Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thành lập các tiểu ban trực thuộc hội đồng quản trị của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Nkhả năng thành lập các tiểu ban trực thuộc hội đồng quản trị (HĐQT) của các công ty niêm ghiên cứu được thực hiện với mục tiêu phân tích sự ảnh hưởng của các nhân tố tác động đến

yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Số liệu sử dụng được thu thập từ 602 công ty niêm yết trên sàn

giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX)

trong giai đoạn 2015 - 2017. Kết quả nghiên cứu cho thấy các nhân tố gồm tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư là

tổ chức và quy mô công ty có ảnh hưởng tích cực đến khả năng thành lập các tiểu ban trực thuộc hội đồng

quản trị. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng thống kê cho thấy quy mô HĐQT, tỷ lệ thành viên HĐQT là người

nước ngoài, tỷ lệ thành viên HĐQT không điều hành, hiệu quả hoạt động của công ty, công ty có sử dụng

dịch vụ kiểm toán của Big-4 và số năm niêm yết có ảnh hưởng đến xu hướng thành lập các tiểu ban trực

thuộc HĐQT.

pdf 13 trang yennguyen 7660
Bạn đang xem tài liệu "Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thành lập các tiểu ban trực thuộc hội đồng quản trị của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thành lập các tiểu ban trực thuộc hội đồng quản trị của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thành lập các tiểu ban trực thuộc hội đồng quản trị của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Sè 137 + 138/2020 thương mại
khoa học
1
3 
10 
28 
40 
50 
61 
75 
MỤC LỤC 
KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ 
1. Nguyễn Viết Thái và Bùi Thị Thanh - Phân tích tác động không gian của ngành du lịch đến tăng 
trưởng kinh tế Việt Nam. Mã số: 137+138.1 TRMg.11 
An Analysis of the Spatial Impact of Tourism on Vietnam’s Economic Growth 
2. Nguyễn Mạnh Hùng và Nguyễn Thị Xuân Hồng - Nghiên cứu hoạt động phát triển nguồn nhân 
lực du lịch của các tỉnh Trung Du, miền núi Bắc Bộ. Mã số: 137+138. 1HRMg.11 
A Study on Tourism Human Resource Development in Northern Mountainous and Mid-land 
Provinces 
3. Đặng Thị Việt Đức - Cấu trúc cung cầu và các yếu tố ảnh hưởng tới gia tăng sản lượng ngành tài 
chính ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2007-2016. Mã số: 137+138.1FiBa.11 
Input - output structure and sources of output growth of vietnam’s banking and finance sector 
in 2007-2016 
4. Hoàng Khắc Lịch - Phân nhóm quốc gia theo tiềm năng và thực tế chi tiêu công. Mã số: 
137+138.1MEco.11 
Classifying Countries according to State Spending Potential and Reality 
5. Nguyễn Thị Cẩm Vân - Tác động của toàn cầu hóa đến sự phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Việt 
Nam. Mã số: 137+138.1IIEM.11 
The Impact of Globalization on the Development of Industry and Service in Vietnam 
QUẢN TRỊ KINH DOANH 
6. Đỗ Thị Bình - Nghiên cứu mức độ chủ động trong chiến lược kinh doanh thân thiện với môi trường 
của các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Mã số: 137+138.2BMkt.21 
A Study on the Activeness in the Environment-Friendly Business Strategy of Vietnam’s Aquatic 
Product Processing and Exporting Enterprises 
7. Ngô Mỹ Trân và Dương Trọng Nhân - Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thành lập các tiểu 
ban trực thuộc hội đồng quản trị của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Mã 
số: 137+138.2OMIS.21 
The Factors Affecting the Formation of Subcommittees under Boards of Directors of Listed 
Companies on Vietnam Stock Market 
ISSN 1859-3666
1
khoa hoïc 
thöông maïi2 Sè 137+138/2020
8. Lê Thị Mỹ Phương và Cao Thi Hà Thương - Phân tích tác động của quản trị tài chính với 
hiệu quả tài chính tại các doanh nghiệp sản xuất niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 
Mã số: 137+138.2FiBa.21 
An Analysis on the Impact of Financial Administration on Financial Performance at 
Listed Manufacturing Enterprises on Vietnam Stock Market 
9. Vũ Thị Thu Hương, Tạ Quang Bình, Hồ Thị Mai Sương và Lương Thị Ngân - Ảnh hưởng 
của các công ty zombie đến hiệu quả hoạt động tài chính: Kết quả nghiên cứu thực nghiệm trên 
các công ty niêm yết nhóm ngành vật liệu xây dựng tại Việt Nam. Mã số: 137+138.2FiBa.21 
The Impact of Zombie Companies on Financial Performance: Results of Experimental 
Research at Listed Construction Materials Companies in Vietnam 
10. Đinh Công Thành, Lê Tấn Nghiêm và Nguyễn Hồng Gấm - Ảnh hưởng của thuê ngoài 
dịch vụ đến hiệu quả phi tài chính của doanh nghiệp - nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp 
vừa và nhỏ tại Đồng bằng Sông Cửu Long. Mã số: 137+138.2BAdm.21 
The effect of outsourcing on the non-financial performance of smes in the mekong delta 
Ý KIẾN TRAO ĐỔI 
11. Hervé B. BOISMERY - Entrepreneurship and Credit Crunch in Vietnam: A Recurring 
Reality? 
