Bàn về phương pháp tính toán sức chịu tải và độ lún của nền đất yếu gia cố bằng cọc đất - xi măng

Xử lý, gia cố nền đất yếu bằng cọc đất-xi măng là một trong những phương

pháp được sử dụng rộng rãi ở nước ta hiện nay và đã mang lại hiệu quả tích

cực. Tuy nhiên, việc tính toán sức chịu tải và độ lún của nền đất gia cố bằng

cọc đất-xi măng một cách chính xác, đảm bảo độ tin cậy là vấn đề cần được

tiếp tục nghiên cứu, thảo luận. Bài báo phân tích, đánh giá phương pháp

tính sức chịu tải và độ lún của nền đất sau gia cố bằng cọc đất-xi măng, đồng

thời đề xuất cách tiếp cận khác xác định sức chịu tải và độ lún của nền sau

gia cố bằng cách coi nền đất sau gia cố là một nền đất mới với thành phần,

trạng thái, tính chất cơ lý mới và áp dụng lý thuyết môi trường biến dạng

tuyến tính để tính toán .

pdf 5 trang yennguyen 6380
Bạn đang xem tài liệu "Bàn về phương pháp tính toán sức chịu tải và độ lún của nền đất yếu gia cố bằng cọc đất - xi măng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bàn về phương pháp tính toán sức chịu tải và độ lún của nền đất yếu gia cố bằng cọc đất - xi măng

