Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gây hấn của học sinh Trung học Cơ sở trên địa bàn tỉnh Nghệ An

Abstract: This article presents the results of the survey on factors affecting the aggressive behavior

of students at secondary schools in Nghe An province. The results show that most aggressive

behaviours of secondary schools in the study are at low-average level. Students at high levels of

aggression often have misconception about aggression and have high levels of psychological stress

at school as well as their communicative skills and problem solving ability are limited. Also, these

students face many difficulties in dealing with friends, parents and teachers.

pdf 5 trang yennguyen 4300
Bạn đang xem tài liệu "Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gây hấn của học sinh Trung học Cơ sở trên địa bàn tỉnh Nghệ An", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gây hấn của học sinh Trung học Cơ sở trên địa bàn tỉnh Nghệ An

Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gây hấn của học sinh Trung học Cơ sở trên địa bàn tỉnh Nghệ An
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 433 (Kì 1 - 7/2018), tr 17-20; 26 
17 
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI GÂY HẤN 
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN 
Trần Hằng Ly - Trường Đại học Vinh 
Ngày nhận bài: 03/05/2018; ngày sửa chữa: 20/05/2018; ngày duyệt đăng: 25/05/2018. 
Abstract: This article presents the results of the survey on factors affecting the aggressive behavior 
of students at secondary schools in Nghe An province. The results show that most aggressive 
behaviours of secondary schools in the study are at low-average level. Students at high levels of 
aggression often have misconception about aggression and have high levels of psychological stress 
at school as well as their communicative skills and problem solving ability are limited. Also, these 
students face many difficulties in dealing with friends, parents and teachers. 
Keywords: Student, secondary school, aggression, aggressive behavior. 
1. Mở đầu 
Gây hấn là một vấn đề chung của các bạn trẻ đang ở 
độ tuổi đến trường và là kết quả tác động tâm lí, giáo dục 
và xã hội mang tính tiêu cực ở cả người gây hấn và nạn 
nhân. Hành vi gây hấn là những hành động mang tính chất 
xâm hại, nhằm làm tổn thương người khác, chính bản thân 
mình hoặc các vật thể xung quanh một cách có chủ đích 
dù có được hay không [1]. Hành vi gây hấn luôn là một 
vấn đề bức thiết, là một vấn nạn của toàn xã hội, đã được 
rất nhiều các nhà tâm lí học, giáo dục học, xã hội học dành 
sự quan tâm nghiên cứu. Bài viết trình bày về thực trạng 
các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gây hấn ở học sinh (HS) 
trung học cơ sở (THCS) năm học 2016-2017 ở tỉnh Nghệ 
An. Từ những kết quả nghiên cứu định lượng và định tính, 
chúng tôi tập trung phân tích mối quan hệ tương quan giữa 
các yếu tố chủ quan và khách quan đối với hành vi gây hấn 
của HS THCS. Các yếu tố chủ quan bao gồm: Cảm xúc, 
mức độ căng thẳng, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng giải quyết 
vấn đề, nhận thức về hành vi gây hấn; các yếu tố khách 
quan bao gồm: mối quan hệ với bạn bè, cha mẹ, cách ứng 
xử của cha mẹ khi HS mắc lỗi, game bạo lực. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Khách thể và phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu được tiến hành bằng bảng hỏi tự thuật 
(self-report) trên 468 HS THCS ở cả 4 khối lớp 6,7,8,9 
tại 5 trường THCS (Đặng Thai Mai, Hưng Bình, Nghi 
Mỹ, Mường Xén, dân tộc nội trú (DTNT) Kỳ Sơn) đặc 
trưng cho các vùng miền trên địa bàn tỉnh Nghệ An từ 
tháng 8-12/2017; khách thể khá đồng đều về mặt giới 
tính, gồm 220 HS nam và 248 HS nữ. Chúng tôi sử dụng 
phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như phương 
pháp nghiên cứu lí luận, điều tra bằng bảng hỏi, thống kê 
toán học và sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 23.0 để 
xử lí số liệu và sử dụng các thang đo như: bảng hỏi biểu 
hiện tính gây hấn của Yudofstey (1986) [2], Buss (1992) 
[3], Orpinas (2001) [4]. Từ đó, xây dựng thang đo về 
hành vi gây hấn bao gồm 53 items, miêu tả cụ thể các 
biểu hiện hành vi gây hấn và được chia làm 2 loại là gây 
hấn lời nói và gây hấn hành vi với hệ số tin cậy Cronbach 
α = 0,893 và 0,739. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng 
“Trắc nghiệm đo điểm tâm lí xã hội của HS” trong công 
trình nghiên cứu của Nguyễn Bá Đạt [5]. 