Doanh nghiệp và thắt chặt tín dụng ở Việt Nam: thực trạng tái xuất hiện? Mã số: 
137+138.3FiBa.31 
12. YU-HUI LIN avd JIA-CHING JUO - Risk-Adjusted Productivity Change of Taiwan’s 
Banks in The Financial Holding Companies 
Thay đổi năng suất điều chỉnh rủi ro của các ngân hàng Đài Loan trong các công ty cổ 
phần tài chính. Mã số: 137+138.3FiBa.31 
86 
100 
109 
119 
133 
1. Giới thiệu vấn đề nghiên cứu 
Thông tư số 121/2012/TT-BTC có đề cập đến 
việc khuyến khích thành lập các tiểu ban trực thuộc 
HĐQT ở các công ty đại chúng và được chính phủ 
hướng dẫn thêm trong Điều 17 Nghị định 
71/2017/NĐ-CP. Mặc dù không bắt buộc, nhưng 
Nghị định số 71/2017/NĐ-CP khuyến khích các 
công ty thành lập các tiểu ban để hỗ trợ hoạt động 
của HĐQT, bao gồm tiểu ban kiểm toán, tiểu ban 
nhân sự, tiểu ban lương thưởng và các tiểu ban đặc 
biệt khác theo nghị quyết của đại hội đồng cổ đông. 
Việc thành lập các tiểu ban này có tác dụng khi quy 
mô, mức độ phức tạp và tầm quan trọng của các vấn 
đề cần HĐQT ra quyết định ngày càng lớn thì 
HĐQT cần phải thành lập các tiểu ban để xử lý hiệu 
quả, chuyên trách từng lĩnh vực, giám sát, kiểm soát 
hiệu quả hoạt động của Ban Điều hành, cũng như 
tăng cường tính khách quan và độc lập trong các 
phán quyết của mình, đặc biệt trong các lĩnh vực 
như lương thưởng, đề cử thành viên HĐQT 
Vai trò của các tiểu ban trong việc hỗ trợ HĐQT 
là giúp HĐQT ra quyết định chính xác và hiệu quả 
hơn. Tuy nhiên, tại Việt Nam, việc thành lập các 
tiểu ban trực thuộc HĐQT còn chưa được các 
doanh nghiệp quan tâm, số lượng công ty thành lập 
các tiểu ban còn khá khiêm tốn. Một câu hỏi đặt ra 
là điều gì đã khiến cho đa phần các doanh nghiệp 
ít quan tâm đến sự hiện diện của các tiểu ban này? 
Và ở một số các doanh nghiệp khác, điều gì đã tác 
động đến việc các công ty này quyết định thành lập 
75
?
Sè 137+138/2020
QUẢN TRỊ KINH DOANH
thương mại
khoa học
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG 
THÀNH LẬP CÁC TIỂU BAN TRỰC THUỘC HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ 
CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 
Ngô Mỹ Trân 
Trường Đại học Cần Thơ 
Email: nmtran@ctu.edu.vn 
Dương Trọng Nhân 
Công ty Mobifone KV9 - Chi nhánh Sóc Trăng 
Email: dtnhan38@gmail.com 
Ngày nhận: 14/10/2019 Ngày nhận lại: 27/11/2019 Ngày duyệt đăng: 03/12/2019 
N ghiên cứu được thực hiện với mục tiêu phân tích sự ảnh hưởng của các nhân tố tác động đến khả năng thành lập các tiểu ban trực thuộc hội đồng quản trị (HĐQT) của các công ty niêm 
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Số liệu sử dụng được thu thập từ 602 công ty niêm yết trên sàn 
giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) và sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) 
trong giai đoạn 2015 - 2017. Kết quả nghiên cứu cho thấy các nhân tố gồm tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư là 
tổ chức và quy mô công ty có ảnh hưởng tích cực đến khả năng thành lập các tiểu ban trực thuộc hội đồng 
quản trị. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng thống kê cho thấy quy mô HĐQT, tỷ lệ thành viên HĐQT là người 
nước ngoài, tỷ lệ thành viên HĐQT không điều hành, hiệu quả hoạt động của công ty, công ty có sử dụng 
dịch vụ kiểm toán của Big-4 và số năm niêm yết có ảnh hưởng đến xu hướng thành lập các tiểu ban trực 
thuộc HĐQT. 
Từ khóa: Hội đồng quản trị, tiểu ban kiểm toán, tiểu ban đề cử, tiểu ban lương thưởng. 
?các tiểu ban trực thuộc HĐQT? Một lý do các 
doanh nghiệp Việt Nam ít quan tâm đến việc thành 
lập các tiểu ban là do công tác quản trị và kiểm soát 
công ty ít được đầu tư, việc tiếp cận các nguyên tắc 
quản trị công ty mới và hiệu quả còn khá hạn chế 
ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Một lý 
do khác là do chưa có bất kỳ một nghiên cứu nào 
chỉ ra rằng việc thành lập các tiểu ban trực thuộc 
HĐQT của các công ty Việt Nam bị ảnh hưởng bởi 
những nhân tố nào, do đó không có những chính 
sách nào nhằm khuyến khích các công ty thành lập 
các tiểu ban. Trong khi đó, các nghiên cứu trên thế 
giới liên quan đến vấn đề này đã được quan tâm 
thực hiện. Nhiều nghiên cứu đã cung cấp bằng 
chứng thống kê cho thấy sự ảnh hưởng của một số 
nhân tố đến việc thành lập các tiểu ban trực thuộc 
HĐQT như quy mô HĐQT, tính độc lập của 
HĐQT, tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của các cổ đông là 
tổ chức... Ngoài ra, các nghiên cứu trước đây cũng 
cung cấp bằng chứng thống kê cho thấy rằng việc 
thành lập các tiểu ban trực thuộc HĐQT có ảnh 
hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động của công ty. 
Do vậy, việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng 
đến việc thành lập các tiểu ban trực thuộc HĐQT 
của các công ty niêm yết ở thị trường Việt Nam sẽ 
giúp cho việc đưa ra những chính sách thúc đẩy các 
công ty thành lập các tiểu ban hỗ trợ cho hoạt động 
của HĐQT, qua đó nâng cao giá trị của công ty. 
Điều này cho thấy việc tiến hành nghiên cứu “Các 
nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thành lập các tiểu 
ban trực thuộc hội đồng quản trị của các công ty 
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” là 
rất cần thiết. 
2. Giả thuyết nghiên cứu và mô hình nghiên cứu 
Phần nội dung sau đây trình bày những giả 
thuyết nghiên cứu được đặt ra trên cơ sở các tài liệu 
đã lược khảo và bối cảnh nghiên cứu trên thị trường 
chứng khoán Việt Nam. 
Quy mô HĐQT 
Các nghiên cứu trước đây về việc thành lập các 
tiểu ban trực thuộc HĐQT đều có chung quan điểm 
là khi quy mô HĐQT lớn thường phát sinh thêm các 
loại chi phí liên quan đến truyền thông và phối hợp 
(Yawson, 2006; Dimitropoulos và Asteriou, 2010). 
Và để giảm thiểu các loại chi phí này, các công ty 
thành lập ra các tiểu ban trực thuộc HĐQT (Menon 
và Williams, 1994). Quy mô HĐQT thể hiện qua số 
lượng các thành viên HĐQT. Luật Doanh nghiệp 
(2014) quy định số lượng thành viên HĐQT từ 3 -11 
thành viên và số lượng cụ thể sẽ được quy định 
trong điều lệ công ty. Thông tư 121/2012/TT-BTC 
quy định: “công ty đại chúng quy mô lớn và công ty 
niêm yết phải có ít nhất là 5 thành viên HĐQT và tối 
đa 11 thành viên HĐQT”. Như vậy các công ty sẽ 
căn cứ vào quy định của pháp luật và nhu cầu thực 
tế tại công ty và cổ đông mà quy định cụ thể số 
lượng thành viên HĐQT để đảm bảo hoạt động có 
hiệu quả, tổ chức tốt công việc của các tiểu ban trực 
thuộc. Và quy mô này có tác động đến việc thành 
lập các tiểu ban trực thuộc HĐQT ở các công ty Việt 
Nam hay không? Nghiên cứu này kỳ vọng có sự ảnh 
hưởng tích cực của quy mô HĐQT đến việc thành 
lập các tiểu ban trực thuộc HĐQT. Giả thuyết 
nghiên cứu đặt ra như sau: 
H1: Quy mô HĐQT có tác động tích cực đến việc 
thành lập các tiểu ban trực thuộc HĐQT. 
Sở hữu của nhà đầu tư tổ chức 
Một số nghiên cứu trước đây lập luận rằng các cổ 
đông tổ chức thường sở hữu tỷ lệ cổ phần lớn hơn, 
do đó các nhà đầu tư là tổ chức có động lực lớn hơn 
để thực hiện việc kiểm soát hành vi quản lý của ban 
điều hành công ty nhằm đảm bảo lợi ích cho cổ đông 
(Aljifri và Moustafa, 2007; Ping và Wing, 2011). 
Ngoài ra, các nhà đầu tư tổ chức có nhiều nguồn lực 
và ưu thế hơn để chủ động theo dõi quản lý hơn các 
nhà đầu tư nhỏ, có chuyên môn cao hơn và có thể 
giám sát việc quản lý với chi phí thấp hơn các cổ 
đông cá nhân. Pucheta và De Fuentes (2007) cho 
rằng sự tồn tại của các nhà đầu tư tổ chức sẽ khuyến 
khích hình thành tiểu ban kiểm toán một cách tự 
nguyện. Theo đó, rất hợp lý để kỳ vọng rằng các nhà 
đầu tư tổ chức có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng 
Sè 137+138/202076
QUẢN TRỊ KINH DOANH
thương mại
khoa học
hình thành các tiểu ban trực thuộc HĐQT một cách 
tự nguyện. Giả thuyết tiếp theo được đặt ra là: 
H2: Tỷ lệ cổ phần của các nhà đầu tư tổ chức 
càng lớn, khả năng thành lập các tiểu ban trực 
thuộc HĐQT của các công ty niêm yết càng cao. 