Bàn về phương pháp tính toán sức chịu tải và độ lún của nền đất yếu gia cố bằng cọc đất - xi măng
386 Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất Tập 58, Kỳ 5 (2017) 386-390 
Bàn về phương pháp tính toán sức chịu tải và độ lún của nền 
đất yếu gia cố bằng cọc đất-xi măng 
Tạ Đức Thịnh 
Khoa Xây dựng, Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Việt Nam 
THÔNG TIN BÀI BÁO TÓM TẮT 
Quá trình: 
Nhận bài 15/08/2017 
Chấp nhận 18/10/2017 
Đăng online 30/10/2017 
 Xử lý, gia cố nền đất yếu bằng cọc đất-xi măng là một trong những phương 
pháp được sử dụng rộng rãi ở nước ta hiện nay và đã mang lại hiệu quả tích 
cực. Tuy nhiên, việc tính toán sức chịu tải và độ lún của nền đất gia cố bằng 
cọc đất-xi măng một cách chính xác, đảm bảo độ tin cậy là vấn đề cần được 
tiếp tục nghiên cứu, thảo luận. Bài báo phân tích, đánh giá phương pháp 
tính sức chịu tải và độ lún của nền đất sau gia cố bằng cọc đất-xi măng, đồng 
thời đề xuất cách tiếp cận khác xác định sức chịu tải và độ lún của nền sau 
gia cố bằng cách coi nền đất sau gia cố là một nền đất mới với thành phần, 
trạng thái, tính chất cơ lý mới và áp dụng lý thuyết môi trường biến dạng 
tuyến tính để tính toán . 
© 2017 Trường Đại học Mỏ - Địa chất. Tất cả các quyền được bảo đảm. 
Từ khóa: 
Sức chịu tải 
Độ lún 
Nền đất yếu 
1. Đặt vấn đề 
Đất yếu là loại đất có thành phần, trạng thái 
và tính chất đặc biệt, rất nhạy cảm với tác động của 
tải trọng ngoài, là loại đất có tính năng xây dựng 
thấp, sức kháng cắt nhỏ, tính biến dạng lớn. Các 
loại đất yếu phân bố khá phổ biến ở nước ta, tập 
trung chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Hồng và 
đồng bằng sông Cửu Long, nơi mà hoạt động kinh 
tế - xây dựng của con người đã, đang và sẽ diễn ra 
hết sức mạnh mẽ. Đối với các loại công trình, dù có 
quy mô, tải trọng nhỏ, khi xây dựng trên nền đất 
yếu đều cần phải có các giải pháp xử lý, gia cố nền 
thích hợp. 
Hiện nay, có khá nhiều phương pháp xử lý, gia 
cố nền đất yếu được ứng dụng ở nước ta, trong đó, 
phương pháp cọc đất-xi măng là một trong những 
phương pháp được ứng dụng phổ biến hơn cả. 
Phương pháp cọc đất-xi măng chia thành hai loại 
là phương pháp trộn phun khô (Dry Jet Mixing 
Method - DJM) và phương pháp trộn phun ướt 
(Wet Jet Mixing Method - WJM). Phương pháp 
trộn phun khô được sử dụng rộng rãi trong xử lý 
nền đất yếu phục vụ xây dựng các công trình xây 