2.2. Kết quả nghiên cứu 
2.2.1. Thực trạng hành vi gây hấn của học sinh trung học 
cơ sở trên địa bàn tỉnh Nghệ An (bảng 1) 
Bảng 1. So sánh các nhân tố hành vi gây hấn 
Hành vi gây hấn 
Điểm trung 
bình (Mean) 
Độ lệch 
chuẩn (Sd) 
Gây hấn hành vi 1,74 0,51 
Gây hấn thái độ 2,45 0,50 
Điểm trung bình 1,98 0,43 
Chúng tôi tiến hành so sánh cặp đôi T-test để so sánh 
các nhân tố biểu hiện của hành vi gây hấn. Các em có xu 
hướng gây hấn thái độ (M = 2,45) nhiều hơn gây hấn 
hành vi (M=1,74) và sự khác biệt này là có ý nghĩa thống 
kê với p = 0,00 (t = - 24,73). Khi nói đến hành vi gây hấn, 
người ta sẽ nghĩ ngay đến gây hấn bằng bạo lực, tuy 
nhiên, hình thức này lại không phổ biến bằng hình thức 
gây hấn bằng thái độ. Kết quả này cũng là minh chứng 
cho thấy, gây hấn hành vi hay tên gọi khác là bạo lực, nó 
chỉ là một phần nhỏ của biểu hiện hành vi gây hấn. 
Dùng ANOVA để tìm ra sự khác biệt giới tính của 
gây hấn hành vi và gây hấn thái độ. Chỉ số p đều nhỏ hơn 
0,05, chứng tỏ có sự khác biệt rõ ràng về giới về mức hộ 
gây hấn hành vi và gây hấn thái độ. 
Bảng 2. So sánh sự khác biệt về giới của các nhân tố 
biểu hiện hành vi gây hấn 
Nhân tố Giới tính Mean 
Mức ý 
nghĩa (p) 
Gây hấn hành vi Nam 1,91 0,00 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 433 (Kì 1 - 7/2018), tr 17-20; 26 
18 
Nữ 1,58 
Gây hấn thái độ 
Nam 2,41 
0,05 
Nữ 2,49 
Trung bình gây hấn 
Nam 2,08 
0,00 
Nữ 1,89 
Gây hấn hành vi là một loại gây hấn trực tiếp, sử dụng 
hành vi để thỏa mãn sự bực tức, sự mất kiểm soát, thể hiện 
bằng hành động, còn gây hấn gián tiếp gây ra những tổn 
thương về tâm lí đối phương thông qua những lời nói xúc 
phạm, tung tin đồn nhảm... Kết quả nghiên cứu cho thấy, 
ở nam giới có xu hướng thực hiện gây hấn hành vi nhiều 
hơn nữ giới. Và ngược lại, nữ giới lại có xu hướng thực 
hiện hành vi gây hấn thái độ nhiều hơn nam giới, kết quả 
này có ý nghĩa thống kê. Kết quả này tương đồng với 
nghiên cứu trước đây của Hoàng Xuân Dung và cộng sự 
(2010) rằng HS nam có tỉ lệ sử dụng các hành vi gây hấn 
mang tính chất bạo lực cao hơn HS nữ, trong khi đó HS 
nữ thường gây hấn bằng lời nói về mặt tinh thần nhiều 
hơn nam. 
