Bài giảng Xử lý ảnh - Chương 19: Nhận dạng mẫu - Kích thước đối tượng
19.1. GIỚI THIỆU
Trong chương 18, chúng ta đã giới thiệu về nhận dạng mẫu và đã đề cập đến sự
tách và trích các đối tượng từ một cảnh phức tạp. Trong chương này, chúng ta sẽ chỉ
ra những vấn đề về đo lường các đối tượng, để có thể nhận biết chúng thông qua các
số đo của chúng. Vấn đề này đã tốn rất nhiều giấy mực và ở đây chúng ta chỉ có thể
giới thiệu các khái niệm cơ bản mà thôi. Để nghiên cứu chi tiết hơn, độc giả nên
tham khảo tài liệu về phân tích ảnh. (Phụ lục 2)
19.2. ĐO LƯỜNG KÍCH THƯỚC
Trong phần này, chúng ta sẽ xem xét một vài đặc tính hữu dụng phản ảnh kích
thước một đối tượng. Những đặc tính này đã trở nên phổ biến vì chúng quan trọng
trong các bài toán nhận dạng mẫu khác nhau và chúng rất thích hợp cho phân tích
ảnh số.
Thứ nhất nó rất thuận tiện để tính giới hạn không gian dưới dạng các điểm ảnh và
giới hạn quang trắc (photometric) dưới dạng mức xám. Sau đó, chiều dài diện tích có
thể được xác định bằng cách nhân chúng với khoảng cách điểm ảnh hay diện tích
một điểm ảnh thích hợp. Đường cong xác định quang trắc của bộ số hoá có tác dụng
như một phương tiện chuyển đổi mức xám thành đơn vị quang trắc. Thường thì đây
là một biểu thức tuyến tính đơn giản. Các phép toán điểm bất kỳ (chương 6) được
thực hiện trên ảnh cũng phải được sáng tỏ trong sự xác định quang trắc.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Xử lý ảnh - Chương 19: Nhận dạng mẫu - Kích thước đối tượng
380 Ch¬ng 19 NHẬN DẠNG MẪU: KÍCH THƯỚC ĐỐI TƯỢNG 19.1. GIỚI THIỆU Trong chương 18, chúng ta đã giới thiệu về nhận dạng mẫu và đã đề cập đến sự tách và trích các đối tượng từ một cảnh phức tạp. Trong chương này, chúng ta sẽ chỉ ra những vấn đề về đo lường các đối tượng, để có thể nhận biết chúng thông qua các số đo của chúng. Vấn đề này đã tốn rất nhiều giấy mực và ở đây chúng ta chỉ có thể giới thiệu các khái niệm cơ bản mà thôi. Để nghiên cứu chi tiết hơn, độc giả nên tham khảo tài liệu về phân tích ảnh. (Phụ lục 2) 19.2. ĐO LƯỜNG KÍCH THƯỚC Trong phần này, chúng ta sẽ xem xét một vài đặc tính hữu dụng phản ảnh kích thước một đối tượng. Những đặc tính này đã trở nên phổ biến vì chúng quan trọng trong các bài toán nhận dạng mẫu khác nhau và chúng rất thích hợp cho phân tích ảnh số. Thứ nhất nó rất thuận tiện để tính giới hạn không gian dưới dạng các điểm ảnh và giới hạn quang trắc (photometric) dưới dạng mức xám. Sau đó, chiều dài diện tích có thể được xác định bằng cách nhân chúng với khoảng cách điểm ảnh hay diện tích một điểm ảnh thích hợp. Đường cong xác định quang trắc của bộ số hoá có tác dụng như một phương tiện chuyển đổi mức xám thành đơn vị quang trắc. Thường thì đây là một biểu thức tuyến tính đơn giản. Các phép toán điểm bất kỳ (chương 6) được thực hiện trên ảnh cũng phải được sáng tỏ trong sự xác định quang trắc. 19.2.1. Diện tích và chu vi Diện tích của một đối tượng nói chung là một phép đo kích thước đối tượng thích hợp. Tuỳ thuộc vào đường bao của đối tượng mà một phép đo diện tích thường không để ý đến những thay đổi mức xám bên trong. Chu vi của một đối tượng rất hữu dụng trong việc phân biệt hình dạng đơn giản và phức tạp giữa các đối tượng. Một đối tượng có hình dạng đơn giản sử dụng chu vi nhỏ hơn để bao quanh diện tích của nó. Các phép đo diện tích và chu vi được tính toán dễ dàng trong suốt quá trình trích một đối tượng từ một ảnh phân đoạn. Định nghĩa đường bao. Trước khi chúng ta có thể chỉ rõ một thuật giải để đo lường diện tích hay chu vi một đối tượng, chúng ta phải thiết lập một định nghĩa về đường bao đối tượng. Đặc biệt, chúng ta phải đảm bảo rằng chúng ta sẽ không đo lường chu vi một đa giác này và diện tích của đa giác khác. Vấn đề cần phải giải quyết là, các điểm ảnh bao quanh hoàn toàn hay chỉ bao quanh từng phần của đối tượng? Nói cách khác, đường bao thực sự của một