dựng dân dụng, công trình giao thông... (Bergado, 
et al., 1994). 
Bản chất của phương pháp gia cố nền đất yếu 
bằng cọc đất-xi măng (trộn khô) là dùng thiết bị 
khoan phun xi măng khô vào trong đất ở dưới sâu 
qua ống có lỗ phun và trộn xi măng với đất trong 
phạm vi đường kính hố khoan để tạo ra cọc hỗn 
hợp đất-xi măng có cường độ lớn hơn nhiều so với 
cường độ của đất xung quanh cọc. Nhờ cường độ 
của cọc hỗn hợp đất-xi măng mà sức chịu tải của 
nền được tăng lên, độ lún của công trình giảm đi.
_____________________ 
*Tác giả liên hệ 
E-mail: taducthinh@humg.edu.vn 
Tạ Đức Thịnh/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(5), 386-390 387 
Mặc dù phương pháp gia cố nền đất yếu bằng 
cọc đất-xi măng được sử dụng rộng rãi và mang lại 
hiệu quả khá rõ rệt, tuy nhiên, việc tính toán sức 
chịu tải và độ lún của công trình sau khi gia cố nền 
bằng cọc đất-xi măng đã đảm bảo độ chính xác, tin 
cậy hay chưa vẫn là vấn đề được các kĩ sư địa chất 
công trình-địa kĩ thuật, kĩ sư xây dựng quan tâm 
sâu sắc. Trong khuôn khổ bài báo này, chúng tôi 
phân tích cách xác định sức chịu tải và độ lún của 
nền đất yếu gia cố bằng cọc đất-xi măng đang 
được sử dụng và đề xuất cách tiếp cận khác xác 
định sức chịu tải và độ lún của nền sau gia cố với 
hy vọng nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các 
nhà chuyên môn để làm cơ sở cho những nghiên 
cứu tiếp theo. 
2. Tính toán sức chịu tải của nền đất yếu gia cố 
bằng cọc đất-xi măng 
Xử lý, gia cố nền đất yếu bằng phương pháp 
cọc đất-xi măng hoặc bằng phương pháp bất kỳ 
nào cũng đều nhằm mục đích duy nhất là nâng cao 
sức chịu tải của nền, giảm độ lún của công trình, 
đảm bảo cho công trình trong suốt quá trình khai 
thác, sử dụng luôn bền vững, ổn định về cường độ 
và biến dạng. Vì vậy, việc tính toán, dự báo sức 
chịu tải của nền và độ lún của công trình sau gia cố 
nền có ý nghĩa hết sức quan trọng. 
Hiện nay, sức chịu tải của nền đất yếu gia cố 
bằng cọc đất-xi măng được tính theo phương 
pháp của nhà khoa học người Thụy Điển Bengt 
Broms và cộng sự, được giới thiệu trong công 
trình ‘‘Gia cố nền đất yếu bằng các phương pháp 
cọc đất-vôi, đất-xi măng và cốt thoát nước chế tạo 
sẵn’’(Nguyễn Trấp và nnk., 1985) và các nhà khoa 
học Viện Địa kỹ thuật Thái Lan (Bergado, et al., 
1994), theo đó, sức chịu tải của nền đất sau gia cố 
phụ thuộc vào sức chịu tải của cọc đơn và nhóm 
cọc gia cố, xác định như sau: 