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn cho thấy rằng, có sự 
tương quan thuận ở mức trung bình, hệ số tương quan (r)= 
0,40**) giữa gây hấn thái độ và gây hấn hành vi. Sự tương 
quan này cho thấy, ở một số HS có biểu hiện gây hấn thái 
độ cũng sẽ có xu hướng thực hiện gây hấn hành vi. 
2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gây hấn của học 
sinh trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh Nghệ An 
a) Các yếu tố chủ quan (xem bảng 3) 
- Nhận thức sai lầm của HS về gây hấn: Kết quả 
nghiên cứu chỉ ra rằng, HS có nhận thức sai lầm về gây 
hấn ở mức độ trung bình (M = 1,51). Các kiểu nhận thức 
sai lầm thường có ở các em là: Sau khi đánh chửi nhau 
với ai đó, em không cảm thấy có lỗi (M = 1,60); Khi có 
cãi cọ, xung đột với ai đó, em thường có suy nghĩ là phải 
đánh họ mới đỡ tức (M = 1,55) và Em có suy nghĩ là làm 
hỏng đồ hoặc phá huỷ đồ của người khác cũng không 
sao (M = 1,35). Các kiểu suy nghĩ sai lầm này gia tăng ở 
HS có mức độ gây hấn trung bình và cao. HS có mức độ 
gây hấn thấp, trung bình và cao lần lượt có mức độ nhận 
thức sai lầm là M = 1,28; 1,45 và 1,94. Sự khác biệt có ý 
nghĩa về mặt thống kê với p = 0,00. 
Giữa hành vi gây hấn và nhận thức sai lầm có sự 
tương quan thuận, r = 0,38**, p = 0,00). Hệ số tương 
quan giữa 2 biến cho thấy, hành vi gây hấn của HS có 
liên quan chặt chẽ đến nhận thức sai lầm của các em. 
Nhận thức sai lầm có thể là nguyên nhân thúc đẩy hành 
Bảng 3. Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến hành vi gây hấn của HS THCS trên địa bàn tỉnh Nghệ An 
Tiêu chí p Mức độ gây hấn Mean Sd 
Nhận thức sai lầm của HS 0,00 
Gây hấn mức độ thấp 1,27 0,40 
Gây hấn mức độ trung bình 1,44 0,46 
Gây hấn mức độ cao 1,94 0,53 
Tổng 1,50 0,51 
Cảm xúc khi bị hẫng hụt 0,00 
Gây hấn mức độ thấp 1,72 0,41 
Gây hấn mức độ trung bình 2,12 0,46 
Gây hấn mức độ cao 2,23 0,49 
Tổng 2,07 0,48 
Mức độ căng thẳng tâm lí 0,00 
Gây hấn mức độ thấp 1,70 0,34 
Gây hấn mức độ trung bình 1,96 0,52 
Gây hấn mức độ cao 2,15 0,38 
Tổng 1,95 0,49 
Kĩ năng giao tiếp 0,00 
Gây hấn mức độ thấp 1,37 0,37 
Gây hấn mức độ trung bình 1,69 0,39 
Gây hấn mức độ cao 2,00 0,41 
Tổng 1,69 0,43 
Kĩ năng giải quyết vấn đề 0,00 
Gây hấn mức độ thấp 1,62 0,55 
Gây hấn mức độ trung bình 1,98 0,69 
Gây hấn mức độ cao 2,19 0,71 
Tổng 1,95 0,69 
(Ghi chú: Mức thấp: 1,55 ≤ ĐTB < 1,98; Mức trung bình: 1,98 ≤ ĐTB < 2,41; Mức cao: 2,41 ≤ ĐTB ≤ 4,00) 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 433 (Kì 1 - 7/2018), tr 17-20; 26 
19 
vi gây hấn của HS, cũng có thể được hình thành sau khi 
HS thực hiện hành vi gây hấn với bạn, chính những nhận 
thức sai lầm về gây hấn trở thành yếu tố thúc đẩy hành vi 
gây hấn ở HS THCS trên địa bàn tỉnh Nghệ An. 
