Bài giảng Trang bị tiện nghi trên ô tô
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TRANG BỊ TIỆN NGHI TRÊN ÔTÔ
Sự hình thành ô tô được bắt đầu trên các ý tuởng và phát minh bánh xe lăn tròn của
con người từ 3000 năm trước Công nguyên. Chiếc xe bốn bánh ra đời khoảng thế kỷ
thứ 7 trước Công nguyên và được danh hoạ nổi tiếng Leonad de Vanci vẽ lại trưng bày
trong bảo tàng Pari của Pháp.
Ô tô thực sự được gọi tên chỉ từ khi chiếc xe sử
dụng bánh tròn tự di chuyển với nguồn động lực đặt
trên nó. Bởi vậy sự ra đời, phát triển của ô tô gắn
mật thiết với sự ra đời, phát triển của nguồn động
lực đặt trên xe và sự hoàn thiện cấu trúc bánh xe
lăn.
Các mốc thời gian chính của sự hình thành và
phát triển động cơ, ô tô:
Năm 1690: xuất hiện máy hơi nước đầu tiên của
Ferdinand Verbiest, mãi đến năm 1801 Richard
Treviethik đặt lên trên xe 4 bánh tròn để phục vụ
mục đích vận tải hàng hoá.
Năm 1801: Philipp Lebon phát minh động cơ chạy bằng gas (khí đốt), năm 1807
Isaak de Rivaz thí nghiệm lắp động cơ khí đốt lên cỗ xe tam mã và hoàn thiện liên tục,
tới năm 1861 đã chế tạo được động cơ khí đốt, 4 kỳ, 8 mã lực lắp lên xe tứ mã phục vụ
mục đích vận chuyển người thay cho ngựa kéo.
Năm 1864: Nikolai Ôtto, Langen, Daimler, Maybach mở nhà máy sản xuất động
cơ gaz 4 kỳ tại Đức và thử nghiệm thành công động cơ gaz-xăng, rồi động cơ gaz 2 kỳ
(1882 của Karl Benz), các loại động cơ này một phần được lắp thử nghiệm trên xe
thay ngựa kéo. Sau nhiều thay đổi kỹ thuật, động cơ đạt được công suất 20 mã lực,
đánh lửa bằng manheto.
Năm 1886: Karl Benz chế tạo động cơ xăng 2 kỳ công suất nhỏ 0,7 mã lực, 130
vòng/phút, đánh lửa bằng điện, lắp trên xe ba bánh và đăng ký phát minh kỹ thuật. Sau
đó Daimler, Maybach hoàn thiện động cơ chạy xăng và lắp trên xe 4 bánh. Bản phát
minh được chọn và ghi nhận là của Karl Benz, và lấy 1886 là năm ra đời của xe hơi, từ
đây xe có thể tự chuyển động, tự chuyển hướng. Thực ra, tên gọi “Ô TÔ“ được các
nhà kỹ thuật công nhận, chỉ khi xuất hiện chiếc xe 4 bánh với phát minh sau đó của
Daimler và Maybach
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Trang bị tiện nghi trên ô tô
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN KHOA CƠ KHÍ ĐỘNG LỰC BÀI GIẢNG HỌC PHẦN: TRANG BỊ TIỆN NGHI TRÊN Ô TÔ SỐ TÍN CHỈ: 02 LOẠI HÌNH ĐÀO TẠO: ĐẠI HỌC CHÍNH QUY NGÀNH: CÔNG NGHỆ KỸ THUẬT Ô TÔ Hưng Yên - 2015 1 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TRANG BỊ TIỆN NGHI TRÊN ÔTÔ Sự hình thành ô tô được bắt đầu trên các ý tuởng và phát minh bánh xe lăn tròn của con người từ 3000 năm trước Công nguyên. Chiếc xe bốn bánh ra đời khoảng thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên và được danh hoạ nổi tiếng Leonad de Vanci vẽ lại trưng bày trong bảo tàng Pari của Pháp. Ô tô thực sự được gọi tên chỉ từ khi chiếc xe sử dụng bánh tròn tự di chuyển với nguồn động lực đặt trên nó. Bởi vậy sự ra đời, phát triển của ô tô gắn mật thiết với sự ra đời, phát triển của nguồn động lực đặt trên xe và sự hoàn thiện cấu trúc bánh xe lăn. Các mốc thời gian chính của sự hình thành và phát triển động cơ, ô tô: Năm 1690: xuất hiện máy hơi nước đầu tiên của Ferdinand Verbiest, mãi đến năm 1801 Richard Treviethik đặt lên trên xe 4 bánh tròn để phục vụ mục đích vận tải hàng hoá. Năm 1801: Philipp Lebon phát minh động cơ chạy bằng gas (khí đốt), năm 1807 Isaak de Rivaz thí nghiệm lắp động cơ khí đốt lên cỗ xe tam mã và hoàn thiện liên tục, tới năm 1861 đã chế tạo được động cơ khí đốt, 4 kỳ, 8 mã lực lắp lên xe tứ mã phục vụ mục đích vận chuyển người thay cho ngựa kéo. Năm 1864: Nikolai Ôtto, Langen, Daimler, Maybach mở nhà máy sản xuất động cơ gaz 4 kỳ tại Đức và thử nghiệm thành công động cơ gaz-xăng, rồi động cơ gaz 2 kỳ (1882 của Karl Benz), các loại động cơ này một phần được lắp thử nghiệm trên xe thay ngựa kéo. Sau nhiều thay đổi kỹ thuật, động cơ đạt được công suất 20 mã lực, đánh lửa bằng manheto. Năm 1886: Karl Benz chế tạo động cơ xăng 2 kỳ công suất nhỏ 0,7 mã lực, 130 