* Đối với cọc đơn : 
Q = Qs + Qp 
Trong đó : Q: Sức chịu tải của cọc gia cố đất-xi 
măng ; Qs : Sức chịu tải do ma sát xung quanh cọc 
gây ra ; Qp : Sức kháng đầu mũi cọc. 
Với : 
Qs = CuAs 
 : Hệ số phụ thuộc vào sức kháng cắt không 
thoát nước của đất nền xung quanh cọc Cu, với Cu 
 0,5 kG/cm2 (50 Pa) thì = 0,8 - 1,0, với Cu < 0,5 
kG/cm2 thì = 0,7 ; Cu : Sức kháng cắt không thoát 
nước của đất nền xung quanh cọc, xác định bằng 
thí nghiệm cắt cánh hoặc xuyên tĩnh, Cu = qc/15  
qc/20 với qc là sức kháng xuyên đầu mũi; As : Diện 
tích mặt bên của cọc. 
Qp = CuNcAp 
Nc : Hệ số sức chịu tải đầu mũi cọc, phụ thuộc 
vào khoảng cách giữa các cọc. Khi khoảng cách 
giữa các cọc trong khoảng 4-5 lần đường kính cọc 
d thì với d 30 cm, Nc = 9 ; 30 cm < d 60 cm, Nc = 
7 và d > 60 cm, Nc = 6; Ap : Diện tích đầu mũi cọc. 
Trong trường hợp dưới mũi cọc gia cố là các 
lớp đất có tính năng xây dựng cao, một số nhà 
khoa học đề nghị tính sức chịu tải của cọc theo vật 
liệu cọc: 
Q = mRnFc 
Trong đó : m : Hệ số điều kiện chịu lực ; Rn : 
Cường độ chịu nén của cọc gia cố ; Fc : Diện tích tiết 
diện cọc gia cố. 
Dù tính sức chịu tải của cọc theo (1) hay (4), 
khi thiết kế xử lý nền đất yếu, số lượng cọc đất-xi 
măng cần thiết để gia cố được xác định bằng biểu 
thức : 
N = kPct/Q 
 Trong đó : N : Số lượng cọc đất-xi măng cần 
gia cố ; k : Hệ số an toàn ; Pct : Tổng tải trọng của 
công trình. 
Khoảng cách giữa các cọc được tính phụ 
thuộc vào số lượng cọc trong nền và đường kính 
cọc. Chiều dài cọc gia cố thường lấy bằng chiều sâu 
vùng hoạt động nén ép của công trình. 
* Đối với nhóm cọc gia cố : 
Coi diện tích nền đất gồm nhóm cọc và đất 
xung quanh cọc như một khối gia cố, sức chịu tải 
của khối gia cố phụ thuộc vào ma sát khối gia cố 
với đất xung quanh và sức chịu tải của đất nền ở 
mặt dưới khối gia cố, được tính theo công thức : 
Qkhối = Qs khối + Qp khối 
Trong đó: Qkhối : Sức chịu tải của khối gia cố ; 
Qs khối : Sức chịu tải do ma sát giữa khối gia cố với 
đất xung quanh khối gia cố gây ra ; Qp khối : Sức chịu 
tải của đất nền ở mặt dưới khối gia cố 
với : 
Qs khối = CuAs khối = 2(B+L)HCu 
Qp khối = CuNcAp khối = (6 - 9)CuBL 
B, L, H là chiều rộng, chiều dài và chiều cao 
khối gia cố. 
* Thảo luận : 
Theo công thức (1), các tác giả đã tính sức
(5) 
(1) 
(2) 
(3) 
(4) 
(6) 
388 Tạ Đức Thịnh/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(5), 386-390 
)1( aa c
c
d
c M
M