- Cảm xúc của HS: Kết quả nghiên cứu cho thấy, 
trạng thái cảm xúc của các HS luôn luôn thay đổi. Cụ thể: 
Cảm xúc của em luôn thay đổi: lúc buồn, lúc vui, lúc cáu 
gắt (M = 2,31) và Em hay cáu kỉnh hoặc nổi nóng (M = 
1,83). Ở lứa tuổi HS THCS, sự thay đổi về sinh lí có ảnh 
hưởng rõ rệt tới sự thay đổi về tâm lí: quá trình hưng phấn 
chiếm ưu thế rõ rệt; sự ức chế bị kém đi dẫn đến nhiều 
khi thiếu niên không làm chủ được mình, dễ bực tức, cáu 
gắt nên dễ vi phạm kỉ luật. Các em dễ có phản ứng mãnh 
liệt trước sự đánh giá, nhất là sự đánh giá thiếu công bằng 
từ phía người lớn. Tình cảm của thiếu niên giai đoạn này 
cũng sâu sắc và phức tạp hơn lứa tuổi nhi đồng. Các em 
rất dễ xúc động, biểu lộ tình cảm một cách dễ dàng, tình 
cảm dễ chuyển hoá và mang tính chất bồng bột [6]. Đặc 
biệt, trong các tình huống bị hụt hẫng, mất niềm tin; HS 
thường cảm thấy tức giận khi một bạn nào đó làm hỏng 
đồ, trêu chọc và gây sự (M = 2,04). 
Mức độ thay đổi các trạng thái cảm xúc và mức độ 
tức giận khi gặp phải các tình huống hẫng hụt gia tăng ở 
HS có mức độ gây hấn trung bình và cao. Cụ thể, các chỉ 
số này ở các nhóm HS có mức độ gây hấn thấp, trung 
bình và cao lần lượt là M = 1,73; 2,12 và 2,23. Sự khác 
biệt có ý nghĩa về mặt thống kê với p = 0,00. 
Giữa hành vi gây hấn và sự thay đổi đời sống cảm 
xúc cũng như sự tức giận trong các tình huống hẫng hụt 
của HS có sự tương quan thuận (r = 0,30**, p = 0,00). 
Hệ số tương quan giữa 2 biến cho thấy, hành vi gây hấn 
của HS có liên quan chặt chẽ đến cảm xúc của các em. 
Kết quả này cũng có sự tương đồng với nghiên cứu của 
Irvin Sam Schonfeld, 2006 [7]. 
- Mức độ căng thẳng tâm lí của HS: Kết quả khảo sát 
cho thấy HS có mức độ căng thẳng tâm lí cao trong các 
tình huống như: Em cảm thấy lo lắng khi không thuộc bài 
hoặc chuẩn bị bài chu đáo (M = 2,40); Khi bị bố mẹ 
mắng, đến lớp em cảm thấy rất căng thẳng (M = 1,96); 
Việc học tập làm em bị căng thẳng với (M = 2,04); Em 
cảm thấy ức chế khi giáo viên phạt hoặc mắng các bạn 
trong lớp (M = 1,71); Việc thực hiện nội quy của nhà 
trường và lớp học làm em cảm thấy căng thẳng, ức chế 
(M = 1,69). Mức độ căng thẳng của HS khi đến lớp gắn 
liền với việc không hoàn thành các bài tập, sự trách mắng 
của bố mẹ, sự trừng phạt của giáo viên và việc thực hiện 
nội quy của nhà trường. 
Sự căng thẳng tâm lí gia tăng ở nhóm HS có mức độ 
gây hấn trung bình và cao. HS có mức độ gây hấn thấp, 
trung bình và cao lần lượt có mức độ căng thẳng tâm lí là 
M = 1,70; 1,97 và 2,16. Sự khác biệt có ý nghĩa về mặt 
thống kê với p = 0,00. 