vòng/phút, đánh lửa bằng điện, lắp trên xe ba bánh và đăng ký phát minh kỹ thuật. Sau đó Daimler, Maybach hoàn thiện động cơ chạy xăng và lắp trên xe 4 bánh. Bản phát minh được chọn và ghi nhận là của Karl Benz, và lấy 1886 là năm ra đời của xe hơi, từ đây xe có thể tự chuyển động, tự chuyển hướng. Thực ra, tên gọi “Ô TÔ“ được các nhà kỹ thuật công nhận, chỉ khi xuất hiện chiếc xe 4 bánh với phát minh sau đó của Daimler và Maybach. Hình 1: Xe 4 bánh của thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên 2 Năm 1888: J.B. Dunlop phát minh ra lốp cao su có chứa khí nén bên trong. Chỉ một năm sau lốp của Dunlop được chấp nhận lắp trên ô tô. Nhờ phát minh này mà tốc độ của ô tô đã vượt qua tốc độ 40 km/h. Tiếp theo hình thành các hãng sản xuất lốp Dunlop (1889) Michelin (1894) .... Năm 1892: Rudolf Diezel phát minh ra động cơ diezel và đến năm 1901 lắp trên ô tô tải. Năm 1900: Xuất hiện ô tô con chạy điện (Elektro-Taxi) và dạng Elektro-Mobil. Từ đây sự hình thành ô tô con, ô tô tải, ô tô tải chở người chạy bằng lốp khí nén dần dần hoàn thiện, nhưng quy mô nhỏ và chưa hình thành rõ của nền công nghiệp ô tô. Tuy vậy mốc thời gian đáng ghi nhớ trong công nghiệp sản xuất ô tô: Năm 1896 Henry Ford (Mỹ) bắt đầu thành lập nhà máy và chế tạo hàng loạt vào năm 1903, đánh dấu một giai đoạn phát triển công nghiệp ô tô trên thế giới. Năm 1898 hãng Renault (Pháp). Năm 1899 hãng Fiat (Italia). Năm 1901 hãng Mercedes (Đức). Sau 1902 hàng loạt các quốc gia thực hiện sản xuất ô tô các loại theo một hệ thống công nghiêp và gia tăng sản lượng của mình, tạo thế cạnh tranh mãnh liệt trên thị trường. Cho tới nay số lượng ô tô sử dụng ở một quốc gia đã trở thành một chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển của quốc gia đó. Hình 2. Những ô tô con ra đời trong khoảng thập kỷ 1860 Hình 3.Những ô tô ra đời trong những năm đầu 1900 3 Sự phát triển kỹ thuật từ đây gắn liền với khả năng ứng dụng và thị trường của các hãng sản xuất ô tô. Các mốc thời gian xuất hiện các kỹ thuật mới trên ô tô có thể liệt kê: Năm 1934: Hoàn thành chế tạo hộp số tự động chuyển số (AT) cho ô tô trên cơ sở hộp số hành tinh, biến mô men thuỷ lực, điều khiển nhờ thuỷ lực và các van con trượt. Năm 1954: Felix Wankel chế tạo động cơ pitton quay tại hãng NSU-Wankel có cấu trúc gọn nhỏ và sau đó lắp trên ô tô con. Năm 1967: Phun xăng điện tử theo hệ D-Jetronic thay thế kiểu phun xăng cơ khí trước đây. Đến năm 1973 nghiên cứu thành công hệ phun xăng điện tử nhằm giảm lượng tiêu thụ nhiên liệu và giảm ô nhiễm môi trường. Năm 1971: Chế tạo hoàn chỉnh hệ thống chống trượt lết bánh xe khi phanh (ABS), tiếp sau đó năm 1978 chế tạo hàng loạt hệ thống ABS, lắp trên ô tô con và ô tô chở người. Năm 1979: Điều khiển kỹ thuật số xuất hiện và ngay lập tức được ứng dụng vào hệ thống phun xăng đánh lửa Motronic và nhiều lĩnh vực điều khiển tự động khác: ABS, hộp số tự động, điều khiển tối ưu lực dọc . Năm 1980: Cho phép lắp túi khí bảo vệ trên ô tô (Air-Bag) với khả năng tác động nhanh dưới 60 ms (mili giây). Năm 1986: Hệ thống lái điều khiển tất cả các bánh xe (4WS) được thực hiện bởi hãng Honda đã nhanh chóng giải quyết vấn đề cơ động khi ra vào chỗ đỗ xe, tăng khả năng ổn định khi ô tô chuyển động trên đường vòng với tốc độ cao (trên 150 km/h). Năm 1990: Bắt đầu sử dụng có cấu tự động điều khiển thời điểm nạp khí của động cơ (VTEC – của Nhật Bản, VANOS – của Đức) cho cơ cấu phối khí. Năm 2001: Nghiên cứu thành công hệ thống phun xăng trực tiếp (sau xu páp) và đưa hệ thống cung cấp nhiên liệu điện tử cho động cơ diezel. Năm 2002: Tiến hành thử nghiệm ô tô có tốc độ vượt tốc độ âm thanh với vận tốc tối đa 1227 km/h. Ngày nay ô tô con (thương mại) đã đạt được tốc độ tối đa trên 400 km/h. Tiếp sau là các tiến bộ mạnh đang diễn ra trong công nghệ điều khiển tự động, công nghệ truyền dẫn năng lượng nhờ dây dẫn điện (by-wire) và điều khiển “thông minh”. Hình 4.Những ô tô ra đời trong những năm đầu 1930 4 Do hạn chế của nguồn năng lượng từ dầu mỏ và trước sức ép bảo vệ môi trường, việc sử dụng các loại nhiên liệu phi dầu mỏ, thân thiện với môi trường đang là xu hướng phát triển của ngành công nghiệp ô tô hiện nay. Mặt khác việc giảm tai nạn giao thông và tăng tiện nghi sử dụng cũng đòi hỏi công nghiệp ô tô phải không ngừng hoàn thiện, vấn đề tối ưu hoá và tự động hoá trên ôtô nhờ ứng dụng điều khiển điện và điện tử ở trên ô tô đang được trải rộng và nghiên cứu. Trong tương lai công nghiệp ô tô sẽ phát triển nhanh và không ngừng thoả mãn tối đa yêu cầu của con người. Ô tô ngày nay không chỉ là một phương tiện di chuyển mà còn là một văn phòng di động. Chính vì vậy, các hệ thống tiện nghi nhằm phục vụ con người trên ô tô ngày càng được nâng cấp. Các hệ thống này không chỉ phục vụ nhu cầu giải trí mà còn phục vụ nhu cầu công việc. Hình 5. Ô tô trong những năm đầu thế kỷ 21 5 Hình 6. Các hệ thống tiện nghi trên ô tô 6 Chương 2 HỆ THỐNG GẠT NƯỚC-RỬA KÍNH XE VÀ ĐÈN PHA 2.1. Chức năng và yêu cầu Hệ thống gạt nước và rửa kính là một hệ thống đảm bảo cho người lái nhìn được rõ bằng cách gạt nước mưa trên kính trước và kính sau khi trời mưa. Hệ thống có thể làm sạch bụi bẩn trên kính chắn gió phía trước nhờ thiết bị rửa kính. Vì vậy, đây là thiết bị cần thiết cho sự an toàn của xe khi chạy. Gần đây một số kiểu xe có thể thay đổi tốc110 độ gạt nước theo tốc độ xe và tự động gạt nước khi trời mưa. Hình 2.1. Hệ thống gạt nước trên ô tô 2.2. Cấu trúc hệ thống và các cụm thiết bị hệ thống gạt nước- rửa kính xe 2.2.1. Cấu trúc hệ thống Hệ thống gạt nước và rửa kính gồm các bộ phận sau: 1. Cần gạt nước phía trước/Lưỡi gạt nước phía trước 2. Motor và cơ cấu dẫn động gạt nước phía trước 3. Vòi phun của bộ rửa kính trước 4. Bình chứa nước rửa kính (có motor rửa kính) 5. Công tắc gạt nước và rửa kính (Có relay điều khiển gạt nước gián đoạn) 6. Cần gạt nước phía sau/lưỡi gạt nước phía sau 7. Motor gạt nước phía sau 8. Relay điều khiển bộ gạt nước phía sau 9. Bộ điều khiển gạt nước (ECU J/B phía hành khách) 10. Cảm biến nước mưa 7 Hình 2.2. Các bộ phận của hệ thống gạt nước thường Hình 2.3. Hệ thống gạt nước tự động 8 2.2.2. Các cụm thiết bị hệ thống gạt nước- rửa kính xe 2.2.2.1. Cần gạt nước/ thanh gạt nước a. Khái quát chung Cấu trúc của cần gạt nước là một lưỡi cao su gạt nước được lắp vào thanh kim loại gọi là thanh gạt nước. Gạt nước được dịch chuyển tuần hoàn nhờ cần gạt. Vì lưỡi gạt nước được ép vào kính trước bằng lò xo nên gạt nước có thể gạt được nước mưa nhờ dịch chuyển thanh gạt nước. Chuyển động tuần hoàn của gạt nước được tạo ra bởi motor và cơ cấu dẫn động. Vì lưỡi cao su lắp vào thanh gạt nước bị mòn do sử dụng và do ánh sáng mặt trời và nhiệt độ môi trường v.v nên phải thay thế phần lưỡi cao su này một cách định kỳ. Hình 2.4. Cấu tạo cần gạt nước b. Gạt nước được che một nửa/gạt nước che hoàn toàn: Gạt nước thông thường có thể nhìn thấy từ phía trước của xe. Tuy nhiên để đảm bảo tính khí động học, bề mặt lắp ghép phẳng và tấm nhìn rộng nên những gạt nước gần đây được che đi dưới nắp ca pô. Gạt nước có thể nhìn thấy một phần gọi là gạt nước che một nửa, gạt nước không nhìn thấy được gọi là gạt nước che hoàn toàn. Với gạt nước che hoàn toàn: nếu nó bị phủ băng tuyết hoặc ở trong các điều kiện khác, thì gạt nước không thể dịch chuyển được. Nếu cố tình làm sạch tuyết bằng cách cho hệ thống gạt nước hoạt động cưỡng bức có thể làm hỏng motor gạt nước. Để ngăn ngừa hiện tượng này, phần lớn các mẫu xe có cấu trúc chuyển chế độ gạt nước che hoàn toàn sang chế độ gạt nước che một phần bằng tay. Sau khi bật sang gạt nước che một nửa, cần gạt nước có thể đóng trở lại bằng cách dịch chuyển nó theo hớng mũi tên được chỉ ra trên hình vẽ. 9 Hình 2.5. Gạt nước che một nửa và che hoàn toàn 2.2.2.2. Công tắc gạt nước và rửa kính a. Công tắc gạt nước Công tắc gạt nước được bố trí trên trục trụ lái, đó là vị trí mà người lái có thể điều khiển bất kỳ lúc nào khi cần. Công tắc gạt nước có các vị trí OFF (dừng), LO (tốc độ thấp) và HI (tốc