Dấu ấn tôn giáo trong kiến trúc và điêu khắc của nghệ thuật cổ điển Đông Nam Á (Thế kỷ I – Thế kỷ XIII)

TÓM TẮT: Trong quá trình giao thoa văn hóa giữa văn hóa bản địa và văn hóa Ấn Độ, cư

dân Đông Nam Á đã kết hợp để sáng tạo cho dân tộc mình những yếu tố văn hóa độc đáo

không thể so sánh với bất kỳ dân tộc nào khác. Trong những thành tựu văn hóa đặc sắc đó,

nền nghệ thuật cổ điển Đông Nam Á nổi bật lên không chỉ là minh chứng cho sự giao lưu

văn hóa mà còn bởi sự sáng tạo đa dạng, phong phú mang đầy màu sắc bản địa. Tôn giáo

là nguồn cảm hứng chính của nghệ thuật cổ điển Đông Nam Á và nghệ thuật cổ điển ở

Đông Nam Á là sự thể hiện, mang đậm dấu ấn thế giới tâm linh phong phú đó. Tôn giáo và

nghệ thuật kết hợp, bổ sung cho nhau góp phần tạo nên bản sắc văn hóa của từng dân tộc

trong khu vực Đông Nam Á.

pdf 11 trang yennguyen 1700
Bạn đang xem tài liệu "Dấu ấn tôn giáo trong kiến trúc và điêu khắc của nghệ thuật cổ điển Đông Nam Á (Thế kỷ I – Thế kỷ XIII)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Dấu ấn tôn giáo trong kiến trúc và điêu khắc của nghệ thuật cổ điển Đông Nam Á (Thế kỷ I – Thế kỷ XIII)