Mức độ căng thẳng tâm lí ở trên lớp và mức độ gây 
hấn có sự tương quan thuận (r = 0,27** và p = 0,00). Hệ 
số tương quan giữa 2 biến cho thấy, hành vi gây hấn của 
HS có liên quan chặt chẽ đến mức độ căng thẳng tâm lí 
của các em. Đây có thể là nguyên nhân thúc đẩy hành vi 
gây hấn của HS. 
- Kĩ năng giao tiếp của HS: Kết quả nghiên cứu chỉ 
ra rằng, khó khăn trong giao tiếp của HS hiện nay ở mức 
độ trung bình. Các em thường có những khó khăn trong 
giao tiếp với bạn. Cụ thể với các biểu hiện sau: Em cãi 
cọ, lí sự với bạn (M = 1,72); Khi nói chuyện với các bạn 
khác, em thường nói chen ngang họ (M = 1,66); Em 
không đợi các bạn khác nói xong, em đã đưa ra ý kiến 
của mình (M = 1,62), Em cảm thấy lúng túng khi thua 
trong cuộc tranh luận với bạn và giáo viên (M = 1,91). 
Khó khăn trong giao tiếp gia tăng ở nhóm HS có mức độ 
gây hấn trung bình và cao. HS có mức độ gây hấn thấp, 
trung bình và cao lần lượt có mức độ khó khăn trong giao 
tiếp là M = 1,37; 1,70 và 2,00. Sự khác biệt có ý nghĩa về 
mặt thống kê với p = 0,00. 
Giữa sự khó khăn trong giao tiếp với mức độ hành 
vi gây hấn có sự tương quan thuận (r = 0,43** và p = 
0,00). Hệ số tương quan giữa 2 biến cho thấy, hành vi 
gây hấn của HS có liên quan chặt chẽ đến nhận thức sai 
lầm của các em. Khó khăn trong giao tiếp dẫn đến HS 
đánh đám, mắng chửi lẫn nhau khi có bất đồng ý kiến, 
xích mích hoặc chính việc HS ứng xử với nhau bằng bạo 
lực dẫn đến khó khăn trong giao tiếp với bạn và gia nhập 
các nhóm bạn, việc thiết lập các mối quan hệ liên nhân 
cách gặp cản trở. Đây thực sự là mối quan hệ tương tác 
2 chiều. 
- Kĩ năng giải quyết vấn đề của HS: Kết quả nghiên 
cứu chỉ ra rằng, HS khi có mâu thuẫn với người khác 
thường không biết làm thế nào để giải quyết. Sự lúng 
túng này gia tăng ở nhóm HS có mức độ gây hấn trung 
bình và cao. HS có mức độ gây hấn thấp, trung bình và 
cao có khó khăn trong giải quyết vấn đề, điểm số lần lượt 
là M = 1,63; 1,98 và 2,19. Sự khác biệt có ý nghĩa về mặt 
thống kê với p = 0,00. 
Giữa hành vi gây hấn và khó khăn trong giải quyết 
vấn đề có sự tương quan thuận (r = 0,24** và p = 0,00). 
Hệ số tương quan giữa 2 biến cho thấy, hành vi gây hấn 
của HS có liên quan đến kĩ năng giải quyết vấn đề ở 
các em. 
b) Các yếu tố khách quan (xem bảng 2) 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 433 (Kì 1 - 7/2018), tr 17-20; 26 
20 
- Mối quan hệ bạn bè của HS: Giữa các nhóm HS có 
hành vi gây hấn ở các mức độ khác nhau và sự khác biệt 
có ý nghĩa về mặt thống kê. Kết quả nghiên cứu chỉ ra 
rằng, HS có hành vi gây hấn ở mức độ cao thường có xu 
hướng trêu chọc người khác, kết bạn với các HS ở trường 
khác, kết bạn với các bạn HS lớn tuổi hơn hoặc đã nghỉ 
học. HS có mức độ gây hấn thấp, trung bình và cao lần 
lượt có xu hướng này là M = 1,63; 1,92 và 2,22. Sự khác 
biệt có ý nghĩa về mặt thống kê với p = 0,00. 
Những HS có hành vi gây hấn ở mức độ cao cũng là 
những em có khó khăn trong giao tiếp và kĩ năng giải 
quyết vấn đề. Những HS này thường không có bạn thân 
trong lớp, không có bạn để chia sẻ, tâm sự, trong khi đó 
giao tiếp là hoạt động chủ đạo của HS lứa tuổi THCS. 
Giữa hành vi gây hấn và khó khăn trong việc thiết lập 
mối quan hệ bạn bè có sự tương quan thuận (r = 0,32** 
và p = 0,00). Hệ số tương quan giữa 2 biến cho thấy, hành 
vi gây hấn của HS có liên quan chặt chẽ đến mối quan hệ 
bạn bè của các em. Ở lứa tuổi này, tình bạn có ý nghĩa 
đặc biệt quan trọng đối với đời sống và sự phát triển nhân 
cách của các em, nếu mối quan hệ này bị phá vỡ, các em 
dễ có cảm giác nặng nề, bi kịch [7]. 
- Ứng xử của cha mẹ khi HS mắc lỗi: Kết quả nghiên 
cứu chỉ ra rằng, hầu hết các HS khi mắc lỗi (không học 
bài bị điểm kém, làm sai việc gì đó, đi chơi) đều bị cha 
mẹ trừng phạt, thể hiện ở việc bố mẹ mắng, chửi, đánh. 
Sự trừng phạt của cha mẹ có xu hướng gia tăng ở nhóm 
HS có hành vi gây hấn mức độ cao và trung bình (M = 
2,17 và 1,89). Sự khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống 
kê với p = 0,00. 
Giữa hành vi gây hấn và sự trừng phạt của cha mẹ khi 
HS mắc lỗi có sự tương quan thuận (r = 0,19** và p = 
0,00). Hệ số tương quan giữa 2 biến cho thấy hành vi gây 
hấn của HS có liên quan cách ứng xử của cha mẹ. 
3. Kết luận 
Kết quả nghiên cứu cho thấy: hành vi gây hấn liên 
quan nhiều đến hiện tượng tâm lí cá nhân và xã hội của 
HS THCS; có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê 
giữa các yếu tố chủ quan và khách quan với mức độ căng 
thẳng tâm lí ở trường học, khó khăn trong giao tiếp, mức 
độ thay đổi cảm xúc, mức độ mâu thuẫn với bạn có ở 
những nhóm HS có mức độ hành vi gây hấn thấp, trung 
bình và cao; không có hiện tượng tâm lí nổi trội nào đóng 
vai trò là nguyên nhân trực tiếp hoặc cơ bản dẫn đến hành 
vi này; mối quan hệ bạn bè của HS; kĩ năng giao tiếp của 
HS; mức độ căng thẳng của HS trên lớp; mối quan hệ của 
HS với cha mẹ; ứng xử của cha mẹ khi HS mắc lỗi; mức 
độ ảnh hưởng của games; những suy nghĩ sai lầm của HS 
về hành vi bạo lực; kĩ năng giải quyết vấn đề của HS và 
mức độ thay đổi cảm xúc và cảm xúc trong các tình 
huống hẫng hụt của HS; có một số yếu tố có vai trò dự 
đoán gây hấn thái độ và gây hấn hành vi. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Trần Thị Minh Đức (2013). Hành vi gây hấn của 
học sinh phổ thông trung học. Trung tâm hỗ trợ 
nghiên cứu châu Á và Quỹ cao học Hàn Quốc, Đại 
học Quốc gia Hà Nội. 
[2] Yudofsky, S.C. - Silver, J. M. - Jackson, W. - 
Endicott, J. - Williams, D. (1986). The Overt 
Aggression Scale for the objective rating of verbal 
and physical aggression. The American journal of 
psychiatry, Vol. 143, pp. 35-39. 