độ cao) và các vị trí khác để điều khiển chuyển động của nó. Một số xe có vị trí MIST (gạt nước chỉ hoạt động khi công tắc gạt nước ở vị trí MIST (sương mù), vị trí INT (gạt nước hoạt động ở chế độ gián đoạn trong một khoảng thời gian nhất định) và một công tắc thay đổi để điều chỉnh khoảng thời gian gạt nước. Trong nhiều trường hợp công tắc gạt nước và rửa kính được kết hợp với công tắc điều khiển đèn. Vì vậy, đôi khi người ta gọi là công tắc tổ hợp. Ở những xe có trang bị gạt nước cho kính sau, thì công tắc gạt nước sau cũng nằm ở công tắc gạt nước và được bật về giữa các vị trí ON và OFF. Một số xe có vị trí INT cho gạt nước kính sau. Ở những kiểu xe gần đây, ECU được đặt trong công tắc tổ hợp cho MPX (hệ thống thông tin đa chiều). Hình 2.6. Công tắc gạt nước 10 b. Relay điều khiển gạt nước gián đoạn Relay này kích hoạt các gạt nước hoạt động một cách gián đoạn. Phần lớn các kiểu xe gần đây các công tắc gạt nước có relay này được sử dụng rộng rãi. Một relay nhỏ và mạch Transistor gồm có tụ điện và điện trở cấu tạo thành relay điều khiển gạt nước gián đoạn. Dòng điện tới motor gạt nước được điều khiển bằng relay theo tín hiệu được truyền từ công tắc gạt nước làm cho motor gạt nước chạy gián đoạn. c. Công tắc rửa kính Công tắc bộ phận rửa kính được kết hợp với công tắc gạt nước. Khi bật công tắc này thì motor rửa kính hoạt động và phun nước rửa kính. Hình 2.7. Hệ thống phun nước 2.2.2.3. Motor gạt nước a. Khái quát chung Motor gạt nước là dạng động cơ điện một chiều kích từ bằng nam chậm vĩnh cửu. Bao gồm: motor và bộ truyền bánh răng để làm giảm tốc độ ra của motor. Motor gạt nước có 3 chổi than tiếp điện: chổi tốc độ thấp, chổi tốc độ cao và một chổi dùng chung (để tiếp mát). Một công tắc dạng cam được bố trí trong bánh răng để gạt nước dừng ở vị trí cố định trong mọi thời điểm. 11 Hình 2.8. Cấu tạo motor gạt nước b. Chuyển đổi tốc độ mô tơ Một sức điện động ngược được tạo ra trong cuộn dây phần ứng khi motor quay để hạn chế tốc độ quay của motor. - Hoạt động ở tốc độ thấp: Khi dòng điện đi vào cuộn dây phần ứng từ chổi than tốc độ thấp, một sức điện động ngược lớn được tạo ra. Kết quả là motor quay với vận tốc thấp. - Hoạt động ở tốc độ cao: Khi dòng điện đi vào cuộn dây phần ứng từ chổi tiếp điện tốc độ cao, một sức điện động ngược nhỏ được tạo ra. Kết quả là motor quay với tốc độ cao. c. Công tắc dạng cam Có chức năng dừng thanh gạt nước tại vị trí cố định. Do vậy, thanh gạt nước luôn được bảo đảm dừng ở dưới cùng của kính chắn gió khi tắt công tắc gạt nước. Công tắc này có đĩa cam xẻ rãnh chữ V và 3 điểm tiếp xúc. Khi công tắc gạt nước ở vị trí LO/HI, điện áp ắc qui được đặt vào mạch điện và dòng điện đi vào motor gạt nước qua công tắc gạt nước làm cho motor gạt nước quay. Tuy nhiên, ở thời điểm công tắc gạt nước tắt, nếu tiếp điểm P2 ở vị trí tiếp xúc mà không phải ở vị trí rãnh thì điện áp của ắc qui vẫn được đặt vào mạch điện và dòng điện đi vào motor gạt nước tới tiếp điểm P1 qua tiếp điểm P2 làm cho motor tiếp tục quay. Sau đó bằng việc quay đĩa cam làm cho tiếp điểm P2 ở vị trí rãnh do đó dòng điện không đi vào mạch điện và motor gạt nước bị dừng lại. Tuy nhiên, do quán tính của phần ứng, motor không dừng lại ngay lập tức và tiếp tục quay một ít. Kết quả là tiếp điểm P3 vượt qua điểm dẫn điện của đĩa cam. Thực hiện việc đóng mạch như sau: 12 Hình 2.9. Hoạt động của công tắc dạng cam Phần ứng Cực (+)1 của motor công tắc gạt nước cực S của motor gạt nước tiếp điểm P1 P3 phần ứng. Vì phần ứng tạo ra sức điện động ngược trong mạch đóng này, nên quá trình hãm motor bằng điện được tạo ra và motor được dừng lại tại điểm cố định. 2.2.2.4. Motor rửa kính a. Motor rửa kính trước/kính sau Hình 2.10. Motor rửa kính Hình 2.11. Hoạt động kết hợp rửa kính và gạt nước Đổ nước rửa kính vào bình chứa trong khoang động cơ. Bình chứa nước rửa kính được làm từ bình nhựa mờ và nước rửa kính được phun nhờ motor rửa kính đặt trong bình chứa. Motor bộ rửa kính có dạng cánh quạt như được sử