chịu tải của cọc đơn gia cố đất-xi măng giống 
như đối với cọc cứng ma sát, nghĩa là sức chịu tải 
của cọc (Q) bằng tổng sức kháng ma sát xung 
quanh cọc (Qs) và sức kháng đầu mũi cọc (Qp). 
Trong công thức này, sức kháng ma sát xung 
quanh cọc và sức kháng đầu mũi cọc phụ thuộc 
vào sức kháng cắt không thoát nước của đất nền 
xung quanh cọc và dưới mũi cọc (Cu), không phụ 
thuộc vào cường độ của bản thân vật liệu cọc. Tuy 
nhiên, khi gia cố nền đất yếu bằng cọc đất-xi măng, 
chỉ cường độ của vật liệu cọc tăng lên (phụ thuộc 
vào hàm lượng xi măng đưa vào cọc), cường độ 
của đất nền xung quanh cọc hầu như không thay 
đổi (do không có tác dụng nén chặt cơ học). Do sức 
kháng cắt của đất xung quanh cọc gia cố không 
được cải thiện nên ma sát xung quanh cọc và sức 
kháng đầu mũi cọc là không đáng kể, chưa kế 
trong nhiều trường hợp đất quá yếu, xuất hiện ma 
sát âm còn làm giảm sức chịu tải của cọc. Khi đó, 
để nâng cao sức chịu tải của cọc, giải pháp thường 
là tăng đường kính và chiều dài cọc để tăng diện 
tích mặt bên cọc và dưới mũi cọc, dẫn đến tốn kém 
về kinh tế. 
Theo công thức (4), sức chịu tải của cọc hoàn 
toàn phụ thuộc vào vật liệu cọc, tức là phụ thuộc 
vào hàm lượng xi măng đưa vào cọc. Lượng xi 
măng càng lớn, sức chịu tải của cọc càng cao. Tuy 
nhiên, tính toán theo công thức này chỉ phù hợp 
trong trường trường hợp dưới mũi cọc là các lớp 
đất có tính năng xây dựng tốt, còn trong trường 
hợp dưới mũi cọc là các lớp đất có tính năng xây 
dựng kém thì không hợp lý. Tương tự, trong tính 
toán sức chịu tải của nhóm cọc gia cố, sức chịu tải 
do ma sát giữa khối gia cố và đất xung quanh khối 
cũng không lớn do đất xung quanh khối không 
được cải thiện, sức chịu tải của nhóm cọc gia cố 
cũng do sức chịu tải của đất nền ở mặt dưới khối 
gia cố quyết định. Trong trường hợp đất nền dưới 
khối gia cố là đất tốt, có sức kháng cắt lớn thì công 
thức tính sức chịu tải của nhóm cọc gia cố trên là 
hợp lý, còn khi đất nền dưới khối gia cố là đất yếu, 
có sức kháng cắt nhỏ thì tính sức chịu tải như trên 
là chưa phù hợp. 
Như vậy là, tính sức chịu tải của nền gia cố 
bằng cọc đất - xi măng theo các công thức (1), (4), 
(6) nêu trên chỉ phù hợp trong trường hợp dưới 
mũi cọc là các lớp đất tốt, còn trong trường hợp 
dưới mũi cọc là các lớp đất yếu thì cần phải xem 
xét lại. 
3. Tính toán độ lún của nền gia cố bằng cọc đất 
- xi măng 
Theo Bengt Brome và cộng sự, độ lún của nền 
đất gia cố bằng cọc đất-xi măng được tính theo 
phương pháp cùng biến dạng với giả thiết coi cọc 
và đất xung quanh cọc là một đơn khối quy ước và 
biến dạng dọc trục của cọc gia cố tương ứng với độ 
lún của đất xung quanh cọc. Khi biến dạng dọc trục 
của cọc gia cố tương ứng với độ lún của đất xung 
quanh cọc thì sự phân bố tải trọng sẽ phụ thuộc 
vào độ cứng tương đối của vật liệu cọc. Chừng nào 
ứng suất dọc trục còn nhỏ hơn độ bền giới hạn của 
cọc thì ứng suất dọc trục của cọc phụ thuộc vào 
môđun nén của vật liệu cọc và môđun nén của đất 
xung quanh cọc (Nguyễn Trấp và nnk, 1985, 
Bergado, D. T., Chai, J. C., Alfaro, M. C., 
Balasubramaniam, A. S., 1994). Ứng suất dọc trục 
của cọc được tính theo công thức : 
c = = 
Trong đó: 
c : Ứng suất dọc trục của cọc; Pc : Tổng tải 
trọng tác dụng lên cọc gia cố ; Ac : Diện tích tiết diện 
cọc gia cố ;  : Ứng suất trung bình dưới đáy móng ; 
ac: Tỷ diện tích thay thế; Md: Môđun nén của đất 
xung quanh cọc, thường lấy bằng 150Cu, với Cu - 
sức kháng cắt không thoát nước của đất xung 
quanh cọc, xác định bằng thí nghiệm cắt cánh hoặc 
xuyên tĩnh; Mc: Môđun nén của vật liệu cọc, lấy 
bằng (50-100)Ccọc với Ccọc là lực dính của vật liệu 
cọc. 
Độ lún của nền đất được xác định bằng tổng 
độ lún của khối đất gia cố chiều sâu H và độ lún của 
nền đất dưới khối gia cố (Hình 1). 
Độ lún của khối gia cố xác định theo công thức: 
S = = 
Độ lún của nền đất dưới khối gia cố xác định 
theo phương pháp thông thường nhưng có kể đến 
hệ số giảm thiểu độ lún là tỷ số giữa độ lún của 
khối đất đã gia cố và độ lún của khối đất khi chưa 
gia cố. 
* Thảo luận: 
Theo phương pháp của Bengt Brome và cộng 
sự, độ lún của nền sau gia cố sẽ bằng tổng độ lún 
của khối đất đã gia cố và độ lún của đất nền ở dưới 
khối gia cố. Khi tính độ lún của khối đất gia cố, các 
tác giả đã giả thiết biến dạng (độ lún) của cọc gia 
c
c
A
P
H
M