Dấu ấn tôn giáo trong kiến trúc và điêu khắc của nghệ thuật cổ điển Đông Nam Á (Thế kỷ I – Thế kỷ XIII)
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Đức Quân 
128 
DẤU ẤN TÔN GIÁO TRONG KIẾN TRÚC VÀ ĐIÊU KHẮC CỦA 
NGHỆ THUẬT CỔ ĐIỂN ĐÔNG NAM Á (THẾ KỶ I – THẾ KỶ XIII) 
RELIGIOUS LANDMARK IN ARCHITECTURE 
AND SCULPTURE OF SOUTHEAST ASIAN CLASSICAL ART 
NGUYỄN ĐỨC QUÂN 
 ThS. Trường Đại học Văn Lang, nguyenducquan@vanlanguni.edu.vn, Mã số: TCKH13-07-2019 
TÓM TẮT: Trong quá trình giao thoa văn hóa giữa văn hóa bản địa và văn hóa Ấn Độ, cư 
dân Đông Nam Á đã kết hợp để sáng tạo cho dân tộc mình những yếu tố văn hóa độc đáo 
không thể so sánh với bất kỳ dân tộc nào khác. Trong những thành tựu văn hóa đặc sắc đó, 
nền nghệ thuật cổ điển Đông Nam Á nổi bật lên không chỉ là minh chứng cho sự giao lưu 
văn hóa mà còn bởi sự sáng tạo đa dạng, phong phú mang đầy màu sắc bản địa. Tôn giáo 
là nguồn cảm hứng chính của nghệ thuật cổ điển Đông Nam Á và nghệ thuật cổ điển ở 
Đông Nam Á là sự thể hiện, mang đậm dấu ấn thế giới tâm linh phong phú đó. Tôn giáo và 
nghệ thuật kết hợp, bổ sung cho nhau góp phần tạo nên bản sắc văn hóa của từng dân tộc 
trong khu vực Đông Nam Á. 
Từ khóa: Ấn Độ; Đông Nam Á; tôn giáo; nghệ thuật cổ điển; kiến trúc; điêu khắc. 
ABSTRACT: In the process of blending local culture and Indian culture, Southeast Asian 
people have combined to create unique artistic features, unlike any other people. Among 
these unique cultural achievements, Southeast Asian classical art stands out not only as a 
testament of cultural exchange, but also by its diverse creativity and colorful indigenous 
features. Religion was the main source of inspiration for Southeast Asian classical art and 
classical art in Southeast Asia was an expression, containing the rich spiritual world. 
Religion and art combined, complemented each other to contribute to the cultural identity 
of each ethnic group in Southeast Asia. 
Key words: India; Southeast Asia; religion; classical art; architecture; sculpture. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trong những thế kỷ đầu Công nguyên, 
những làn sóng văn hóa từ bên ngoài đã tác 
động, ảnh hưởng sâu sắc đến khu vực Đông 
Nam Á, đặc biệt, văn hóa Ấn Độ đã góp 
phần làm xuất hiện những quốc gia đầu tiên 
ở khu vực này. Những ảnh hưởng đến từ 
bên ngoài mang lại những thay đổi quan 
trọng trên hầu hết các hoạt động đời sống 
vật chất, tinh thần, nhưng không thể làm 
thay đổi được nhiều giá trị văn hóa bản địa, 
ngược lại những yếu tố văn hóa ngoại nhập 
đó được tiếp biến và truyền tải bằng những 
hình thức thể hiện riêng biệt mang đậm tính 
đặc trưng của dân tộc đã tiếp biến chúng. 
Trong số những yếu tố văn hóa được tiếp 
biến vừa đề cập, tôn giáo đóng vai trò chủ đạo 
trong việc thể hiện đặc điểm ở các nền nghệ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 13, Tháng 01 - 2019 
129 
thuật cổ điển Đông Nam Á. Có thể nói, nghệ 
thuật cổ điển Đông Nam Á là một nền nghệ 
thuật phục vụ nhu cầu tâm linh của cư dân 
bản địa. Qua nghệ thuật, cư dân bản địa thể 
hiện niềm tin tôn giáo mãnh liệt của mình và 
từ niềm tin đó, cư dân bản địa đã đạt đến sự 