dụng trong bơm nhiên liệu. Có hai loại hệ thống rửa kính đối với ô tô có rửa kính sau: Một loại có bình chứa chung cho cả bộ phận rửa kính trước và sau, còn loại kia có hai bình chứa riêng cho bộ phận 13 rửa kính trước và bộ phận rửa kính sau. Ngoài ra, còn có một loại điều chỉnh vòi phun cho cả kính trước và kính sau nhờ motor rửa kính điều khiển các van và một loại khác có hai motor riêng cho bộ phận rửa kính trước và bộ phận rửa kính sau được đặt trong bình chứa. b. Vận hành kết hợp với bộ phận rửa kính Loại này tự động điều khiển cơ cấu gạt nước khi phun nước rửa kính sau khi bật công tắc rửa kính một thời gian nhất định, đó là “sự vận hành kết hợp với bộ phận rửa kính”. Đó là sự vận hành để gạt nước rửa kính được phun trên bề mặt kính trước. 2.3. Điều khiển và sơ đồ mạch hệ thống gạt nước và rửa kính xe cơ bản 2.3.1. Khi công tắc gạt nước ở vị trí LOW/MIST Khi công tắc gạt nước được bật về vị trí tốc độ thấp hoặc vị trí gạt sương, dòng điện đi vào chổi than tiếp điện tốc độ thấp của motor gạt nước (từ nay về sau gọi tắt là “LO”) như được chỉ ra trên hình vẽ và gạt nước ... c 10 km/h, ly hợp từ bật trở lại để phục hồi tốc độ chạy tự động. Chức năng điều khiển hạ thấp tốc độ Khi chênh lệch giữa tốc độ thực của xe và tốc độ đặt trƣớc khoảng 5 km/h, tốc độ đặt trƣớc có thể hạ xuống khoảng 1,6 km/h mỗi lần bật nhanh công tắc đến SET/COAST. Chức năng điều khiển nâng cao tốc độ Khi chênh lệch giữa tốc độ thực của xe và tốc độ đặt trƣớc khoảng 5 km/h, tốc độ đặt trƣớc có thể tăng lên khoảng 1,6 km/h mỗi lần bật nhanh công tắc đến RES/ACC (trong khoảng 0,6 giây). Chức năng chẩn đoán 103 Chức năng thông báo hƣ hỏng và mã lỗi của CCS 7.2.2.3. Bộ phận dẫn động (Actuator) a. Bộ phận dẫn động bằng chân không Hình 7.15. Bộ dẫn động bằng chân không Van điều khiển: Bộ trợ lực hoạt động bằng chân không gồm một tấm màng hoạt động bằng lò xo với van cung cấp, van này dƣợc điều khiển bằng solenoid. Khi hệ thống không sử dụng đến, solenoid của van điều khiển sẽ là thƣờng đóng trong lúc đó, solenoid van thong hơi sẽ cho khí trời đi vào. Màng của bộ trợ lực và lò xo sẽ giãn ra và góc mở cánh bƣớm ga sẽ không đƣợc điều chỉnh. Việc đóng và mở những van này trong khi hoạt động sẽ duy trì đƣợc việc thiết lập tốc độ di chuyển của ô tô trên đƣờng nhƣ mong muốn. Van xả: Dùng để dẫn áp suất khí quyển vào trong bộ chấp hành khi hệ thống CCS bị hủy bỏ. Van xả còn đóng vai trò nhƣ một van an toàn nếu van điều khiển bị cố định tại vị trí cấp chân không do hƣ hỏng. Nó dẫn áp suất khí quyển từ van an toàn để đóng bƣớm ga, do vậy có thể giảm đƣợc tốc độ xe. Van xả nhƣ vậy bảo đảm tính an toàn khi lái xe. Sơ đồ mạch: 104 Hình 7.16. Sơ đồ mạch điện loại dẫn động bằng chân không Hệ số xung và điều khiển số xung: ECU gửi một dòng ngắt (tín hiệu xung) đến van điều khiển với tần số khoảng 20 Hz, bằng cách thay đổi khoảng thời gian dòng điện bật và tắt (đƣợc gọi là hệ số xung) sẽ làm tăng hay giảm độ chân không trong bộ chấp hành theo tốc độ xe. Khi dòng điện bật trong khoảng thời gian dài (hệ số xung cao) thì van chân không sẽ mở trong thời gian lâu hơn, độ chân không tăng trong bộ chấp hành, kết quả là bƣớm ga mở và tốc độ xe tăng lên. 105 Khi dòng điện tắt trong khoảng thời gian dài (hệ số xung thấp) thì van khí quyển sẽ mở trong khoảng thời gian lâu hơn, độ chân không tăng trong bộ chấp hành, kết quả là bƣớm ga đống và tốc độ xe giảm xuống. Sự hoạt động của cơ cấu chấp hành: Khi xe hoạt động ở tốc độ không thay đổi, tăng hay giảm tốc van điều khiển và van xả trong bộ chấp hành hoạt động để điều khiển tốc độ xe. Hoạt động và sự liên hệ của các van này ứng với từng điều kiện lái xe đƣợc tổng kết trong bảng sau: 106 Hình 7.17. Sự phối hợp hoạt động của van điều khiển và van xả. Hình 7.18. Sơ đồ phối hợp tốc độ xe với các trạng thái của van điều khiển và van xả b. Bộ dẫn động bằng motor 107 Bộ chấp hành gồm một motor, ly hợp từ và biến trở, thực hiện nhiệm vụ truyền tác động điều khiển từ ECU đến bƣớm ga tƣơng tự nhƣu