Tỷ lệ thành viên HĐQT là người nước ngoài 
Do những thất bại về quản trị doanh nghiệp trên 
toàn cầu càng nhiều nghiên cứu liên quan đến vai trò 
của các tiểu ban trực thuộc hỗ trợ công tác giám sát 
cho HĐQT càng được quan tâm. Nhiều nghiên cứu 
chỉ ra rằng hiệu quả hoạt động của các tiểu ban ảnh 
hưởng đến hiệu quả hoạt động của công ty và việc 
thành lập các tiểu ban trực thuộc HĐQT đã trở thành 
quy định bắt buộc (ví dụ: Hy Lạp, EU). Ở các 
nước phát triển, việc thành lập các tiểu ban đã được 
quan tâm và thực hiện trong vài thập kỷ qua. Trong 
khi đó, ở thị trường chứng khoán Việt Nam, việc 
thành lập các tiểu ban trực thuộc Hội đồng quản trị 
chỉ được quan tâm gần đây. Ruigrok et al. (2006) đã 
cung cấp bằng chứng cho thấy khả năng thành lập 
ủy ban đề cử cao hơn khi công ty có nhiều thành 
viên Hội đồng quản trị là người nước ngoài. Vì vậy, 
sự hiện diện của các thành viên HĐQT là người 
nước ngoài trong các HĐQT của các công ty niêm 
yết ở Việt Nam được kỳ vọng sẽ thúc đẩy sự thành 
lập các tiểu ban thực thuộc HĐQT. Giả thuyết 
nghiên cứu thể hiện sự kỳ vọng này được đặt ra là: 
H3: Tỷ lệ thành viên HĐQT là người nước ngoài 
càng nhiều, khả năng thành lập các tiểu ban trực 
thuộc HĐQT càng cao. 
Hiệu quả hoạt động của công ty 
Các nghiên cứu về hiệu quả hoạt động của các 
tiểu ban đã chỉ ra rằng không phải lúc nào việc thành 
lập các tiểu ban trực thuộc HĐQT cũng xuất phát từ 
các yếu tố tích cực như nâng cao hiệu quả hoạt động 
của công ty, mà đôi khi các công ty chỉ thực hiện 
theo quy định pháp luật (Zhou, et al., 2018). Lý 
thuyết đại diện phát biểu rằng các nhà quản lý cấp 
cao của các công ty sinh lợi cao có xu hướng tiết lộ 
nhiều thông tin hơn cho các bên có liên quan, nhằm 
cho thấy sự hoạt động hiệu quả của họ và sự đảm 
bảo cho nhà đầu tư. Điều này ngụ ý rằng các công ty 
có hiệu quả hoạt động cao thường thể hiện cho nhà 
đầu tư thấy hiệu quả kiểm soát quản trị của công ty, 
phát triển lòng tin nhà đầu tư. Vì thế, những công ty 
có hiệu quả hoạt động cao cũng sẽ có động cơ thành 
lập các tiểu ban trực thuộc HĐQT. 
Tại Việt Nam các văn bản pháp luật chỉ dừng ở 
việc khuyến khích các công ty thành lập các tiểu ban 
trực thuộc HĐQT nhằm nâng cao chất lượng quản 
trị doanh nghiệp, tăng độ tin cậy mà không mang 
tính bắt buộc. Vì thế việc thành lập các tiểu ban ở 
các công ty niêm yết Việt Nam có nhiều khả năng 
xuất phát từ một lý do tích cực hơn. Chẳng hạn như 
để phát triển lòng tin khách hàng những công ty có 
hiệu quả hoạt động tốt sẽ có động cơ thành lập các 
tiểu ban trực thuộc HĐQT để nâng cao hơn nữa hiệu 
quả hoạt động của công ty và sự tin tưởng từ nhà đầu 
tư vào những năm tiếp theo. Hoặc những công ty có 
hiệu quả hoạt động chưa cao sẽ nghĩ đến việc thành 
lập các tiểu ban trực thuộc HĐQT để hỗ trợ công tác 
giám sát, tăng hiệu quả hoạt động của công ty. Với 
sự kỳ vọng này công ty sẽ cân nhắc kỹ lưỡng về việc 
thành lập những tiểu ban trực thuộc HĐQT, bổ 
nhiệm nhân sự phù hợp về năng lực để tổ chức hiệu 
quả các hoạt động của tiểu ban. Giả thuyết tiếp theo 
được đặt ra như sau: 
H4: Hiệu quả hoạt động công ty có tác động 
tích cực đến việc thành lập các tiểu ban trực 
thuộc HĐQT. 
Tỷ lệ thành viên HĐQT không tham gia điều hành 
Sự độc lập của HĐQT phụ thuộc vào tỷ lệ thành 
viên HĐQT tham gia điều hành công ty theo từng 
cấp độ, HĐQT có tất cả các thành viên tham gia điều 
hành, HĐQT có phần lớn thành viên tham gia điều 
hành, HĐQT có phần lớn thành viên không tham gia 
điều hành và HĐQT có tất cả các thành viên không 
tham gia điều hành. Dù là cấu trúc nào, tính độc lập 
nhiều hay ít thì cũng có những hiệu quả nhất định và 
cấu trúc nào thì cũng có ít, nhiều sự chỉ trích. Do đó 
nghiên cứu sẽ không bàn sâu về hiệu quả của cấu 
trúc HĐQT mà trong khuôn khổ nghiên cứu này chỉ 
77
?