đối tượng nối liền tâm các điểm ảnh hay bao quanh các biên bên ngoài của chúng? Diện tích tổng số điểm ảnh. Phép đo diện tích đơn giản nhất là đếm số lượng điểm ảnh bên trong (và kể cả) đường bao. Chu vi tương ứng với định nghĩa này là 381 khoảng cách xung quanh phía ngoài tất cả các điểm ảnh. Bình thường, phép đo khoảng cách này bao gồm một lượng lớn các chỗ rẽ ngoặt 900, do đó tạo ra một giá trị chu vi quá mức. Chu vi đa giác. Có lẽ một phương pháp tiếp cận thích hợp hơn để đo chu vi một đối tượng là thiết lập đường bao đối tượng đa giác có đỉnh nằm tại tâm của từng điểm ảnh bao quanh. Chu vi là tổng của các đoạn bên ( p = 1) và các đoạn chéo ( 2 p ). Tổng này có thể được tích luỹ trong khi trích đối tượng bằng cách mã hoá phân doạn dòng (Xem phần 18.8.3) hay đi qua vòng quanh đường bao trong khi xây dựng mã chuỗi (Xem phần 18.8.2). chu vi của một đối tượng là oe NNp 2 (1) trong đó Ne là số các đoạn chẵn và No là số các đoạn lẻ trong chuỗi mã đường bao khi sử dụng quy ước của hình 18-30. Chu vi cũng được tính đơn giản từ các tệp phân đoạn đối tượng bằng tổng khoảng cách tâm đến tâm các điểm ảnh liên tiếp nhau trên đường bao. Diện tích đa giác. Diện tích đa giác được định nghĩa theo tam điểm ảnh là tổng số điểm ảnh trừ đimột nửa lượng điểm ảnh đường bao cộng thêm một; tức là 1 2 b o N NA (2) trong đó No và Nb là số lượng các điểm ảnh tương ứng thuộc đối tượng (bao gồm cả các điểm ảnh bao) và trên đường bao. Chỗ đúng này của diện tích tổng số điểm ảnh thừa nhận, tính trung bình, một nửa điểm ảnh bao nằm trong, một nửa ngoài đối tượng. Hơn thế nữa, khi một đường cong kín quay bị ngang, một giá trị nữa của điểm ảnh thuộc vùng nằm bên ngoài, là do độ lồi thực của đối tượng. Người ta có thể hiệu chỉnh phép đo diện tích gần đúng xuất phát từ tổng số điểm ảnh bằng cách trừ đi một nửa chu vi. 19.2.1.1. Tính diện tích và chu vi Có một phương pháp đơn giản để tính diện tích và chu vi một đa giác theo một đường đi của đa giác. Hình 19-1 minh hoạ trường hợp diện tích đa giác là tổng của diện tích tất cả các tam giác do các đường nối các đỉnh với điểm (x0, y0) tuỳ ý tạo ra. Không mất tính tổng quát, chúng ta có thể chọn điểm (x0, y0) là gốc hệ toạ độ của ảnh. Hình 19-2 giúp chúng ta có được một biểu thức diện tích một tam giác có một đỉnh nằm tại gốc toạ độ. Các đường ngang và dọc chia khu vực thành những hình chữ nhật. Một số hình nhận có đường chéo là các cạnh của tam giác. Vì thế, nửa diện tích của mối hình chữ nhật như vậy nằm ngoài tam giác. Nhìn vào hình, ta có thể viết 2112221112 2 1 2 1 2 1 yyxxyxyxyxdA (3) 382 HÌNH 19-1 Hình 19-1 Tính diện tích đa giác HÌNH 19-2 Hình 19-2 Tính diện tích tam giác Khai triển và nhóm các số hạn, biểu thức này được đơn giản hoá thành 12212 1 yxyxdA (4) Và diện tích tổng cộng trở thành bN i iiii yxyxA 1 112 1 (5) Trong đó Nb là số lượng các điểm biên. Lưu ý rằng, nếu gốc toạ độ nằm ngoài đối tượng thì một tam giác đặc biệt nào đó bao gồm cả một số vùng không thuộc đa giác. Cũng cần lưu ý rằng diện tích của mọt tam giác đặc biệt có thể dương hay âm, tuỳ thuộc vào chiều đi của đường bao. Khi một vòng kín bao quanh đường bao được tạo ra, tất cả những vùng nằm ngoài đối tượng đều bị loại trừ ra. Một tiếp cận đơn giản hơn cũng mang lại kết quả như vậy chính là nhờ định lý Green. Định lý này xuất phát từ phép tính tích phân và phát biểu rằng diện tích được bao bởi một đường cong kín trong mặt phẳng x, y được cho bởi tích phân kín ydxxdyA 2 1 (6) Trong đó tích phân được lấy theo đường cong kín. đối với các đoạn rời, biểu thức (6) trở thành 383 bN i iiiiii xxyyyxA 1 112 1 (7) Biểu thức này có dạng của biểu thức (5). Chu vi tương ứng là tổng chiều dài các cạnh của đa giác. Nếu tất cả các điểm biên của đa giác được coi như là các đỉnh, thì chu vi sẽ là tổng tất cả các số đo bên và chéo. 19.2.1.2. Làm trơn đường bao Thường thường, số đo chu