậy quá trình học tập và nghiên cứu cũng là quá trình giáo dục, tự giáo dục, tu dưỡng và rèn luyện để từng bước hoàn thiện mình trong đời sống cá nhân cũng như trong đời sống cộng đồng xã hội. - Quá trình học tập, nghiên cứu những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin đồng thời cũng phải là quá trình tổng kết, đúc rút kinh nghiệm để góp phần phát triển tính khoa học và tính nhân văn vốn có của nó. Mặt khác việc học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, cũng cần đặt nó trong lịch sử phát triển của tư tưởng nhân loại bởi nó là sản phẩm của sự kế thừa và phát triển những tinh hoa văn hoá đó trong điều kiện lịch sử mới. Như vậy, các yêu cầu trên thống nhất với nhau, giúp cho quá trình học tập và nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lênin không chỉ kế thừa được những tinh hoa của chủ nghĩa Mác Lênin mà quan trọng hơn là vận dụng những tinh hoa ấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN 1. Vì sao gọi chủ nghĩa Mác Lênin là một học thuyết mở? 2. Vai trò của chủ nghĩa Mác Lênin đối với cách mạng Việt Nam? PHẦN THỨ NHẤT THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN CHƯƠNG I CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG I. CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG 1. Sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Tổng kết toàn bộ lịch sử triết học, đặc biệt lịch sử triết học cổ điển Đức, Ph.Ăngghen đã khái quát: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại” Các Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, t21, tr 403. nói rộng ra đó là giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức; giữa tư duy và tồn tại; giữa tự nhiên và tinh thần. Vấn đề cơ bản của triết học được giải quyết trên hai mặt: - Thứ nhất: giữa ý thức và vật chất cái nào có trước cái nào có sau? Cái nào quyết định cái nào (xác định cái nào là tính thứ nhất, cái nào tính thứ hai?). - Thứ hai: con người có khả năng nhận thức được thế giới không? Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trên cả hai mặt là xuất phát điểm của các trường phái lớn trong lịch sử triết học: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; khả tri luận và bất khả tri luận. Chủ nghĩa duy vật quan niệm: bản chất của thế giới là vật chất; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất có trước và quyết định ý thức. Chủ nghĩa duy vật có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội là: sự phát triển của khoa học và thực tiễn, đồng thời gắn liền lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử. Trong lịch sử, chủ nghĩa duy vật có ba hình thức phát triển cơ bản đó là: chủ nghĩa duy vật cổ đại; chủ nghĩa duy vật siêu hình và đỉnh cao nhất trong sự phát triển của nó là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm khẳng định: bản chất thế giới là ý thức; ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức có trước và quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội là: sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa một mặt nào đó của quá trình nhận thức đồng thời thường gắn liền lợi ích của các giai cấp tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động. Trong lịch sử, chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức tồn tại cơ bản là chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. 2. Chủ nghĩa duy vật biện c ... Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác động của các quy luật khách quan. Như vậy, lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người nói riêng vừa tuân theo tính tất yếu quy luật xã hội, vừa chịu sự tác động đa dạng của các nhân tố khác nhau, trong đó có cả nhân tố hoạt động chủ quan của con nguời. Từ đó lịch sử phát triển của xã hội được biểu hiện ra là lịch sử thống nhất trong tính đa dạng và đa dạng trong tính thống nhất của nó. V. VAI TRÒ CỦA ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI SỰ VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI CÓ ĐỐI KHÁNG GIAI CẤP 1. Giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp a. Khái niệm giai cấp, tầng lớp xã hội Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I. Lênin đã đưa ra định nghĩa giai cấp như sau: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chổ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh: giai cấp nào nắm được tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì củng đồng thời có khả năng chiếm được địa vị làm chủ quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước, do đó có khả năng khách quan trở thành giai cấp thống trị xã hội, thực hiện được việc chiếm đoạt lao động của giai cấp khác và duy trì được tình trạng tương đối ổn định của xã hội trong điều kiện có đối kháng giai cấp. Tầng lớp xã hội là khái niệm thường được sử dụng để chỉ sự phân tầng, phân lớp, phân nhóm giữa những con người trong cùng một giai cấp theo địa vị và sự khác biệt cụ thể của họ trong giai cấp đó như: tầng lớp công nhân làm thuê lao động giản đơn, lao động phức tạp, lao động chuyên gia Khái niệm này cũng còn được dùng để chỉ những nhóm người ngoài kết cấu các giai cấp trong một xã hội nhất định như: tầng lớp công chức, trí thức, tiểu nông những tầng lớp này đều có những mối quan hệ nhất định với giai cấp này hay giai cấp khác trong xã hội. b. Nguồn gốc giai cấp Nguồn gốc trực tiếp của sự phân hoá giai cấp trong xã hội chính là sự ra đời và tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đặc biệt là đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, bởi vì chỉ có trong điều kiện đó mới có khả năng khách quan làm phát sinh và tồn tại sự phân biệt địa vị của các tập đoàn người trong quá trình sản xuất xã hội. Do đó, dẫn tới khả năng tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động thặng dư của tập đoàn khác. Nguồn gốc sâu xa của sự phân hoá giai cấp trong xã hội chính là do tình trạng phát triển nhưng chưa đạt tới trình độ xã hội hoá cao của lực lược sản xuất. Khi lực lượng sản xuất đã đạt trình độ xã hội hoá cao thì chính nó lại là nguyên nhân khách quan của việc xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và do đó dẫn tới sự xoá bỏ giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai cấp trong xã hội. c. Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp Theo V.I. Lênin, khái niệm đấu tranh giai cấp dùng để chỉ “cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”. Tuỳ theo những điều kiện lịch sử khác nhau, các cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, với những phạm vi và trình độ khác nhau như: đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị Trong thực tế lịch sử, cuộc đấu tranh giai cấp có thể mang những hình thức đấu tranh dân tộc, tôn giáo, văn hoá và có thể có nhiều hình thức đa dạng khác. Để khống chế và đàn áp những cuộc đấu tranh giai cấp của những người lao động làm thuê, những người nô lệ, nhằm duy trì và thực hiện được sự bóc lột của nó, các giai cấp thống trị trong lịch sử tất yếu phải sử dụng đến sức mạnh bạo lực có tổ chức – đó là nhà nước với những đội vũ trang đặc biệt và hệ thống pháp luật nhằm duy trì trật tự của sự thống trị giai cấp. Sự ra đời và tồn tại nhà nước là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội có đối kháng giai cấp. Khi các mâu thuẫn xã hội đã bị đẩy đến chỗ không thể giải quyết được thì tất yếu giai cấp thống trị cần đến sức mạnh bạo lực đặc biệt để duy trì xã hội trong một vòng “trật tự” theo ý chí của nó, thực hiện lợi ích của nó. Sự ra đời và tồn tại nhà nước không phải để giải quyết mâu thuẫn mà là để duy trì trật tự xã hội trong điều kiện mâu thuẫn không thể giải quyết được. Đấu tranh giai cấp giữ vai trò là một trong những phương thức, động lực của sự tiến bộ, phát triển xã hội trong điều kiện xã hội có sự phân hoá thành đối kháng giai cấp. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, lịch sử nhân loại từ khi có phân hoá giai cấp đến nay, về thực chất là lịch sử của những cuộc đấu tranh giai cấp được biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng với những mức độ khác nhau và mang sắc thái khác nhau. Như vậy, trong điều kiện của xã hội có đối kháng giai cấp thì sự phát triển của xã hội chỉ có thể thực hiện được thông qua những cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết những mâu thuẫn đối kháng trong đời sống kinh tế và chính trị - xã hội. Trong trường hợp này đấu tranh giai cấp không chỉ là động lực của sự phát triển lịch sử mà còn là phương thức của sự tiến bộ và phát triển xã hội. 2. Cách mạng xã hội và vai trò của nó đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp a. Khái niệm cách mạng xã hội và nguồn gốc của cách mạng xã hội Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về chất trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, là phương thức chuyển từ một hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời lên một hình thái kinh tế - xã hội mới ở trình độ cao hơn. Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời và thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn của giai cấp cách mạng. Cách mạng xã hội khác với cải cách. Khái niệm cải cách dùng để chỉ những cuộc cải biến diễn ra trên một hay một số lĩnh vực của đời sống xã hội, trong phạm vi một hình thái kinh tế - xã hội, nhằm hoàn thiện hình thái kinh tế - xã hội đó, như: cải cách thể chế kinh tế, cải cách nền hành chính quốc gia, cải cách nền giáo dục Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội là từ mâu thuẫn gay gắt trong bản thân nền sản xuất vật chất của xã hội, tức mâu thuẫn gay gắt giữa nhu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đã trở nên lỗi thời mà không một cuộc cải cách kinh tế hay chính trị nào có thể giải quyết được. Mâu thuẫn đó biểu hiện về mặt chính trị - xã hội thành cuộc đấu tranh giai cấp và chính sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp này đã tất yếu dẫn đến sự bùng nổ cách mạng. Đây cũng chính là nguyên nhân khách quan của các cuộc cách mạng xã hội. Ngoài ra, mỗi cuộc cách mạng xã hội còn có nguyên nhân chủ quan của nó, đó là sự phát triển nhận thức và tổ chức của giai cấp cách mạng, tức giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. b. Vai trò của cách mạng xã hội đối với sự vận động, phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng Cách mạng xã hội giữ vao trò là một trong những phương thức, động lực của sự phát triển xã hội. Không có những cuộc cách mạng xã hội trong lich sử thì không thể diễn ra quá trình thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng một hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn. Với ý nghĩa đó mà C. Mác nhận định rằng: các cuộc cách mạng xã hội là những “đầu tàu của lịch sử ”, tức vai trò là phương thức thực hiện sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội. Mặt khác, chính nhờ các cuộc cách mạng xã hội mà các mâu thuẫn trong đời sống xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá được giải quyết triệt để, từ đó tạo ra động lực cho sự tiến bộ và phát triển của xã hội. VI. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ SÁNG TẠO LỊCH SỬ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN 1. Con người và bản chất con người a. Khái niệm con người Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội, có sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội. - Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau đây: Thứ nhất, con người là kết quả tiến hoá và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Thứ hai, con người cũng là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng là thân thể vô cơ của con người. Đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên. - Bản tính xã hội của con người được phân tích từ các giác độ sau đây: Một là, trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hoá và phát triển thành người. Hai là, sự tồn tại của con người và loài người luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng do đó mà có sự thay đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất của nó, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó. b. Bản chất con người Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C. Mác cho rằng: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với những điều kiện lịch sử nhất định. Như thế, con người xét từ giác độ bản chất xã hội của nó, là sản phẩm của lịch sử; lịch sử sáng tạo ra con người trong chừng mực nào thì con người lại cũng sáng tạo ra lịch sử trong chứng mực đó. Đây là biện chứng của con người – chủ thể của lịch sử với chính lịch sử do chính nó tạo ra và đồng thời lại bị quy định bởi chính lịch sử đó. Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn tác động vào giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó thì đồng thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó. 2. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và cá nhân a. Khái niệm quần chúng nhân dân Con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử nhưng không phải là theo phương thức hành vi đơn lẽ, rời rạc, cô độc của mỗi con người mà là theo phương thức liên kết những con người thành sức mạnh cộng đồng xã hội có tổ chức, có lãnh đạo của những cá nhân hay các tổ chức chính trị, xã hội nhất định nhằm giải quyết các nhiệm vụ lịch sử trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá của xã hội – cộng đồng đó chính là quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân không phải là một cộng đồng bất biến mà trái lại, nó thay đổi cùng với sự biến đổi của những nhiệm vụ lịch sử ở mỗi thời đại, mỗi giai đoạn phát triển nhất định. b. Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân trong lịch sử Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển cả lịch sử. Do đó, lịch sử trước hết và căn bản là lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Vai trò chủ thể sáng tạo ra lịch sử, quyết định tiến trình phát triển lịch sử của quần chúng nhân dân được phân tích từ ba giác độ sau đây: Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người và xã hội. Thứ hai, quần chúng nhân dân là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp sáng tạo ra các giá trị tinh thần của xã hội, là lực lượng trực tiếp hay gián tiếp kiểm chứng các giá trị tinh thần đã được các thế hệ và các cá nhân sáng tạo ra trong lịch sử. Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng và các cuộc cải cách trong lịch sử. Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không bao giờ có thể tách rời vai trò cụ thể của mỗi cá nhân mà đặc biệt là vai trò của các cá nhân ở vai trò thủ lĩnh, lãnh tụ hay ở tầm vĩ nhân của cộng đồng nhân dân. Cá nhân dùng để chỉ mỗi con người cụ thể sống trong một cộng đồng xã hội nhất định và được phân biệt với những con người khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó. Theo quan niệm đó, mỗi cá nhân là một chỉnh thể thống nhất vừa mang tính cá biệt vừa mang tính phổ biến; là chủ thể của lao động, của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức nhằm thực hiện chức năng cá nhân và chức năng xã hội trong một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định. Lãnh tụ thường được dùng để chỉ những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân. Để trở thành lãnh tụ của quần chúng nhân dân, được quần chúng nhân dân tín nhiệm, lãnh tụ phải là người có những phẩm chất cơ bản sau đây: Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động, phát triển của lịch sử. Hai là, có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân vào việc giải quyết những nhiệm vụ lịch sử, thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của lịch sử. Ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hi sinh vì lợi ích của quần chúng nhân dân. & CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN Tại sao nói sản xuất vật chất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội? Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận gì? Vận dụng nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Vận dụng vào đặc điểm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước ta. Hình thái kinh tế - xã hội là gi? Vì sao nói sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên? Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp? Vận dụng vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. Vai trò của cách mạng xã hội đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp? Ý nghĩa phương pháp luận. Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là gì? Phân tích tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Phân tích quan niệm của triết học Mác – Lênin về bản chất con người. Tại sao nói: Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử? Ý nghĩa của vấn đề này trong bài học “lấy dân làm gốc” của Đảng ta?
File đính kèm:
- bai_giang_nhung_nguyen_ly_co_ban_cua_chu_nghia_mac_lenin_ban.doc