Sè 137+138/2020
QUẢN TRỊ KINH DOANH
thương mại
khoa học
?xem xét tầm ảnh hưởng tính độc lập của HĐQT (tỷ 
lệ thành viên HĐQT không tham gia điều hành) đến 
khả năng thành lập các tiểu ban trực thuộc HĐQT. 
Các nghiên cứu ở New Zealand, Hoa Kỳ chỉ ra 
rằng tính độc lập của HĐQT càng cao (đồng nghĩa 
với việc tỷ lệ HĐQT tham gia điều hành thấp) thì có 
nhiều khả năng thành lập tiểu ban trực th ... ành lập các tiểu 
ban trực thuộc HĐQT còn khá khiêm tốn, trong đó 
sàn HOSE có từ 25%-28% công ty thành lập các 
tiểu ban và sàn HNX có từ 18% - 21% công ty 
thành lập các tiểu ban. Số lượng tiểu ban trung 
bình được thành lập ở mỗi công ty ở sàn HNX cao 
hơn sàn HOSE. 
Bảng 2 thể hiện kết quả thống kê mô tả các biến 
độc lập trong mô hình nghiên cứu. HĐQT có quy 
mô lớn nhất trong mẫu nghiên cứu là 15 thành viên 
(Ví dụ như ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 
BIDV năm 2015) và quy mô thấp nhất là 2 thành 
viên. Trung bình quy mô HĐQT của các công ty 
niêm yết là khoảng 5 thành viên. 
Cổ đông là tổ chức nắm giữ tỷ lệ cổ phần trung 
bình là 44,2%. Quá trình thu thập số liệu cho thấy đa 
phần các công ty niêm yết rất hiếm có sự xuất hiện 
của người nước ngoài trong HĐQT. Vì vậy, tỷ lệ 
trung bình của thành viên HĐQT là người nước 
ngoài trong HĐQT rất thấp, chỉ chiếm khoảng 3,8%. 
Tỷ lệ thành viên HĐQT không tham gia điều hành 
thể hiện mức độ tập trung vai trò kiểm soát của 
HĐQT hay mức độ can thiệp vào vai trò điều hành 
của ban giám đốc. Trong giai đoạn 2015-2017, tỷ lệ 
này có giá trị trung bình là 67,3%. Điều này có 
nghĩa là các công ty niêm yết trên sàn HOSE và 
HNX giai đoạn 2015-2017 có 67,3% thành viên 
HĐQT không tham gia vào công tác điều hành của 
ban giám đốc. Một số công ty hoàn toàn không có 
81
?
Sè 137+138/2020
QUẢN TRỊ KINH DOANH
thương mại
khoa học
Bảng 2: Thống kê mô tả các biến độc lập giai đoạn 2015-2017 
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu từ mẫu nghiên cứu gồm 602 công ty niêm yết tại HOSE và HNX giai đoạn 
2015 - 2017
7rQELӃQ ĈѫQYӏWtQK Trung bình 
ĈӝOӋFK
FKXҭQ 
1Kӓ
QKҩW 
/ӟQQKҩW 
4X\P{+Ĉ47 Thành viên 5,499 1,203 2,00 15,00 
7ӹOӋ VӣKӳXFӫDQKjÿҫXWѭWә
FKӭF 
/ҫQ 0,442 0,286 0,00 1,00 
7ӹOӋWKjQKYLrQ+Ĉ47OjQJѭӡL
QѭӟFQJRjL 
/ҫQ 0,038 0,129 0,00 1,00 
7ӹ OӋ WKjQK YLrQ +Ĉ47 NK{QJ
WKDPJLDÿLӅXKjQK 
/ҫQ 0,673 0,183 0,00 1,00 
+LӋXTXҧKRҥWÿӝQJFӫDF{QJW\ /ҫQ 0,055 0,088 -0,98 0,84 
6ӱGөQJGӏFKYөNLӇPWRiQFӫD
các công ty nhóm Big-4 trong 
QăP2017 
- 0,293 0,455 0,00 1,00 
Quy mô công ty - 27,347 1,699 18,09 34,70 
6ӕQăPF{QJW\QLrP\ӃW 1ăP 7,782 2,929 1,00 18,00 
?thành viên HĐQT nào tham gia điều hành công ty là 
FDC, HHS, NLG trong 3 năm. Những công ty có 
mức can thiệp khá sâu vào hoạt động điều hành với 
tỷ lệ thành viên HĐQT không tham gia điều hành 
bằng 0% như TIE, TKU (2017), CMI (2016), BPC, 
PTD (2015). 
Hiệu quả hoạt động của công ty được đo lường 
bằng chỉ số ROA trong năm của mỗi công ty. Giá 
trị trung bình ROA thống kê từ mẫu nghiên cứu 
gồm 602 công ty là 5,5%. Về quy mô công ty, giá 
trị logarit tự nhiên (ln) giá trị tổng tài sản của các 
công ty giai đoạn 2015-2017 trung bình là 27,35. 
Số năm công ty niêm yết trên sàn chứng khoán có 
giá trị trung bình là 7,78 năm, công ty có số năm 
được niêm yết trên sàn chứng khoán cao nhất là 18 
năm (HAP, LAF, REE,SAM,) và nhiều công ty 
có số năm niêm yết thấp nhất là 1 năm (thành lập 
năm 2015). Trong mẫu nghiên cứu, có khoảng 
29% công ty niêm yết có sử dụng dịch vụ kiểm 
toán của các công ty nhóm Big-4 (Deloitte, PwC, 
EY, KPMG). 