vi cao một cách giả tạo vì nhiễu và vì các điểm biên bị lưới lấy mẫu hình chữ nhật hạn chế. Làm trơn đường bao bằng xử lý ảnh nhị phân (Phần 18.7) có thể giảm nhiễu, nhưng không thể làm giảm bớt những đường bọc quanh mẫu. Tuy nhiên, làm trơn đường bao có thể được xây dựng thêm thành phép đo diện tích và chu vi bằng cách chỉ sử dụng một tập con các điểm ảnh bao như các đỉnh. Đặc biệt trong các vùng có độ cong ít, ta có thể bỏ qua các điểm ảnh bao. Tuy nhiên, có quá nhiều vùng như vậy có thể làm mất đi hình dạng thật sự của đối tượng và làm giảm độ chính xác của phép đo. Làm trơn đường bao cũng có thể bị tác động bởi việc biểu diễn đường bao theo tham số. Nếu đối tượng có dạng lồi thì đường bao có thể được biểu diễn trong toạ độ cực xung quanh một điểm nào đó trong đối tượng (hình 19-3a). Trong trường hợp này, đường bao được chỉ rõ bằng một hàm dạng (). Yêu cầu duy nhất là chỉ có một giá trị với mọi . HÌNH 19-3 Hình 19-3 Biểu diễn đường bao tham số: (a) hàm đường bao cực; (b) hàm đường bao phức Nếu hình dạng phức tạp đến nỗi không tồn tại một điểm nào như vậy, thì đường bao có thể được biểu diễn bởi một hàm đường bao phức tổng quát hơn iii jyxpB (8) Trong đó pi là quãng đường dọc theo đường bao từ một điểm tuỳ ý đến điểm biên thứ i và i = 1, , Nb là chỉ số của các điểm biên (hình 19-3b). Trong cả hai trường hợp, hàm đường bao tham số đều tuần hoàn. Trong một chu kỳ, nó có thể được lọc thông thấp trong miền tần số bằng (1) một biến đổi Fourier, (2) bằng cách nhân với một hàm truyền đạt thông thấp không pha (chẵn hoặc lẻ) và (3) bằng một biến đổi Fourier ngược. 384 Các điểm thuộc hàm đường bao đã làm trơn không bị lưới lấy mẫu hạn chế nữa. có thể sử dụng tất cả hoặc một tập con các điểm nói trên như các đỉnh trong các phép tính diện tích và chu vi. Ngoài ra, ta phải sử dụng các đỉnh đã chọn trên đường bao để đảo ngược độ cong. 19.2.2. Mật độ trung bình và mật độ tích hợp IOD (Integrated Optical Density) là tổng mức xám của tất cả các điểm ảnh trong đối tượng. Nó phản ánh “khối lượng” hay “trọng lượng” đối tượng và về mặt số lượng, nó bằng diện tích nhân với mức xám bên trong đối tượng. Sự tính toán IOD đã được trình bày trong chương 5. mật độ trung bình đơn thuần chỉ là IOD chia cho diện tích. 19.2.3. Chiều dài và chiều rộng Đây là phương pháp dễd dàng để tính phạm vi chiều ngang và chiều dọc một đối tượng trích ra từ một ảnh. Chỉ cần chỉ số hàng nhỏ nhất và lớn nhất, cũng như chỉ số cột nhỏ nhất và lớn nhất cho phép tính này. Tuy nhiên, đối với những đối tượng có hướng ngẫu nhiên, thì chiều ngang và chiều dọc không thể là các chiều để xem xét. Trong trường hợp này, cần phải định vị trục chính của đối tượng và đo lường chiều dài và chiều rộng liên quan đến nó. Có nhiều cách thiết lập trục chính cho một đối tượng một khi đã biết được đường bao của nó. Ta có thể tính đường thẳng (hay cong) đúng nhất thông qua các điểm trên đối tượng. Trục chính cũng có thể được tính từ các mô men, như đề cập ở phần tiếp theo. Cách thứ ba sử dụng hình chữ nhật bao quanh tối thiểu (Minimum Enclose Rectangle-MER) bọc lấy đối tượng. Với kỹ thuật MER, đường bao của đối tượng được quay 900 theo nhiều bước, mỗi bước 30 một. Sau mỗi phép quay tăng dần, MER nằm ngang sẽ phù hợp với đường bao. Về phương diện tính toán, điều này chỉ đơn giản là giữ lại vết các giá trị x và y của các điểm trên đường bao đã quay nhỏ nhất và lớn nhất. Kỹ thuật này đặc biệt có lợi cho các đối tượng hình chữ nhật, nhưng nó cũng sinh ra các kết quả vừa ý đối với các hình dạng tổng quát hơn. 19.3. PHÂN TÍCH HÌNH DẠNG Thường thường, có thể phân biệt các đối tượng trong một lớp với các đối tượng khác bằng hình dạng của chúng. Các đặc trưng hình dạng có thể sử dụng độc lập với, hay kết hợp với các số đo kích thước. Trong phần này, chúng ta sẽ xem xét một vài tham số hình dạng thường dùng. 19.3.1. Tính hình chữ nhật Một số đo phản ảnh tính hình chữ nhật của một đối tượng là hệ số khít hình chữ nhật R o A AR (9) Trong đó Ao là diện tích đối tượng và AR là diện tích MER của đối tượng. R thể hiện mức độ đầy một đối tượng điền vào MER của nó. Nó có giá trị cực đại là 1.0 đối với các đối tượng hình chữ nhật, nhận giá trị /4 đối với đối tượng hình tròn và càng nhỏ hơn đối với các đối tượng cong, mảnh. Hệ số khít hình chữ nhật nằm giữa 0 và 1. 