sáng tạo nghệ thuật vô cùng đặc sắc. Từ cơ sở 
này, khu vực Đông Nam Á đã sở hữu được 
một nền văn hóa, nghệ thuật phát triển rực rỡ, 
độc đáo, khó có nơi nào so sánh được. 
2. NỘI DUNG 
2.2.1. Giai đoạn sơ kỳ - Phong cách nghệ 
thuật cổ điển Phù Nam (thế kỷ II - thế kỷ V) 
Dòng nghệ thuật cổ điển Ấn Độ hóa ở 
Đông Nam Á xuất hiện sớm nhất trên địa bàn 
thuộc lãnh thổ Phù Nam cổ. Tuy những di 
vật hiện tồn không còn nhiều và trong tình 
trạng hư hỏng nặng (kiến trúc lẫn điêu khắc) 
nhưng cùng với các hiện vật được công tác 
khảo cổ phát hiện trong thời gian gần đây và 
những nghiên cứu mới nhất về vương quốc 
cổ Phù Nam, chúng ta có thể đưa đến một 
nhận định chung về nền nghệ thuật Phù Nam. 
Ban đầu, nghệ thuật Phù Nam mô phỏng 
những khuôn mẫu nghệ thuật Ấn Độ, sau đó 
đi dần đến việc thể hiện những mô hình đó 
qua sự sáng tạo chủ quan mang đậm dấu ấn 
bản địa của cư dân Phù Nam cổ, bước đầu 
định hình được một phong cách nghệ thuật 
nhằm phục vụ nhu cầu tôn giáo (Bàlamôn 
giáo và Phật giáo) theo quan điểm nhân sinh 
quan, thế giới quan của cư dân bản địa. 
Những hiện vật được tìm thấy ở các di 
chỉ thuộc văn hóa Phù Nam cho thấy cả 
Bàlamôn giáo lẫn Phật giáo đều tồn tại và 
phát triển với nhiều hình thức thể hiện độc 
đáo, theo những phong cách nghệ thuật Ấn 
Độ. Ban đầu, Bàlamôn giáo chiếm ưu thế 
hơn, nhưng về sau, Phật giáo lại giữ vai trò 
quan trọng và biến Phù Nam “trở thành một 
trung tâm Phật giáo ở Đông Nam Á” [6, tr.266]. 
Hầu hết dấu tích kiến trúc của vương 
quốc Phù Nam còn lại ngày nay có niên đại 
vào khoảng thế kỷ V, trong tình trạng hư hại 
nặng nề, khó có thể tái hiện được nguyên 
trạng. Ở di chỉ Óc Eo, các nhà nghiên cứu 
phát hiện được một bệ đài thờ lớn trên đó còn 
dấu tích nền của hai điện thờ. Cái lớn hơn 
được bố trí theo trục Đông-Tây, chỉ còn lại 
một nền lớn bằng gạch. Cái nhỏ hơn được bố 
trí theo trục Bắc-Nam và có ba tầng. Tầng 
thấp nhất là một nền gạch, trên là một phòng 
hình chữ nhật được xây dựng bằng kỹ thuật 
ghép mộng những phiến đá granite. Trên các 
đầu cột của gian phòng này còn lưu lại những 
dấu tích của tay đỡ mái vòm bên trên cửa 
chính, gồm hai đà ngang bằng đá granite. 
Cách đó không xa là một cấu trúc di tích kiến 
trúc bằng gạch với nhiều phòng và một hiên 
nhà,... 
Từ những di chỉ kiến trúc đổ nát còn sót 
lại vừa đề cập, các nhà nghiên cứu suy đoán 
chúng tương tự một ngôi đền Ấn Độ, cấu trúc 
đổ nát còn lại phần nào thể hiện ngọn núi vũ 
trụ Meru, là nơi linh thiêng của người Ấn Độ. 
“Có lẽ còn có gỗ, gạch và vữa xây để tạo thành 
một cái tháp hình chóp nhằm tạo thành một 
hình ảnh hoàn hảo về ngọn núi vũ trụ” [9, tr.23]. 
Kiến trúc đổ nát này cho thấy Bàlamôn giáo 
hiện diện từ rất sớm ở Phù Nam trước khi đạo 
Phật thịnh hành. Theo một số nhà nghiên cứu 
đánh giá, “ý tưởng Ấn Độ về ngôi đền như là 
trung tâm của vũ trụ đã xuất hiện sớm trong 
thiên niên kỷ thứ nhất tại Phù Nam” [10, tr.221]. 
Các nhà khảo cổ còn tìm thấy ít nhất 
hai pho tượng thuộc phong cách Amaravati 
ở An Giang. Phong cách Amaravati xuất 
hiện ở miền Trung Ấn Độ vào khoảng thế 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Đức Quân 