[3] Buss, A. H. - Perry, M. (1992). The aggression 
questionnaire. Journal of personality and Social 
Psychology, Vol. 63 (3), pp. 452-458. 
(Xem tiếp trang 26) 
 Bảng 2. Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến hành vi gây hấn của HS THCS 
Tiêu chí p Mức độ gây hấn Mean Sd 
Mối quan hệ bạn bè 0,00 
Gây hấn mức độ thấp 1,63 0,41 
Gây hấn mức độ trung bình 1,91 0,43 
Gây hấn mức độ cao 2,22 0,78 
Tổng 1,92 0,53 
Ứng xử của cha mẹ khi HS mắc lỗi 0,00 
Gây hấn mức độ thấp 1,70 0,66 
Gây hấn mức độ trung bình 1,89 0,70 
Gây hấn mức độ cao 2,17 0,77 
Tổng 1,90 0,71 
Mối quan hệ với cha mẹ 0,00 
Gây hấn mức độ thấp 2,07 0,44 
Gây hấn mức độ trung bình 2,12 0,42 
Gây hấn mức độ cao 2,06 0,41 
Tổng 2,10 0,42 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 433 (Kì 1 - 7/2018), tr 21-26 
26 
vững chắc cho đạo đức, lối sống cách mạng của con người 
Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. 
2.2.4.3. Quá trình đổi mới của đất nước, nhất là quá trình 
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay 
 Tác động dễ thấy nhất của quá trình đổi mới đến đạo 
đức, lối sống của giới trẻ là đã hình thành những ĐHGT 
mới. Cùng với các chuẩn giá trị như lòng yêu nước, lí 
tưởng cộng sản, lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng... vẫn 
có vị trí cao trong thang giá trị Việt Nam thì một số giá 
trị khác như dân chủ, sáng tạo, việc làm, thu nhập, gia 
đình, năng động làm giàu... vẫn luôn được khích lệ. Thái 
độ đối với lao động đã chuyển biến tích cực theo hướng 
gắn với năng lực tự lập, sáng tạo, năng suất và hiệu quả. 
Thái độ đối với nghề nghiệp cũng thay đổi, chuyển từ 
việc trọng các nghề “bàn giấy”, công chức sang các nghề 
sản xuất, kinh doanh có thu nhập cao. 
2.2.4.4. Quá trình “toàn cầu hóa” đang diễn ra mạnh mẽ 
ở nhiều lĩnh vực 
Tuy nước ta mới bắt đầu quá trình hội nhập kinh tế 
quốc tế, nhưng có thể dễ dàng cảm nhận một số tác động 
tiêu cực của “toàn cầu hóa” đối với đạo đức, lối sống của 
giới trẻ. Biểu hiện của tư tưởng “sùng ngoại”, tôn sùng chủ 
nghĩa tư bản, chạy theo lối sống của xã hội tiêu thụ, tuyệt 
đối hóa giá trị vật chất, tiền bạc, văn hóa “lai căng”, tự ti 
dân tộc, thậm chí phai nhạt ý thức giai cấp, niềm tin và lí 
tưởng cộng sản... đã xuất hiện một cách đáng báo động. 
Bởi vậy, nhiệm vụ đặt ra là phải hình thành ở thanh niên 
chủ nghĩa yêu nước chứa đựng nội dung mới, phù hợp. 
3. Kết luận 
TN-SV là những người đang học tại các trường đại 
học hoặc cao đẳng, là lực lượng dự bị, kế tục của giới trí 
thức. ĐHGT của TN-SV được hiểu là định hướng của 
một cá nhân hay nhóm TN-SV vào những giá trị này hay 
giá trị khác, phù hợp với nhiều hướng biến đổi của hệ 
thống các giá trị xã hội, trong đó các hiện tượng vật chất 
hay tinh thần, có khả năng thoả mãn các nhu cầu và lợi 
ích của họ. 