385 Một đặc tíh hình dạng có liên quan khác là tỷ lệ co L WA (10) Là tỷ lệ giữa chiều rộng và chiều dài của MER. Đặc tính này có thể phân biệt các đối tượng mảnh với các đối tượng hình vuông hay hình tròn. 19.3.2. Tính tròn Một nhóm các đặc tính hình dạng được gọi là các tiêu chuẩn tính tròn bởi vì chúng được tối thiểu hoá theo dạng hình tròn. Độ lớn của chúng có xu hướng phản ánh sự phức tạp của đường bao đang được đánh giá. Tiêu chuẩn tính tròn được dùng phổ biến nhất là A PC 2 (11) Là tỷ lệ giữa bình phương chu vi và diện tích. Đặc tính này nhận giá trị nhỏ nhất là 4 đối với dạng hình tròn. Các dạng phức tạp hơn nhận các giá trị cao hơn. Số đo tính tròn C có liên quan đến khái niệm chủ quan về sự phức tạp của đường bao. Một phép số đo tính tròn liên quan là năng lượng đường bao (boundary energy). Giả sử một đối tượng có chu vi là P và chúng ta xác định quãng đường vòng quanh đường bao từ điểm xuất phát nào đó với biến p. Tại một điểm bất kỳ, đường bao có một bán kính cong tức thời r(p). Đó là bán kính của đường tròn tiếp xúc đường bao tại điểm đó (hình 14-9). Hàm độ cong tại p là pr pK 1 (12) Hàm K(p) tuần hoàn với chu kỳ P. Ta có thể tính năng lượng trung bình trên một đơn vị chiều dài của đường bao như sau P dppK P E 0 21 (13) đối với vùng cố định, đường tròn có năng lượng đường bao nhỏ nhất là 22 0 12 RP E (14) trong đó R là bán kính đường tròn. Do đó, độ cong và năng lượng đường bao được tính dễ dàng từ chuỗi mã. Young đã chứng minh rằng năng lượng đường bao phản ánh khái niệm về sự phức tạp theo cảm giác tốt hơn tiêu chuẩn tính tròn của biểu thức (11). Tiêu chuẩn tính tròn thứ ba thực hiện công dụng của khoảng cách trung bình từ một điểm bên trong đến đường bao đối tượng. Khoảng cách này là N i ixN d 1 1 (15) Trong đó xi là khoảng cách từ điểm ảnh thứ i đến điểm biên gần nhất trong một đối tượng có N điểm. Tiêu chuẩn hình dạng là 386 N i xLi N d Ag 1 3 2 (16) Tổng trong mẫu số của biểu thức (16) là IOD của ảnh đã biến đổi khoảng cách. Phép biến đổi khoảng cách đã được trình bày trong phần 18.7.5. Giá trị mức xám của một điểm ảnh trong một ảnh biến đổi khoảng cách phản ánh khoảng cách từ điểm ảnh đó đến đường bao gần nhất. Hình 19-5 trình bày một ảnh nhị phân và biến đổi khoảng cách của nó. HÌNH 19-5 Hình 19-5 Biến đổi khoảng cách Đối với các hình tròn và các đa giác cân đối, biểu thức (16) cho cùng một giá trị như biểu thức (11); tuy nhiên, khả năng phân biệt của biểu thức (16) có thể tốt hơn đối với các hình dạng phức tạp hơn. 19.3.3. Mô men bất biến Các mô men của một hàm thường được dùng trong lý thuyết xác suất. Tuy nhiên, một vài tính chất khác xuất phát từ các mô men cũng có thể áp dụng để phân tích hình dạng. Định nghĩa. Tập các mô men của một hàm đường bao f(x, y) hai biến được định nghĩa bởi dxdyyxfyxM kjjk , (17) Trong đó j và k nhận các giá trị không âm bất kỳ. Mô men của các PDF được sử dụng rộng rãi trong lý thuyết xác suất. Khi j và k nhận các giá trị không âm, chúng sinh ra một tập vô hạn các mô men. Hơn nữa, tập này có khả năng xác định hàm f(x, y) một cách đầy đủ. Nói cách khác, tập {Mjk}là duy nhất đối với hàm f(x, y) và chỉ hàm f(x, y) có tập mô men riêng biệt đó mà thôi. Với mục đích miêu tả hình dạng, giả sử f(x, y) nhận giá trị 1 trong đối tượng và giá trị 0 ngoài đối tượng. Hàm hình chiếu này chỉ phản ánh hình dạng đối tượng và bỏ qua chi tiết mức xám bên trong. Mỗi hình dạng duy nhất tương ứng với một hình chiếu duy nhất và, hơn thế nữa, với một tập mô men duy nhất. Tham số j + k gọi là bậc của mô men. Chỉ có duy nhất một mô men bậc 0, 387 dxdyyxfM ,00 (18) Và rõ ràng đây là diện tích của đối tượng. Có hai mô men bậc nhất và cứ như vậy, có nhiều mô men bậc cao hơn. Ta có thể khiến cho tất cả các mô men bậc nhất và bậc cao hơn bất biến mà không ảnh hưởng đến kích thước đối tượng bằng cách chia chúng cho M00. 