dccc MaMa
H
)1( 

(5) 
(6) 
Tạ Đức Thịnh/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(5), 386-390 389 
cố tương ứng với độ lún của đất xung quanh 
cọc và chứng nào ứng suất dọc trục còn nhỏ hơn 
độ bền giới hạn của cọc thì ứng suất dọc trục của 
cọc phụ thuộc vào môđun nén của vật liệu cọc và 
môđun nén của đất xung quanh cọc. Điều này cần 
được tiếp tục nghiên cứu và xem xét lại, bởi vì, với 
hàm lượng xi măng khá lớn đưa vào cọc (thường 
chiếm 20-25% tổng khối lượng vật liệu cọc), sau 
khi đông cứng, cường độ của cọc gia cố lớn hơn 
nhiều so với cường độ của đất xung quanh cọc, do 
đó, biến dạng của cọc gia cố sẽ nhỏ hơn nhiều biến 
dạng của đất xung quanh cọc. Hơn nữa, ứng suất 
dọc trục của cọc chủ yếu phụ thuộc vào môđun 
nén của vật liệu cọc mà ít phụ thuộc vào môđun 
nén của đất xung quanh cọc. Và như vậy, không 
thể coi khối đất đã gia cố sẽ có độ lún như nhau ở 
tát cả các điểm khác nhau. 
Mặt khác, theo cách tính sức chịu tải của cọc 
đất-xi măng ở trên, dù tính theo công thức (1) hay 
(4) thì tải trọng công trình sẽ do toàn bộ các cọc 
tiếp nhận và như vậy, độ lún của khối gia cố chủ 
yếu phụ thuộc vào độ lún (biến dạng) của các cọc. 
Do cọc đất-xi măng có hàm lượng xi măng khá cao 
nên môđun nén của cọc lớn, biến dạng của cọc rất 
nhỏ. Vì vậy, độ lún của bản thân khối đất gia cố là 
không đáng kể, độ lún của công trình sẽ do độ lún 
nền đất dưới mũi cọc quyết định. Nếu đất dưới 
mũi cọc là loại đất tốt thì độ lún của công trình 
không lớn nhưng nếu dưới mũi cọc là đất yếu thì 
độ lún của công trình sẽ lớn. 
4. Đề xuất cách tiếp cận khác tính toán sức chịu 
tải và độ lún của nền gia cố bằng cọc đất-xi 
măng 
Theo phân tích ở trên, tính sức chịu tải và độ
lún của nền gia cố bằng cọc đất - xi măng vẫn còn 
nhiều bất cập, cần phải có nhiều công trình nghiên 
cứu lý thuyết và thực nghiệm làm sáng tỏ vai trò 
mang tải của cọc, của đất nền xung quanh cọc, 
nghĩa là xem cọc và nền cùng đồng thời làm việc. 
Tuy nhiên, vấn đề sẽ đơn giản hơn nếu quan niệm 
nền đất yếu đã được gia cố bằng cọc đất-xi măng 
là một nền mới, có thành phần, trạng thái và tính 
chất cơ lý mới và như vậy, hoàn toàn có thể tính 
sức chịu tải và độ lún của nền gia cố như đối với 
nền đất tự nhiên. 
Sức chịu tải của nền là hàm số phụ thuộc vào 
sức kháng cắt và khối lượng thể tích của đất nền. 
Vì vậy, có thể tính sức chịu tải của nền đất đã gia 
cố theo các phương pháp thông thường nếu có các 
giá trị sức kháng cắt và khối lượng thể tích đặc 
trưng chung cho nền gia cố (gồm cả cọc và đất 
xung quanh cọc). Vấn đề là phải xác định được 
hàm lượng xi măng hợp lý trong hỗn hợp cọc đất-
xi măng sao cho không có sự khác biệt quá lớn 
giữa cọc đất-xi măng và đất nền xung quanh cọc 
để có thể coi nền đất sau gia cố là nền biến dạng 
tuyến tính, đồng nhất, đẳng hướng và áp dụng các 
phương pháp hiện hành để tính toán. 
Độ lún của công trình, dù tính bằng phương 
pháp bất kỳ nào thì cũng phụ thuộc vào áp lực gây 
lún (), đặc trưng biến dạng của đất nền (hệ số nén 
lún a, hệ số rỗng e, mô đun tổng biến dạng E...) và 
chiều sâu ảnh hưởng của công trình (H), nghĩa là, 
độ lún của công trình là một hàm số của các biến 
số , E và H, tức là S = f(, E, H) (Tạ Đức Thịnh, 
2001). Nếu không xác định được áp lực gây lún, 
đặc trưng biến dạng của đất nền và chiều sâu ảnh 
hưởng của công trình thì không thể tính được độ 
lún của công trình. Áp lực gây lún của công trình
Hình 1. Sơ đồ minh họa tính độ lún của nền đất yếu gia cố bằng cọc đất-xi măng. 
390 Tạ Đức Thịnh/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 58(5), 386-390 
tính toán đơn giản, chiều sâu vùng hoạt động 