bộ dẫn động bằng chân không. Sơ đồ mạch: M Ly hợp từ Biến trở Công tắc điều khiển CCS CMS GND MAIN RESUM/ ACCEL CANCEL SET/ COAST Ắc quy L BATT Công tắc đèn phanh Đèn phanh Công tắt ly hợp Công tắt khởi động trung gian (A/T) (A/T) M Máy khởi động Công tắt phanh tay (M/T) Đến đồng hồ tốc độ Khóa điện IG ST STP TC MO1 MO2 VCC VTA1 E2 Giắc kiểm tra Đèn báo Cảm biến tốc độ Main FL Cầu chì GAUSE SPD E C U Đ IỀ U K H IỂ N C H Ạ Y T Ự Đ Ộ N G ECU động cơ Công tắt IDL PI BK D IG Bộ chấp hành Hình 7.19. Sơ đồ mạch điện loại dẫn động bằng motor 108 7.3. Điều khiển và sơ đồ mạch 7.3.1. Nguyên lí hoạt động của CCS Hệ thống CCS bao gồm: Cảm biến tốc độ xe, các công tắc, bộ chấp hành và bộ vi xử lý (bộ CCS ECU điều khiển chạy tự động). Bộ điều khiển sẽ nhận tín hiệu từ công tắc điều khiển chính, bộ cảm biến tốc độ và công tắc thắng. Nếu hệ thống đang sử d ụng bộ c ảm biến vị trí cụm trợ l ực hoặc vị trí cánh bƣớm ga, tín hiệu của nó sẽ đƣợc gởi đến bộ điều khiển. Một mạch điện đồng hồ sẽ thay đổi tín hiệu xung trên km thành tín hiệu xung trên giây - Hz (biến đổi A/D). Mạch tích hợp bộ kích thích và lôgic (IC) đƣợc chia làm 2 mạch điện: một mạch sẽ lƣu trữ tần số đƣợc thiết đặt, mạch khác sẽ giám sát tần số c ủa bộ c ảm biến tốc độ. Hai tần số này sẽ đƣợc so sánh với nhau bằng bộ điều khiển. Nếu tìm thấy sự khác nhau giữa 2 tần số, ECU gởi tín hiệu điều khiển đến cơ cấu chấp hành để điều chỉnh vị trí cánh bƣớm ga duy trì tốc độ ôtô ở giá trị thiết đặt. Có hai loại cơ cấu chấp hành: Loại dẫn động chân không và loại môtơ bƣớc, ngày nay chủ yếu là dùng loại chân không, tuy nhiên xu hƣớng tƣơng lai sẽ s ử d ụng nhiều loại mô tơ để điểu khiển tốc độ xe chính xác hơn. Hình 7.20. Sơ đồ CCS dẫn động bằng chân không 109 Hình 7.21.Hệ thống CCS dẫn động bằng mô tơ 7.3.2. Nguyên lí điều khiển 7.3.2.1. Sơ đồ nguyên lí Hệ thống CCS hoạt động theo nguyên lí điều khiển hồi tiếp, sơ đồ nguyên lí nhƣ sau: Hình 7.22. Sơ đồ điều khiển CCS Tín hiệu đầu vào chính là tốc độ theo ý muốn của ngƣời lái và tốc độ thực của xe. Các tín hiệu quan trọng khác là sự điều chỉnh Faster- accel/Slower- coast của ngƣời lái, Resume, On/Off, công tắc phanh, và tín hiệu điều khiển động cơ. Tín hiệu đầu ra chủ yếu là trị số của bộ trợ lực điều khiển bƣớm ga, đèn báo ONN của CCS, những chỉ báo phục vụ bảo dƣỡng và những thong tin gửi về bộ lƣu trữ phục vụ chẩn đoán hƣ hỏng. 110 7.3.2.2. Sơ đồ mạch và sơ đồ khối Hình 7.23. Sơ đồ khối hệ thống CCS 111 Hình 7.24. Sơ đồ mạch điện hệ thống CCS Tín hiệu đầu vào: Cảm biến tốc độ là bộ phận chính yếu nhất của hệ thống, bời vì bộ CCS ECU đo đạt tốc độ xe từ bộ cảm biến tốc độ trong phạm vi 1/32 (m/h). Mọi dây cáp của đồng hồ tốc độ hay sự dao động đều gây sai lệch trong tính toán tốc độ. Sự sai lệch trong tính toán tốc độ có thể đƣợc giảm thiểu bằng chu kì đo đạt. Cảm biến tốc độ dẫn động cho Microcontroller’s Timer Input Capture Line hayInterrupt Line bên ngoài. Bộ ECU sẽ tính toán tốc độ xe từ tần số của tín hiệu, bộ cảm biến và từ cơ sở thời gian bên trong ECU. Trị số tốc độ của xe sẽ đƣợc cập nhật lien tục và đƣợc lƣu trữ trong bộ nhớ RAM và đƣợc xử lí bởi chƣơng trình điều khiển tốc độ cơ sở. Thông thƣờng bộ cảm biến tốc độ là một 112 máy phát xoay chiều đơn giản đƣợc bố trí ở hộp số hay cáp truyền động đồng hồ tốc độ. Máy phát xoay chiều này tạo ra một điện áp xoay chiều với tần số tỉ lệ với cảm biến tốc độ vòng và tốc độ của xe. Cảm biến quang học tại đầu đồng hồ tốc độ cũng có thể dduwwocj sử dụng. Thông thƣờng cảm biến tốc độ tạo ra một số xung hay chu kì trên mỗi Km. Cùng với việc sử dụng phanh chống trƣợt ABS ngày càng nhiều, trị số cảm biến bổ sung có thể nhận đƣợc từ bộ cảm biến tốc độ đặt tại bộ ABS tại bánh xe. Dũ liệu về tốc độ từ hệ thống ABS có thể thu đƣợc thông qua MUX. Tín hiệu đầu vào của hệ thống CCS có thể là từ mỗi công tắc do ngƣời lái thiết đặt hoặc nhiều tín hiệu Analog khác đƣợc chuyển đổi thành tìn hiệu đầu vào dạng Digital. Ngoài ra còn các thong số khác cũng