19.3.3.1. Mô men trung tâm Các toạ độ trọng tâm của đối tượng là 00 01 00 10 M My M Mx (19) Cái gọi là mô men trung tâm được tính bằng cách sử dụng trọng tâm như ban đầu dxdyyxfyyxxM kj jk , (20) Các mô men trung tâm không thay đổi vị trí. 19.3.3.2. Trục chính Góc quay làm cho mô men trung tâm bậc hai 11 triệt tiêu có thể thu được từ 0220 1122tan ... 3) Và chúng ta phải giải bài toán quen thuộc về tập các biểu thức tuyến tính nhiều ẩn. 19.5.3. Điều chỉnh parabol một chiều Chúng ta coi việc điều chỉnh một parabol nhờ một tập năm điểm, như một ví dụ cụ thể. Các giá trị là 394 2551 1641 931 84.42.21 81.09.01 2 3 5.2 3 8.1 5 4 3 2.2 9.0 BYX (34) Và hình 19-8 cho thấy cụm các điểm và parabol phù hợp nhất, được xác định bằng phương pháp này. Các phép tính tạo ra 230. 415.1 747.0 5.136 7.37 3.12 98622756 2275615 56155 CYBBB TT vµ (35) Chúng ta có thể so sánh những giá trị đã tính với dữ liệu và vec tơ sai số quan sát: 07. 27. 42. 25. 03. 07.2 73.2 92.2 75.2 83.1 2 3 5.2 3 8.1 EBCY (36) Ví dụ, nếu đây là một ứng dụng tìm đỉnh parabol, đặt đạo hàm của biểu thức (28) bằng 0 cho phép ta giải với 923.2 2 max3 2 max xfc -cx vµ 3.076 (37) Nếu các nghiệm là các mức xám thuộc một dòng quét thì các xi’ được đặt cách những khoảng bằng nhau, nhưng nói chung không có hạn chế về sự sắp xếp các điểm. Chúng có thể là một cụm điểm rải rác bất kỳ. Thực tế, có một sự hạn chế duy nhất đó là f(x) là hàm của x và vì thế nó có giá trị duy nhất với mọi x. Tức là, f() không thể chống lại chính nó để điều chỉnh dữ liệu. Thừa số thứ nhất của vế phải biểu thức (32) biểu diễn một phép nghịch đảo ma trận và đây là một chướng ngại vật trong tính toán. Tuy nhiên, ma trận này chỉ là 3 3, cho nên vấn đề có bao nhiêu điểm được dùng để điều chỉnh không quan trọng lắm. Vì thế, sự phức tạp về tính toán không quá mức nặng nề. HÌNH 19-8 395 Hình 19-8 Điều chỉnh một parabol bằng 5 điểm dữ liệu 19.5.4. Điều chỉnh đường bậc ba hai chiều Ta có thể tổng quát hoá kỹ thuật trước đây cho các đa thức có bậc lớn hơn hai cũng như các hàm hai chiều. Một kỹ thuật san phẳng nền hiệu quả có được từ việc điều chỉnh đa thức hai chiều nhờ vào sự tập hợp các điểm nền có mức xám thấp đã được chọn. Sau đó đem ảnh trừ đi hàm kết quả để san phẳng nền. chúng ta minh hoạ kỹ thuật này bằng trường hợp điều chỉnh đường bậc ba hai chiều. Hàm có 10 số hạng: 3938272625243210, ycxcxycyxcycxcxycycxccyxf (38) Ma trận B là N 10: 3 1 3 1 2 111 2 1 2 1 2 111111 yxyxyxyxyxyxB (39) Do đó, phép nghịch đảo ma trận 10 10 cần cho biểu thức (32). Hình 19-9 trình bày một ví dụ trừ nền sử dụng điều chỉnh đường bậc ba hai chiều. HÌNH 19-9 Hình 19-9 Điều chỉnh đường bậc ba hai chiểu thông qua nền của một ảnh: (a) ảnh chứa một vệt nhiễu, nền nhạt hơn; (b) đường bậc ba điều chỉnh bằng các điểm nền; (c) ảnh sau khi trừ nền 19.5.5. Điều chỉnh Gauss hai chiều Người ta có thể đo đối tượng hình tròn hay hình elip trong một ảnh bằng cách điều chỉnh một bề mặt Gauss hai chiều khắp ảnh. Biểu thức Gauss hai chiều là 2 2 2 2 22 y oi x oi yyxx t Aez (40) Trong đó A là biên độ, (x0, y0) là vị trí còn x và y là các độ lệch tiêu chuẩn (các bán kính) hai chiều. Nếu lấy logarit hai vế, khai triển bình phương và nhóm số hạng, ta được một phương trình bậc hai theo x và y. Nhân cả hai vế với z1, ta được 396 ii y ii x ii y o ii x o i y o x o ii zyzxzy yzxxzyxAzz 22 2 2222 2 2 2 2 1 2 1 22 lnln (41) Nó được viết dưới dạng ma trận như sau CBQ (42) Trong đó Q là véc tơ N 