4.2. Kết quả phân tích mối quan hệ giữa các 
nhân tố ảnh hưởng đến việc thành lập các tiểu ban 
trực thuộc HĐQT 
Bảng 3 thể hiện kết quả ước lượng của mô hình 
các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định thành lập các 
tiểu ban trực thuộc HĐQT. Trước hết tác giả sử dụng 
phương pháp ước lượng Pooled logit, sau đó sử dụng 
Sè 137+138/202082
QUẢN TRỊ KINH DOANH
thương mại
khoa học
Bảng 3: Kết quả phân tích mối quan hệ giữa các nhân tố 
ảnh hưởng đến việc thành lập các tiểu ban trực thuộc HĐQT 
 Ghi chú: (***), (**) và (*) lần lượt có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, 5% và 10%. 
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu từ mẫu nghiên cứu gồm 602 công ty niêm yết tại HOSE và HNX giai đoạn 
năm 2015- 2017 
7rQELӃQ Pooled logit RbEM FEM 
4X\P{+Ĉ47 0,314*** 0,662** -0,035 
7ӹOӋVӣKӳXFӫDQKjÿҫXWѭOjWәFKӭF 0,216 1,623 5,111** 
7ӹOӋWKjQKYLrQ+Ĉ47OjQJѭӡLQѭӟFQJRjL 0,768* 6,135*** 4,136 
+LӋXTXҧKRҥWÿӝQJFӫDF{QJW\ 1,215 2,871 2,736 
7ӹOӋ79+Ĉ47NK{QJÿLӅXKjQK 0,543 -0,817 -1,378 
&{QJW\FyVӱGөQJGӏFKYөNLӇPWRiQFӫD%LJ 0,308** 0,078 -0,969 
6ӕQăPQLrP\ӃW 0,038* 0,052 -0,017 
Quy mô công ty 0,121*** 0,885*** 1,677** 
+ӋVӕJyF -7,246*** -36,282*** - 
*LiWUӏ3FӫDP{KuQK 0,000 0,000 0,000 
6ӕTXDQViWVӕQKyP 1.806 1.806 1.806 
.LӇPÿӏQK+DXVPDQ 0,000 
1. Kết quả phân tích sẽ được cung cấp khi có yêu cầu
mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (REM)1 và phương 
pháp ước lượng mô hình hiệu ứng cố định (FEM). 
Kiểm định Hausman được dùng để xác định xem 
REM hay FEM là phù hợp hơn. Kết quả kiểm định 
Hausman có giá trị Prob > Chi 2 = 0,0006 < 0,05, cho 
phép bác bỏ giả thuyết H0 rằng có sự khác biệt giữa 
mô hình FEM và REM . Kết quả này cho thấy các sai 
số có mối tương quan với các biến độc lập trong mô 
hình, vì thế mô hình tác động cố định (FEM) sẽ phù 
hợp hơn mô hình tác động ngẫu nhiên (REM). 
Bằng chứng thống kê từ kết quả ước lượng với 
phương pháp Pooled Logit cho thấy có 5 nhân tố có 
ảnh hưởng tích cực đến khả năng thành lập các tiểu 
ban trực thuộc HĐQT trên thị trường chứng khoán 
Việt Nam bao gồm quy mô HĐQT, tỷ lệ thành viên 
HĐQT là người nước ngoài, công ty có sử dụng 
dịch vụ kiểm toán của Big-4, số năm niêm yết và 
quy mô công ty. Tuy nhiên, kết quả ước lượng bằng 
phương pháp FEM cho thấy chỉ còn có hai nhân tố 
có ý nghĩa thống là tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư là tổ 
chức và quy mô công ty. Do vậy, phần tiếp theo sẽ 
thảo luận về sự ảnh hưởng của hai nhân tố này đến 
khả năng thành lập các tiểu ban trực thuộc HĐQT. 
Quyền sở hữu cổ phần của các cổ đông là 
tổ chức 
Kết quả thống kê từ bảng 3 cho thấy tỷ lệ sở 
hữu của các nhà đầu tư là tổ chức có ảnh hưởng 
tích cực và cùng chiều với quyết định thành lập các 
tiểu ban ở mức ý nghĩa 5%. Một kết quả đồng nhất 
với nghiên cứu của Hassan (2015) về sự ảnh hưởng 
của tỷ lệ sở hữu cổ phần của các cổ đông là tổ chức 
đến quyết định thành lập tiểu ban kiểm toán ở các 
công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Palestine. 
Kết quả này củng cố thêm quan điểm của Aljifri và 
Moustafa (2007) cũng như Ping và Wing (2011) 
rằng những nhà đầu tư là tổ chức thường là nhà đầu 
tư lớn với nhiều nguồn lực và ưu thế để chủ động 
theo dõi quản lý hơn các nhà đầu tư nhỏ, có chuyên 
môn cao hơn và có thể giám sát việc quản lý với 
chi phí thấp hơn các cổ đông cá nhân, vì thế sự hiện 
diện của nhà đầu tư là tổ chức sẽ khuyến khích 
hình thành các tiểu ban một cách tự nguyện. 