đƣợc tham chiếu đến đó, đó là cảm biến vị trí bƣớm ga, tình trạng của ly hợp hay hệ thống truyền lực. Các tín hiệu đầu vào khác sử dụng trong hệ thống CCS là vị trí bƣớm ga, hộp số, bộ ly hợp, tình trạng bộ A/C, chẩn đoán bộ chấp hành, tình trạng động cơ, những tín hiệu này có thể lấy từ mạng dữ liệu MUX. 7.2.3.3. Thuật toán điều khiển chạy tự động Chƣơng trình điều khiển chạy tự động đƣợc thiết lập dựa vào lí thuyết điều khiển mờ “Fuzzy Control”, ngƣời ta có thể thiết kế thành công một hệ thống điều khiển tự động cho những đối tƣợng có quá nhiều thong số đầu vào tác động mà theo lí thuyết điều khiển tự động cổ điển trƣớc đây khó long giải quyết nổi. Tín hiệu đầu ra rất ổn định dù cho tín hiệu đầu vào có thể biến đổi đa dạng. Sự vận hành của chương trình điều khiển: Hình 7.25. Thuật toán điều khiển ga tự động Bộ vi xử lí đƣợc lập trình để đo đạt tốc độ xe và ghi lại mức độ chạy theo trớn của xe và ở xu hƣớng của nó là tăng hay giảm. Phƣơng pháp PI tiêu chuẩn tạo ra tín hiệu đầu ra P tỉ lệ với sự khác biệt giữa tốc độ xe đã đƣợc cài đặt và tốc độ thực của xe (độ sai lệch) bởi một trị số tỉ lệ Gain Block KP. Một tín hiệu KI đƣợc tạo ra và biến động lên xuống theo một tỉ lệ phụ thuộc vào độ sai lệch của tín hiệu. 113 Kiểm soát tín hiệu đầu ra: Khi tín hiệu sai đƣợc xử lí, một tín hiệu đƣa đến bộ chấp hành đƣợc tạo ra để mở lớn bƣớm ga, giữu ở vị trí cố định hay giảm bớt bƣớm ga. Bộ trợ lực đƣợc cập nhật với đặc tính cơ khí của bộ trợ lực, có thể đến vài phần ngàn của giây. Tín hiệu sai lệch có thể đƣợc xử lí nhanh hơn, vì vậy tạo ra thời gian cho vài giá trị trung bình của cảm biến tốc độ xe. Điều khiển bƣớm ga có thể là loại trợ lực chân không truyền thống hay motor bƣớc. Ở loại trợ lực chân không, chân không tác động vào bộ chấp hành đƣợc xả ra theo quy trình xử lí sự cố bất cứ khi nào hệ thống phanh tác động với mục đích bổ sung cho quá trình đóng cuộn solenoid điều khiển bộ chấp hành. Bộ trợ lực kiểu motor điện đòi hỏi sự truyền động điện tử phức tạp hơn và một vài cơ cấu xử lí sự cố cơ khí đƣợc kết nối vào hệ thống phanh. 114 Chƣơng 8 MỘT SỐ THIẾT BỊ KHÁC (ĐỒ CHƠI TRÊN ÔTÔ) 8.1. Tổng quan Đó là những thiết bị công nghệ điện tử sẽ đƣợc tích hợp nhiều tính năng thông tin qua GPS vừa giúp tài xế điều khiển xe an toàn vừa giải trí, thƣ giãn trên hành trình. Các mặt hàng nhƣ đầu DVD, màn hình tinh thể lỏng, dàn âm thanh, máy khử mùi.... Những đồ chơi cơ bản nhƣ dàn máy CD, VCD, đèn sƣơng mù, cản bảo vệ xe phía trƣớc-sau, ốp gỗ, che nắng xe, thảm trải, nƣớc hoa. Ngoài những vật dụng nhƣ trên thì việc sử dụng dàn âm thanh radio-cassette, CD có sẵn là không đủ mà chuyển sang sử dụng đầu DVD, tivi màn hình tinh thể lỏng 5-12 inch do Mỹ, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc sản xuất với các thƣơng hiệu nhƣ Kenwood, JVC, Newvox... Giá bán các bộ màn hình này dao động từ 5-15 triệu đồng/bộ, tùy thƣơng hiệu. Tùy theo thƣơng hiệu mà chi phí cho thiết bị này có thể lên tới vài chục triệu đồng/bộ. Ngoài thiết bị âm thanh, hình ảnh, chủ xe có thể nâng cấp salon bằng cách bọc da toàn bộ nội thất xe, thay vô-lăng gỗ, tay nắm cần số bằng gỗ tích hợp công tắc còi và đèn... Giá một bộ bọc đệm da cho xe 4 chỗ khoảng 5,5 triệu đồng, cho xe 7 chỗ khoảng 8 triệu đồng. Bên cạnh đó, thị trƣờng năm nay còn xuất hiện ghế mát xa do Trung Quốc và Hàn Quốc sản xuất với giá khoảng 800.000đồng đến 1,5 triệu đồng/chiếc. 