1 với các phần tử iii zzq ln (43) C là một vec tơ 5 phần tử gồm toàn bộ các tham số Gauss 22222 2 2 2 2 1 2 1 22 ln yxy o x o y o x oT yxyxAC (44) Và B là ma trận N 5 có hàng thứ i 22 iiiiiiiiii yzxzyzxzzb (45) Ma trận C được tính bằng biểu thức (32) như trước đây, từ đó ta có thể khôi phục các tham số Gauss bằng 2 3 2 2 5 2 4 2 2 1 2 1 yoxo yx cycx cc (46) Và 221 22 y o x o yxc eA (47) Chỉ ma trận 5 5 phải lấy nghịch đảo, bất chấp N, số điểm sử dụng điều chỉnh. Hình 19-10a cho thấy một hàm Gaus đã được điều chỉnh với một đỉnh nhiễu bằng phương pháp này. Ảnh thô là một hàm Gauss được tính bằng nhiễu cộng ngẫu nhiên. Bảng 19-1 so sánh các tham số có được sau điều chỉnh với những tham số tạo ra ảnh. Không thể khôi phục chính xác hàm Gauss ban đầu do nhiễu. Tuy nhiên, các tham số trong bảng được đáng giá là khá tốt, hình 19-10b là một bản sao có thể chấp nhận dạng không nhiễu của nó. HÌNH 19-10 397 Hình 19-10 Điều chỉnh Gauss hai chiều với mộ đỉnh nhiễu: (a) ảnh thô; (b) điều chỉnh Gauss. Sai số RMS là 6% so với biên độ đỉnh BẢNG 19-1 CÁC THAM SỐ GAUSS THỰC TẾ VÀ ĐÃ ĐIỀU CHỈNH BẢNG 19-1 19.5.6. Điều chỉnh Elip Trong nhiều loại ảnh, các đối tượng quan tâm là hình tròn, hay ít ra cũng là hình elip. Vì thế, đây là cách rất có ích để có thể điều chỉnh một elip có kích thước, hình dạng và hướng tuỳ ý thành tập hợp các điểm biên. Biểu thức tổng quát cho phần hình nón là 022 feydxcybxyax (49) Và nó sẽ là elip nếu 042 acb (50) Một elip được xác định bằng 5 tham số: toạ độ tâm x, y của nó, chiều dài các bán trục lớn và bán trục nhỏ và góc giữa trục chính của nó tạo thành với trục ngang. Ta có thể điều chỉnh một elip qua 5 điểm bằng cách thay thế toạ độ của chúng vào biểu thức (49) và giải năm phương trình cùng một lúc. Ta có thể nhận được một cách điều chỉnh tốt nhất qua nhiều điểm hơn bằng cách điều chỉnh các elip qua các tập con năm điểm và lấy trung bình (hay lấy giá trị nằm giữa) các tham số của chúng. Không mất tính tổng quát, chúng ta có thể đơn giản hoá biểu thức (49) bằng cách đặt a = 1. Sau đó, viết lại tổng các sai số bình phương như sau i iiyiii feydxcyybxx 2222 (51) Nếu ta đạo hàm từng phần biểu thức (51) theo các hệ số a, b, c, d và đặt từng hệ số bằng 0, ta sẽ thu được năm biểu thức dạng tổng của các luỹ thừa và các tích theo xi và yi mà có thể giải đồng thời với các hệ số này. Thủ tục có thể được thực hiện bằng phép nghịch đảo ma trận 5 5 như trước đây. 19.5.7. Nghiên cứu thực tiễn Nếu ta điều chỉnh các đa thức lặp đi lặp lại với các dòng quát liên tiếp trong một ảnh, thì ma trận B sẽ không thay đổi từ dòng này sang dòng khác và việc lấy nghịch đảo ma trận chỉ cần thực hiện một lần. Đây là vấn đề qua trọng để lựa chọn các điểm sử dụng trong thủ tục điều chỉnh sao cho chúng có thể khôi phục toàn bộ vùng mà ta quan tâm. Hành vi của hàm bên ngoài vùng, mà trên đó nó bị ép buộc để điều chỉnh dữ liệu thực tế, có thể rất khó đoán trước. Khi điều chỉnh một ảnh, đó cũng là một điều quan trọng để khôi phục toàn bộ ảnh bằng các điểm mẫu, thậm chí cả khi thưa thớt (N nhỏ). Nếu N là nhỏ và các điểm dữ liệu không bị rải rác nhiều trên toàn bộ ảnh, thì ta có thể bắt gặp những vấn đề trong tình trạng tồi tệ trong khi nghịch đảo ma trận. Số các điểm ít nhất phải bằng số cột trong ma trận B và tốt nhất là gấp hai đến ba lần số cột. Ta có thể điều chỉnh một đường cong bằng một nhóm điểm trong không gian hai chiều. Một ví dụ về điều chỉnh trục bằng khung làm mảnh của một đối tượng cong 398 tuyến tính. Tuy nhiên, trong thực tế sự điều chỉnh bị giới hạn do f(x) chỉ có một giá trị đơn với mọi x. Điều này có thể ngăn cản đường cong được chấp nhận thông qua nhóm điểm. Ví dụ. nếu các điểm được sắp xếp thẳng hay không thẳng hơn thì sẽ không thích hợp để có được một sự điều chỉnh có thể chấp nhận với y = f(x). Trong trường hợp đó, tốt hơn là nên điều chỉnh x = f(y) đối với dữ liệu. Nói chung, đó có thể là một điều đáng giá để xác định trục chính của một nhóm điểm dữ liệu và quay chúng sao cho trục nằm ngang trước khi áp dụng thủ tục điều chỉnh đường cong. Người ta có thể lựa chọn việc điều chỉnh các điểm dữ liệu với một hàm đã định nghĩa theo một hệ toạ độ quay. Với điều chỉnh Gauss hai chiều, điều cần thiết là các điểm mẫu phải nằm tản ra xung quanh đỉnh. Việc cố gắng điều chỉnh một hàm Gauss hai chiều vào một mặt của đỉnh chỉ chuốc lấy tai hoạ. Nếu các điểm dữ liệu xác định một độ dốc, thay vì một đỉnh, thì hàm Gauss được điều chỉnh là bề mặt bên dưới, c4 và c5 là dương, và độ lệch tiêu chuẩn (biểu thức (46)) là ảo. Tình huống này có thể xảy ra bất ngờ khi hàm được điều chỉnh với các điểm dữ liệu không phân bó đều ra xung quanh tất cả các mặt của đỉnh. Khi điều chỉnh một elip năm điểm, ta có thể thấy rằng các điểm dữ liệu điều chỉnh một parabol hay một hypecbol thay vì elip. Vì thế, đó là điều quan trọng để tác động tính logic vào bài tập điều chỉnh. 19.6. TỔNG KẾT NHỮNG ĐIỂM QUAN TRỌNG 1. Kích thước đối tượng được phản ánh trong các số đo diện tích, IOD, chiều dài, chiều rộng và chu vi trong số các đặc trưng khác. 2. Hình dạng đối tượng được phản ánh trong các số đo của hình chữ nhật điều chỉnh và tính hình tròn và trong các mô men bất biến. 3. Có thể mã hoá hình dạng đối tượng theo chuỗi mã, hàm đường bao cực, hàm đường bao phức và biến đổi trục trung vị. 4. Kết cấu có thể xác định được bằng các tiêu chuẩn thống kê, bằng các đặc trưng tính từ ma trận đồng thời xuất hiện và bằng các phương pháp tiếp cận cấu trúc và phổ. 5. Có thể việc điều chỉnh đường cong để đánh giá hàm cơ sở cho quan sát nhiễu, chứng tỏ rằng dạng hàm là đã biết hay đã được cho trước. 6. Một đa thức hay một hàm Gauss có thể được điều chỉnh với dữ liệu một hoặc hai chiều. Một ma trận nghịch đảo thường có kích thước tương đối nhỏ và hoạt động khá hiệu quả. 7. Khi điều chỉnh một đường cong hay một bề mặt, cần thiết phải sử dụng một tập các điểm dữ liệu nối toàn bộ vùng quan tâm. 8. Việc điều chỉnh bề mặt có thể được sử dụng để trích chọn một đối tượng quan tâm từ một ảnh hay để đánh giá biên độ, kích thước và các tham số hình dạng của đối tượng. Việc điều chỉnh bề mặt cũng có thể đánh giá một thành phần không cần thiết, ví dụ như sắc thái nền để có thể trừ nó ra. BÀI TẬP 1. Chứng minh rằng biểu thức (7) dẫn đến biểu thức (5). 2. Chứng minh rằng biểu thức (3) dẫn đến biểu thức (4). 3. Dưới đây là các toạ độ điểm biên của một đối tượng. Tính p2/A để xác định đối tượng có phải là hình tròn hay hình vuông không. x: [97 85 66 42 22 10 9 21 40 64 84 96] y: [78 98 110 111 99 80 56 36 24 23 35 54] 399 4. Dưới đây là các toạ độ điểm biên của một đối tượng. Tính p2/A để xác định đối tượng có phải là hình tròn hay hình vuông không. x: [460 580 560 540 520 380 240 100 120 140 160 300] y: [160 180 320 480 600 580 560 540 400 260 120 140] 5. Điều chỉnh một đường thẳng qua tập các điểm dưới đây và xác định giá trị x của chéo 0. Vẽ các điểm và đường đã điều chỉnh. x = [0 1 2 3] y = [.5 .8 2.2 2.8 ] 6. Dưới đây là các giá trị tham số tiêu điểm tại một vài vị trí trục z khác nhau. (Xem chương 15) Điều chỉnh một parabol qua các điểm và xác định vị trí trục z của tiêu điểm chính. Vẽ các điểm và phác hoạ parabol đã điều chỉnh. z = [0 2 3 5 7] f = [445 620 710 580 390] 7. Dưới đây là các giá trị tham số tiêu điểm tại một vài vị trí trục z khác nhau. (Xem chương 15) Điều chỉnh một hàm Gauss qua các điểm và xác định vị trí trục z của tiêu điểm chính. Vẽ các điểm và phác hoạ parabol đã điều chỉnh. z = [-8 –3 2 6 12] f = [41 62 58 60 38] 8. Dưới đây là một vài điểm nền từ một ảnh f(x, y) 480 512 có vấn đề về sắc thái. điều chỉnh một mặt phẳng qua các điểm, trừ nó từ các điểm đó và tính giá trị RMS của nhiễu còn lại. (Tuỳ chọn: Vẽ các điểm bag bề mặt đã điều chỉnh) x: [1 100 200 300 1 100 