130 
kỷ III đến thế kỷ II TCN. Theo phong cách 
này, Đức Phật mặc áo cà sa bó thân, vạt áo 
xếp thành những gợn sóng nhỏ lăn tăn, đều, 
đồng tâm. 
Cùng phong cách với những bức tượng 
Phật được phát hiện ở An Giang là một số 
tượng Phật nhỏ bằng đồng phát hiện ở miền 
Nam Thái Lan với những đặc trưng như 
“tính khái quát, ước lệ nhưng khỏe, chắc 
của nghệ thuật Amaravati” [2, tr.49]. Niên 
đại của nhóm tượng mang phong cách 
Amaravati này có niên đại khoảng thế kỷ 
III - thế kỷ IV. Ngoài ra, ở một số địa điểm 
khác thuộc địa bàn vương quốc cổ Phù 
Nam cũng phát hiện được nhiều tượng Phật 
bằng đá, gỗ, đồng được chế tác theo phong 
cách, kiểu dáng tượng Phật đứng 
(Buddhapad), lấy ý tưởng từ hình dáng Đức 
Phật trên những điện thờ ở hang Ajanta và 
được xếp vào phong cách Hậu Gupta (thế 
kỷ IV - thế kỷ V). 
2.2. Giai đoạn chuyển tiếp - Phong cách 
Tiền Angkor và Phong cách Trung Java 
(thế kỷ VI - thế kỷ IX) 
2.1.1. Phong cách Tiền Angkor (thế kỷ VI 
- đầu thế kỷ IX) 
Thuật ngữ Tiền Angkor là khái niệm 
do các nhà nghiên cứu nghệ thuật đưa ra 
với ý nghĩa là một giai đoạn nghệ thuật có 
trước Angkor của toàn bộ vùng phía Nam 
bán đảo Đông Dương. Phong cách nghệ 
thuật Tiền Angkor xuất hiện ở một số nơi 
với những giai đoạn khác nhau mang tên 
gọi của những địa điểm kiến trúc chính như 
Phnom Da, Sambor Prei Kuk, Prei Kmeng, 
Prasat Andet, Kongpong Preah. Ngày nay, 
số lượng các công trình kiến trúc và những 
tác phẩm nghệ thuật của giai đoạn lịch sử 
này không còn nhiều. 
Tiêu biểu cho nền nghệ thuật thời kỳ 
này là các đà ngang được tạo tác từ đá sa 
thạch, thể hiện kỹ thuật chạm khắc nổi 
công phu, cầu kỳ, trang trí phần trên cửa 
đền, tháp. Đà ngang ở Sambor Prei Kuk thể 
hiện hình ảnh hai Makara (biểu tượng của 
thần tình yêu và khát vọng) có người cưỡi, 
phun ra từ hai miệng mở to là những kết 
cấu trang trí bằng hoa, lá, xâu chuỗi và 
những chấm lớn được thể hiện bằng ba 
vòng hoa kết hình ôvan làm nổi bật những 
hình nhân. Bên dưới, hình tượng trang trí 
được phun ra từ hai Makara là những chuỗi 
trang sức. 
Cuối thế kỷ VII, đặc trưng bản địa 
trong nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc 
xuất hiện qua các đà ngang ở Prei Kmeng, 
“lần đầu tiên thể hiện những đường gợn 
sóng hình ngọn lửa, hình thức trang trí này 
trở thành một yếu tố đặc thù của nghệ thuật 
Khmer, chúng nhô lên mọi nơi khắp các 
mái hiên và những đường gờ” [9, tr.26]. 
Đặc điểm nghệ thuật thời kỳ Tiền 
Angkor còn được thể hiện thành công ở 
những pho tượng thần. Ban đầu là các pho 
tượng Ấn Độ giáo, chế tác chủ yếu bởi đá 
sa thạch, hình thức thể hiện gần gũi với 
những pho tượng thần Bàlamôn giáo của 
những vương quốc cổ khác nhau trong khu 
vực như Phù Nam, Dvaravati, Sri Vijaya. 
Xét về tổng thể, những pho tượng thời 
kỳ Tiền Angkor thường thể hiện các nam 
thần và nữ thần theo các điển tích Bàlamôn 
giáo. Đặc trưng của tượng nam thần là sự 
hiện hữu của yếu tố bản địa như “môi dày, 
có ria mép, cánh mũi to, thân hình vạm vỡ, 
vai rộng, ngực nổi vồng, tư thế mạnh mẽ dữ 
dội nhưng vẫn không làm lu mờ tính mềm 