Quy mô công ty 
Biến kiểm soát quy mô công ty có hệ số ước 
lượng có ý nghĩa thống kê ở mức 5% và có mối quan 
hệ thuận chiều với quyết định thành lập các tiểu ban 
trực thuộc HĐQT. Điều này cho thấy những công ty 
có quy mô lớn hơn sẽ thành lập các tiểu ban trực 
thuộc HĐQT. Kết quả này tương đồng với kết quả 
nghiên cứu của Pincus et al. (1989) rằng các công ty 
NASDAQ có nhiều khả năng thành lập tiểu ban 
kiểm toán. 
Các biến còn lại trong mô hình không có ý nghĩa 
thống kê trong mối quan hệ với việc thành lập các 
tiểu ban trực thuộc HĐQT. 
5. Kết luận 
Bài báo này nghiên cứu về các nhân tố ảnh 
hưởng đến việc thành lập các tiểu ban trực thuộc 
HĐQT của các công ty niêm yết trên thị trường 
chứng khoán Việt Nam. Dữ liệu thu thập được từ các 
báo cáo tài chính, báo cáo thường niên và các báo 
cáo quản trị của 602 công ty niêm yết trên sở giao 
dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (283 
công ty) và sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (319 
công ty) trong giai đoạn năm 2015-2017. Kết quả 
nghiên cứu cho thấy rằng các nhân tố tác động có ý 
nghĩa thống kê đến việc thành lập các tiểu ban trực 
thuộc HĐQT là tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư tổ chức 
và quy mô công ty. Các nhân tố này đều có ảnh 
hưởng tích cực đến việc thành lập các tiểu ban tại 
các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán 
Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng thống kê 
cho thấy tỷ lệ thành viên HĐQT là người nước 
ngoài, tỷ lệ TVHĐQT không điều hành, hiệu quả 
hoạt động của công ty, công ty sử dụng dịch vụ của 
Big-4 và số năm niêm yết có ảnh hưởng đến xu 
hướng thành lập các tiểu ban trực thuộc HĐQT. 
83
?
Sè 137+138/2020
QUẢN TRỊ KINH DOANH
thương mại
khoa học
?Các kết quả nghiên cứu trước đây trên khắp thế 
giới cho thấy sự ảnh hưởng tích cực của việc thành 
lập các tiểu ban trực thuộc HDDQT đến giá trị công 
ty chẳng hạn như nghiên cứu của Upadhyay et al. 
(2013) và Leung et al. (2013)... Vì thế, việc thành 
lập các tiểu ban trực thuộc HĐQT tại các công ty 
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam là 
việc làm cần thiết giúp tăng hiệu quả hoạt động cũng 
như giá trị công ty. Các công ty nên có kế hoạch 
thành lập những tiểu ban trực thuộc HĐQT phù hợp 
với đặc điểm của công ty. Những tiểu ban phù hợp 
có hiệu quả hoạt động tốt sẽ giúp ích rất nhiều cho 
HĐQT trong vai trò kiểm soát, qua đó giúp nâng cao 
giá trị công ty. 
Dựa vào kết quả nghiên cứu được, một số hàm ý 
quản trị khuyến khích các công ty niêm yết trên thị 
trường chứng khoán Việt Nam gia tăng việc thành lập 
các tiểu ban trực thuộc HĐQT được đề xuất bao gồm: 
- Xem xét lựa chọn tỷ lệ sở hữu của nhà đầu là tổ 
chức hợp lý 
Việc này đồng nhất với các lý thuyết nền như lý 
thuyết người đại diện, lý thuyết người quản gia và lý 
thuyết phụ thuộc nguồn lực. Các lý thuyết nền này lập 
luận rằng bởi vì cổ phần của các tổ chức thường lớn 
hơn, các nhà đầu tư là tổ chức đóng một vai trò quan 
trọng và có động lực lớn hơn để quan sát hành vi quản 
lý. Vì vậy khi nhà đầu tư là tổ chức sở hữu tỷ lệ cổ 
phần công ty càng cao thì việc kiểm soát quản trị 
công ty càng được quan tâm nhiều hơn. Và việc thành 
lập các tiểu ban trực thuộc HĐQT là một sự lựa chọn 
hiệu quả cho việc kiểm soát quản trị công ty. 
Ngoài ra, các nhà đầu tư tổ chức có nhiều nguồn 
lực và ưu thế hơn để chủ động theo dõi quản lý hơn 
các nhà đầu tư nhỏ, có chuyên môn cao hơn và có 
thể giám sát việc quản lý với chi phí thấp hơn các cổ 
đông cá nhân (Aljifri và Moustafa, 2007; Ping và 
Wing, 2011). Pucheta và De Fuentes (2007) cho 
rằng sự tồn tại của các nhà đầu tư tổ chức trên ban 
giám đốc sẽ khuyến khích hình thành tiểu ban kiểm 
toán một cách tự nguyện. Vì vậy việc tăng tỷ lệ sở 
hữu của nhà đầu tư tổ chức sẽ làm tăng khả năng 
thành lập các tiểu ban trực thuộc HĐQT, qua đó tăng 
cường hoạt động kiểm soát công ty làm tăng hiệu 
quả hoạt động cũng như giá trị của doanh nghiệp. 