8.2. Một số “Đồ chơi” trên ôtô 8.2.1. Mở khóa bằng cảm biến. Nhiều khả năng trong những năm tới tài xế sẽ không cần phải mang theo một chiếc chìa khóa vƣớng víu trong túi. Hệ thống khóa trên xe hơi có thể sẽ đƣợc mở bằng một nút cảm biến vân tay tích hợp trên cửa xe. Những chiếc xe cao cấp hơn có thể sẽ nhận biết đƣợc bàn tay chủ nhân và tự động mở cửa ngay khi tài xế chạm vào. 115 Khi ngồi trong xe, tài xế cũng chỉ cần nhấn nút khởi động mà không cần tra khóa vào ổ. Những lo ngại về an toàn sẽ đƣợc những cảm biến nhận diện trên ô tô xử lý. 8.2.2.Màn hình - Rất nhiều màn hình. Trong tƣơng lai, màn hình sẽ không chỉ có mặt trên TV, máy tính bảng hay điện thoại, nó còn phổ biến trong ngành công nghiệp xe hơi. Trong thời gian qua hầu hết những mẫu xe mới từ trung cấp trở lên đều đƣợc trang bị 1 đến 2 màn hình hiển thị. Thậm chí, một số mẫu xe giá rẻ cũng đƣợc trang bị tính năng này. Mặc dù việc trang bị màn hình lớn, độ phân giải cao mang tính giải trí cao hơn nhƣng cũng kéo theo những lo ngại về việc an toàn do dễ mất tập trung khi lái xe. Những màn hình cảm ứng cỡ lớn trong ô tô sẽ phổ biến hơn trong thời gian tới. 8.2.3. Camera Khác với màn hình bị cho là làm giảm an toàn khi lái xe, camera đƣợc trang bị nhiều trên xe hơi đóng vai trò nhƣ những con mắt giúp tài xế quan sát tốt hơn. Camera có thể đƣợc lắp trên gƣơng giúp quan sát điểm mù, phía trƣớc để giảm thiểu va chạm, phía sau để phát hiện vật cản khi lùi, đỗ xe. Thậm chí camera có thể đƣợc lắp để giám sát tài xế, cảnh báo hệ thống an toàn xử lý khi tài xế mất tập trung. 8.2.4. Ghế “điều hòa”. Ghế “điều hòa” đƣợc Saab đi tiên phong từ những năm 1990. Sau một vài cải tiến, những chiếc ghế tiện ích này đƣợc trang bị trên nội thất những chiếc xe hơi sang trọng, đắt tiền. 116 Tuy nhiên, nhờ những công nghệ sản xuất mới có chi phí thấp hơn cũng nhƣ chiến lƣợc mới nhiều nhà sản xuất đang có xu hƣớng trang bị những công nghệ này trên những chiếc xe giá rẻ hơn. Hiện nay, ghế điều hòa” đƣợc trang bị những tính năng nhƣ sƣởi ấm hay làm mát mằng những chiếc quạt thông gió tích hợp bên trong... Công nghệ tự động phanh khi phát hiện vật cản. Công nghệ an toàn mới với sự hỗ trợ của các cảm biến, camera giúp xe có thể tự động dừng hay chạy chậm khi phát hiện vật cản, có khả năng gây va chạm đã bắt đầu có mặt trên những chiếc xe cao cấp và hạng trung trong một vài năm trở lại đây. Nhiều chuyên gia dự đoán các thƣơng hiệu xe hơi có thể sẽ trang bị công nghệ an toàn này trên những chiếc xe giá rẻ hơn nhờ những đột phá trong công nghệ vật liệu, khiến chi phí sản xuất linh kiện ít hơn. Cũng có thể khi có mặt trên xe giá rẻ, công nghệ an toàn trên sẽ bị cắt bỏ một số tính năng nhƣng nó vẫn sẽ đảm nhiệm đúng vai trò của mình. Camera không chỉ giúp tài xế quan sát tốt hơn mà còn là con mắt của những công nghệ an toàn mới. 8.2.5. Hộp số 9 cấp. Hiện nay, với nhiều ƣu điểm nhất là khả năng tiết kiệm nhiên liệu hộp số nhiều cấp đang đƣợc nhiều thƣơng hiệu xe hơi trên thế giới quan tâm. Các hãng lớn nhƣ Ford, GM, VW đều cho biết đang phát triển hoàn thiện hơn nữa hộp số 8,9, thậm chí 10 cấp. Do sự phức tạp của công nghệ hộp số, những hộp số 9, 10 cấp sẽ phải mất một thời gian dài mới có thể đƣợc trang bị phổ biến trên một số phân khúc nhất định. 8.2.6. Ứng dụng và internet 117 Thực chất, ứng dụng và internet đƣợc phát triển đi đôi với việc trang bị màn hình trên xe hơi. Những màn hình cảm ứng lớn, độ phân giải cao chính là bƣớc đệm dẫn đƣờng những ứng dụng, mạng di động phổ biến hơn trên xe hơi. Nhiều hãng xe hơi trên thế giới đã nhanh chân tích hợp công nghệ mạng và ứng dụng vào hệ thống thông tin giải trí của mình. Tài xế có thể tải ứng dụng hay đọc báo thông qua màn hình hiển thị. Tuy nhiên, công nghệ trên cũng làm dấy lên lo ngại về an toàn do tài xế có thể mất tập trung, cũng nhƣ xe hơi có thể bị kẻ xấu lợi dụng thông qua mạng và ứng dụng. Những công nghệ an toàn mới, công nghệ mạng, ứng dụng là tiền đề cho những chiếc xe tự lái trong tƣơng lai 8.2.7. Xe tự lái Xe tự lái là một thành tựu mới trong nghành công nghiệp ô tô. Cho đến thời điểm hiện tại công nghệ xe tự lái vẫn chƣa thực sự hoàn thiện. Nói đến công nghệ xe tự lái phải kể đến Audi và Toyota cũng đang phát triển những chiếc xe an tự lái của riêng mình. Đƣợc biết, các nhà khoa học Anh tại trƣờng đại học Oxford cũng đang có những thử nghiệm với xe tự lái có chi phí thấp hơn nhiều so với những nghiên cứu của Google hay Audi. Điều này hứa hẹn những chiếc xe tự lái trong tƣơng lai sẽ có giá cả phải chăng hơn.
File đính kèm:
- bai_giang_trang_bi_tien_nghi_tren_o_to.pdf