ĐHGT của thanh niên được biểu hiện tập trung ở các 
lĩnh vực hoạt động đặc trưng của họ, đó là: việc xác định 
mục đích, lí tưởng của cuộc sống; hoạt động học tập, 
nghiên cứu khoa học; quan hệ giao tiếp đa dạng và biểu 
hiện của chúng được thể hiện ở các cấp độ nhận thức, 
thái độ và hành động. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyễn Quang Uẩn (1995). Giá trị, định hướng giá 
trị nhân cách và giáo dục giá trị. Đề tài KX-07-04. 
[2] Phạm Minh Hạc (1994). Vấn đề con người trong 
công cuộc đổi mới. Chương trình khoa học cấp Nhà 
nước KX-07. 
[3] Trần Trọng Thủy (1993). Giá trị, định hướng giá trị 
và nhân cách. Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 7, 
tr 11. 
[4] Lê Đức Phúc (1992). Giá trị và định hướng giá trị. 
Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 13, tr 71. 
[5] Nguyễn Kế Hào (chủ biên) - Nguyễn Quang Uẩn 
(2005). Giáo trình Tâm lí học lứa tuổi và Tâm lí học 
sư phạm. NXB Đại học Sư phạm. 
[6] Dương Diệu Hoa (chủ biên) - Nguyễn Ánh Tuyết - 
Nguyễn Kế Hào - Phan Trọng Ngọ - Đỗ Thị Hạnh 
Phúc (2008). Giáo trình tâm lí học phát triển. NXB 
Đại học Sư phạm. 
[7] Hiền Bùi (2001). Từ điển Giáo dục học. NXB Từ 
điển bách khoa. 
[8] Quốc hội (2012). Luật Giáo dục Đại học. NXB 
Chính trị Quốc gia - Sự thật. 
[9] Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam (2006). Báo 
cáo chuyên đề “Lối sống sinh viên - thực trạng và 
giải pháp”. 
[10] Đào Thị Oanh (chủ biên) - Nguyễn Thanh Bình - 
Đặng Xuân Hoài - Lê Đức Phúc - Trần Trọng Thủy 
- Nguyễn Huy Tú (2007). Vấn đề nhân cách trong 
tâm lí học hiện nay. NXB Giáo dục. 
[11] Hà Nhật Thăng (1998). Giáo dục hệ thống giá trị 
đạo đức nhân văn. NXB Giáo dục. 
[12] Đặng Vũ Cảnh Linh (2008). Một số chỉ báo về định 
hướng giá trị của sinh viên các trường đại học hiện 
nay. Tạp chí Tâm lí học, số 1, tr 106-111. 
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI... 
(Tiếp theo trang 20) 
[4] Orpinas, P. - Frankowski, R. (2001). The Aggression 
Scale: A self-report measure of aggressive behavior 
for young adolescents. The Journal of Early 
Adolescence, Vol. 21(1), pp. 50-67. 
[5] Nguyễn Bá Đạt (2014). Phân tích đặc điểm tâm lí xã 
hội của học sinh có hành vi bạo lực học đường. Kỉ 
yếu hội thảo Khoa học toàn quốc “Sức khỏe tâm 
thần trong trường học”. NXB Đại học Quốc gia TP. 
Hồ Chí Minh, tr 421-435. 
[6] Đinh Thị Kim Thoa - Nguyễn Thị Mỹ Lộc - Trần 
Văn Tính (2009). Tâm lí học phát triển. NXB Đại 
học Quốc gia Hà Nội. 
[7] Irvin Sam Schonfeld (2006). School violence. In: 
E.K. Kelloway, J. Barling, - J.J. Hurrell (eds) 
Handbook of Workplace Violence. Thousand Oaks, 
CA: Sage Publications, pp. 169-229.

File đính kèm:

  • pdfcac_yeu_to_anh_huong_den_hanh_vi_gay_han_cua_hoc_sinh_trung.pdf