- Lựa chọn quy mô công ty phù hợp 
Những công ty có quy mô lớn có nhiều tiềm lực 
để thực hiện các quy tắc thực hành kiểm soát quản 
trị tốt trên thế giới. Do đó, việc tăng quy mô công ty 
làm khơi dậy nhu cầu áp dụng mô hình quản lý có 
hiệu quả hơn với những tiểu ban trực thuộc hội đồng 
quản trị như tiểu ban kiểm toán. Các công ty có quy 
mô lớn nên thiết lập các cấu trúc quản trị hợp lý, bao 
gồm cả việc thành lập các tiểu ban trực thuộc hội 
đồng quản trị để giúp họ tăng cường niềm tin của 
nhà đầu tư, từ đó có thể gia tăng giá trị thị trường 
của công ty.u 
Tài liệu tham khảo: 
1. Aljifri, K., & Moustafa, M., 2007, The impact 
of corporate governance mechanisms on the per-
formance of UAE firms: an empirical analysis, 
Journal of Economic and Administrative Sciences, 
23(2): 71-93. 
2. Bradbury, M., 1990, The incentives for volun-
tary audit committee formation, Journal Accounting 
Public Policy. 9(1): 19-36. 
3. Dimitropoulos, P. E., & Asteriou, D., 2010, 
The effect of board composition on the informative-
ness and quality of annual earnings: Empirical evi-
dence from Greece, Research in International 
Business and Finance, 24(2): 190-205. 
4. Eichenseher, J. W., & Shields, D., 1985, 
Corporate director liability and monitoring prefer-
ences, Journal of Accounting and Public Policy. 4: 
13-31. 
Sè 137+138/202084
QUẢN TRỊ KINH DOANH
thương mại
khoa học
5. Gomez-Mejia, L. R., Larraza-Kintana, M., & 
Makri, M. (2003), The determinants of executive com-
pensation in family-controlled public corporations, 
Academy of Management Journal, 46(2), 226-237. 
6. Hassan, Y.M. and Hijazi, R.H., 2015, 
Determinants of the voluntary formation of a com-
pany audit committee: Evidence from Palestine, 
Asian Academy of Management Journal of 
Accounting and Finance, 11: 27-46. 
7. Leung, S. et al., 2014, Corporate board 
and board committee independence, firm per-
formance, and family ownership concentra-
tion: An analysis based on Hong Kong firms, 
Journal of Contemporary Accounting & 
Economics. 10: 16-31. 
8. Menon, K., & Williams, J. D., 1994, The use 
of audit committees for monitoring, Journal of 
Accounting and Public Policy, 13(2): 121-139. 
9. Pincus, K., Rubarsky, M., & Wong, J., 1989, 
Voluntary formation of corporate audit committees 
among NASDAQ firms, Journal of Accounting and 
Public Policy. 8(4): 239-265. 
10. Ping, Z., & Wing, C., 2011, Corporate gov-
ernance: A summary review on different theory 
approaches, International Research Journal of 
Finance and Economics, 68: 7-13. 
11. Pucheta-Martínez, M. C., & De Fuentes, C., 
2007, The impact of audit committee characteristics 
on the enhancement of the quality of financial 
reporting: An empirical study in the Spanish con-
text, Corporate Governance: An International 
Review, 15(6): 1394-1412. 
12. Ruigrok, W., Peck, S., Tacheva, S., Greve, P., 
& Hu, Y. (2006), The determinants and effects of 
board nomination committees, Journal of 
Management & Governance, 10(2), 119-148. 
13. Suwina, C., & Bruce, A. R., 2012, A study of 
the incidence and independence of nomination com-
mittees, Int. J. Corporate Governance, Vol.3, No. 1, 
pp.84-104. 
14. Upadhyay, A.D. et al., 2013, Board structure 
and role of monitoring committees, Journal of 
Business Research, 67: 1486-1492. 
15. Yawson, A., 2006, Evaluating the character-
istics of corporate boards associated with layoff 
decisions, Corporate Governance: An International 
Review, 14(2): 75-84. 
16. Zhou, H. et al., 2018, Board of directors, 
audit committee, and firm performance: Evidence 
from Greece, Journal of International Accounting, 
Auditing and Taxation, 31: 20-36. 
Summary 
The study was carried out to analyze the 
impacts of the factors on the formation of subcom-
mittees under Boards of Directors (BOD) of listed 
companies on Vietnam Stock Market. The data 
was collected from 602 companies listed on 
Hochiminh City Stock Exchange (HOSE) and 
Hanoi Stock Exchange (HNX) from 2015 to 2017. 
The research results show that the factors including 
the investor’s ownership proportion and the com-
pany’s organization and scale have positive effect 
on the formation of subcommittees under BOD. 
However, there is no statistic evidence that the size 
of BOD, the proportion of foreign members of 
BOD, the proportion of non-executive members of 
BOD, the company’s business performance, audit-
ing service by Big-4, and the number of listing 
years have influence on the formation of subcom-
mittees under BOD. 
85Sè 137+138/2020
QUẢN TRỊ KINH DOANH
thương mại
khoa học

File đính kèm:

  • pdfcac_nhan_to_anh_huong_den_kha_nang_thanh_lap_cac_tieu_ban_tr.pdf