200 300 1 100 200 300 1 100 200 300] y: [1 1 1 1 100 100 100 100 200 200 200 200 300 300 300 300] f: [18 26 39 47 37 36 39 40 58 48 43 44 75 63 53 39] 9. Làm lại bài 8, sử dụng mặt bậc hai (song tuyến) g(x, y) = c0 + c1x + c2y + c3xy Nhiễu RMS giảm bao nhiêu với việc điều chỉnh mặt phẳng? Nếu vậy, theo hệ số bao nhiêu? (Tuỳ chọn: Vẽ các điểm và mặt đã điều chỉnh) 10. Dưới đây là mức xám tại một số điểm ảnh trên một dòng quét đơn (dòng ngang) trong một ảnh chụp bằng camera có vấn đề sắc thái từ trái sang phải. Điều chỉnh đường thẳng qua các điểm và vẽ các điểm cùng với đường đã điều chỉnh. Lấy các điểm đó trừ đi đường đã điều chỉnh và tính giá trị RMS của nhiễu còn lại. Kỹ thuật này đáng giá bao nhiêu trong phần mềm số hoá ảnh của bạn? Giả sử rằng sẽ phức tạp thêm chỉ khi nhiễu nền RMS có thể loại bỏ đi một nửa hay nhiều hơn. x = [1 100 200 300 400 500] f = [27 46 63 69 68 63] 11. Làm lại bài 10, sử dụng điều chỉnh bậc hai (parabol). Kỹ thuật này đáng giá bao nhiêu trong phần mềm số hoá ảnh của bạn? Giả sử rằng sẽ phức tạp thêm (xung quanh điều chỉnh tuyến tính) chỉ khi nhiễu nền RMS có thể loại bỏ đi một nửa hay nhiều hơn. 12. Làm lại bài 11, sử dụng điều chỉnh bậc ba (cubic). Kỹ thuật này đáng giá bao nhiêu trong phần mềm số hoá ảnh của bạn? Giả sử rằng sẽ phức tạp thêm (xung quanh điều chỉnh parabol) chỉ khi nhiễu nền RMS có thể loại bỏ đi một nửa hay nhiều hơn. Có phát sinh thêm các thủ tục điều chỉnh bậc cao hơn không? Tại sao có và tại sao không? 13. Làm lại bài 10, sử dụng các dữ liệu dưới đây: x = [1 100 200 300 400 500] f = [24 39 32 18 15 27] 400 14. Làm lại bài 11 sử dụng dữ liệu đã cho trong bài 13. 15. Làm lại bài 12 sử dụng dữ liệu đã cho trong bài 13. 16. Điều chỉnh một phần hình nón với 6 điểm dưới đây. Phác hoạ đường cong, nó là một parabol, hypecbol hay elip? x = [32 60 78 99 71 42]; y = [12 18 23 41 55 62] 17. Điều chỉnh một phần hình nón với 6 điểm dưới đây. Phác hoạ đường cong, nó là một parabol, hypecbol hay elip? x = [28 41 55 61 46 33]; y = [23 31 30 40 41 33] 18. Điều chỉnh một phần hình nón với 6 điểm dưới đây. Phác hoạ đường cong, nó là một parabol, hypecbol hay elip? x = [102 111 125 128 116 103]; y = [73 68 80 101 108 89] DỰ ÁN 1. Phát triển một chương trình mà có thể đo lường diện tích và chu vi các đối tượng. Sử dụng các đối tượng hình tròn đã biết đường kính để kiểm tra chương trình với các khoảng cách điểm ảnh khác nhau. Nêu rõ sự chính xác của nó. 2. Phát triển một chương trình mà có thể xác định mật độ trung bình hay độ sáng của đối tượng. Sử dụng các đối tượng đã biết mật độ hay độ sáng để kiểm tra chương trình với các khoảng cách điểm ảnh khác nhau. Nêu rõ sự chính xác của nó. 3. Phát triển một chương trình mà có thể xác định hình dạng đối tượng. Sử dụng các đối tượng hình tròn, hình vuông, tam giác và hình chữ nhật đã biết hướng để kiểm tra chương trình với các khoảng cách điểm ảnh khác nhau. Nêu rõ sự chính xác của nó. 4. Phát triển một chương trình có thể điều chỉnh một đường bậc ba hai chiều với nền của một ảnh, tính hàm kết quả và loại trừ nó ra khỏi ảnh. 5. Phát triển một chương trình có thể định vị các ngôi sao trong một ảnh thiên văn, điều chỉnh một parabol hay một hàm Gauss với mỗi ngôi sao và liệt kê vị trí, đường kính và độ sáng của từng ngôi sao. Kiểm tra chương trình trên ảnh chụp từ vũ trụ đã số hoá. 6. Thực hiện một chương trình tính tham số tiêu điểm, điều chỉnh một parabol hay hàm Gauss với đường cong thu được và hiển thị các vị trí của tiêu điểm tối ưu. 7. Phát triển một chương trình điều chỉnh một elip với tập hợp các điểm (x, y). Kiểm tra chương trình trên ảnh các đồng tiền và các phần mỏng của các đối tượng hình trụ cắt tại nhiều góc độ khác nhau. Nêu rõ sự chính xác của nó và bất kỳ vấn đề nào vấp phải khi điều chỉnh.
File đính kèm:
- bai_giang_xu_ly_anh_chuong_19_nhan_dang_mau_kich_thuoc_doi_t.pdf