nén ép cũng không phức tạp. Vấn đề là xác định 
đặc trưng biến dạng của nền như thế nào? 
Nếu coi nền đất sau khi gia cố là một nền đất 
mới thì dù đất dưới mũi cọc gia cố có tính năng xây 
dựng tốt hay không tốt, việc tính độ lún của công 
trình cũng như nhau, chỉ phụ thuộc vào môđun 
tổng biến dạng của đất nền sau gia cố và chiều sâu 
ảnh hưởng thực tế của công trình (Tạ Đức Thịnh 
và nnk., 2009). Như vậy, ta có thể thay thế môđun 
nén của đất xung quanh cọc gia cố và môđun nén 
của vật liệu cọc bằng môđun tổng biến dạng (E) 
của nền đất sau gia cố. Trị số của môđun tổng biến 
dạng của nền đất sau gia cố (E) có thể được xác 
định bằng thí nghiệm bàn nén ở hiện trường với 
đường kính bàn nén lớn hơn khoảng cách giữa các 
cọc gia cố. Khi đó, độ lún của công trình xác định 
theo phương pháp cộng lún từng lớp hoặc các 
phương pháp thông thường khác. 
5. Kết luận và kiến nghị 
Từ những phân tích nêu trên có thể rút ra một 
số kết luận và kiến nghị sau: 
- Cọc đất-xi măng có ưu điểm là tạo ra được 
cọc hỗn hợp đất-xi măng có cường độ cao như 
mong muốn. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp 
này là sau khi gia cố, chỉ cường độ của phần đất 
trong phạm vi đường kính cọc được nâng cao còn 
phần đất nền xung quanh cọc không được cải 
thiện, các tính chất cơ lý của đất xung quanh cọc 
về cơ bản không thay đổi, do đó sức chịu tải của 
nền và độ lún của công trình chủ yếu do các cọc gia 
cố quyết định. 
- Phương pháp tinh toán sức chịu tải và độ lún 
của nền sau gia cố bằng cọc đất-xi măng hiện nay 
chỉ phù hợp khi dưới mũi cọc là các lớp đất có tính 
năng xây dựng tốt, còn nếu dưới mũi cọc là các lớp 
đất yếu thì cần có những nghiên cứu tiếp theo về 
lý thuyết và thực nghiệm để làm sáng tỏ vấn đề. 
- Có thể coi nền đất yếu sau gia cố bằng cọc 
đất-xi măng là một nền mới, có thành phần, trạng 
thái, tính chất cơ lý mới và tính toán sức chịu tải, 
độ lún của công trình như đối với nền đất tự nhiên. 
Trị số môđun tổng biến dạng của nền đất sau gia 
cố có thể được xác định bằng thí nghiệm bàn nén 
ở hiện trường. Các trị số sức kháng cắt, khối lượng 
thể tích của nền đất sau gia cố cần tiếp tục nghiên 
cứu để lựa chọn cho phù hợp. 
Tài liệu tham khảo 
Bergado, D. T., Chai, J. C., Alfaro, M. C., 
Balasubramaniam, A. S., 1996. Những biện 
pháp kỹ thuật mới cải tạo đất yếu trong xây 
dựng. Nhà xuất bản Giáo dục. 
Nguyễn Trấp, Nguyễn Mạnh Dân, Nguyễn Hồng 
Sinh, Phạm Quy Hảo, Nguyễn Anh Dũng, 1985. 
Gia cố nền đất yếu bằng các phương pháp cọc 
đất-vôi, đất-xi măng và cốt thoát nước chế tạo 
sẵn. Chương trình ứng dụng tiến bộ KHKT 26-
03-03-07. Viện Khoa học Kỹ thuật Xây dựng. 
Tạ Đức Thịnh, Nguyễn Huy Phương, Nguyễn 
Hồng, Nguyễn Văn Phóng, 2009. Nền và móng 
công trình. Nhà xuất bản Xây dựng. 
Tạ Đức Thịnh, 2001. Nghiên cứu xử lý, gia cố nền 
đất yếu bằng cọc cát - xi măng - vôi. Báo cáo 
tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ, 
Trường Đại học Mỏ - Địa chất. 
ABSTRACT 
Discussion on the method of calculating the bearing capacity and 
settlement of ground improvement using soil-cement columns 
Thinh Duc Ta 
Faculty of Civil Engineering, Hanoi University of Mining and Geology, Vietnam 
Improvement of soft soil using soil-cement columns has been widely and efficiently used in 
Vietnam. However, calculating the bearing capacity and settlement of composite ground accurately 
and reliably is still a controversial issue. This paper presents, evaluates the methods of calculating 
the bearing capacity and settlement of the stabilized soil, and proposes a different method as well. 

File đính kèm:

  • pdfban_ve_phuong_phap_tinh_toan_suc_chiu_tai_va_do_lun_cua_nen.pdf