mại, sống động của hình thể” [2, tr.88]. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 13, Tháng 01 - 2019 
131 
Tượng nữ thần được chia làm hai loại, 
tượng trong những tư thế đứng khác nhau 
và tượng bán thân. Đặc điểm của các tượng 
nữ thần là “đều có khuôn mặt trái xoan 
hoặc tròn trĩnh với hàng lông mày cong, 
đôi mắt hình hạnh nhân xinh xắn và đôi 
môi mọng diễn cảm, ngoài sự tôn vinh nét 
đẹp cơ thể người phụ nữ còn pha lẫn với sự 
gợi tình” [2, tr.86]. 
Như vậy, trong thời kỳ đầu xây dựng 
nhà nước của mình, trong nghệ thuật và tôn 
giáo, cư dân cổ Cambodia đã lấy Bàlamôn 
giáo làm chủ đề thể hiện. Và không dừng 
lại ở việc mô phỏng những mô hình, quy 
tắc theo truyền thống văn hóa, tôn giáo Ấn 
Độ, mà từ khá sớm, họ đã sáng tạo, đưa 
nhiều yếu tố văn hóa đặc trưng bản địa của 
mình vào nền nghệ thuật tôn giáo và bước 
đầu định hình được một số giá trị truyền 
thống riêng của dân tộc, đạt được một số 
thành tựu nổi bật nhất định trong nghệ thuật 
kiến trúc và điêu khắc thời kỳ đầu. Đó cũng 
là truyền thống độc đáo riêng của cư dân 
Cambodia, tạo tiền đề cho sự phát triển văn 
hóa dân tộc trong những giai đoạn sau. 
2.2.2. Phong cách Trung Java (thế kỷ 
VIII - thế kỷ IX) 
Trước khi văn hóa Ấn Độ xâm nhập vào, ở 
Indonesia (ngày nay) đã từng tồn tại những nền 
văn hóa đồ đá, đồ đồng rất đặc sắc. Sự kết hợp 
giữa truyền thống với những yếu tố văn hóa Ấn 
Độ, nghệ thuật Indonesia lúc bấy giờ từng bước 
thăng hoa. Sự hùng mạnh của vương triều 
Sailendra góp phần làm xuất hiện dòng nghệ 
thuật đầu tiên ở Indonesia, nghệ thuật Trung Java. 
Các đền thờ Ấn Độ giáo ở cao nguyên 
Dieng (thế kỷ VII hoặc thế kỷ VIII), được 
xây dựng nhằm hiến dâng cho thần Siva là 
những công trình kiến trúc cổ xưa nhất trên 
đất nước Indonesia, mở đầu cho phong cách 
nghệ thuật Trung Java. Gần như cùng thời 
gian này là những công trình kiến trúc Phật 
giáo, trong đó nổi bật hơn cả là kiến trúc 
Borobudur (thế kỷ VIII). Hầu hết các đền 
thờ ở Java đều được gọi là Candi. Candi là 
những kiến trúc thờ phụng bằng đá nguyên 
khối, các tầng bậc của kiến trúc được hạ 
thấp độ cao, cấu trúc của các Candi gần gũi 
với loại hình điện thờ đơn theo khuôn mẫu 
Ấn Độ (một tháp nhọn và một mái cổng), 
đảm bảo các yếu tố của hình ảnh thu nhỏ 
của núi vũ trụ Meru. Candi còn được trang 
trí bởi các vòng tường bên ngoài. Tiêu biểu 
cho những Candi ở cao nguyên Dieng là 
Candi Arjuna, Candi Puntadewa. 
Những tác phẩm điêu khắc sớm ở giai 
đoạn đầu thời kỳ Trung Java xuất hiện đầu 
tiên ở cao nguyên Dieng và một vài nơi 
khác, chủ đề thể hiện thường là những vị 
thần Ấn Độ giáo. Trong số những pho 
tượng còn lại khá nguyên vẹn là pho tượng 
thần Siva ngồi trên đài sen vuông được thể 
hiện theo truyền thống Ấn Độ. Nhưng 
chính ở bức tượng này, đặc trưng của điêu 
khắc Trung Java được thể hiện với những 
đặc điểm “khuôn mặt dịu dàng hình ôvan, gò 
má hơi cao, mũi thanh, cặp mắt to” [2, tr.195]. 
Từ nửa cuối thế kỷ VIII đến giữa thế 
kỷ IX, nghệ thuật Trung Java sau một thời 
gian tìm tòi, thử nghiệm, đột phá đã thăng 
hoa rực rỡ. Các vị vua của vương triều 
Sailendra xây dựng nhiều đền tháp tập 
trung ở đồng bằng Kedu, điển hình nhất 
thời kỳ này là đại Stupa Borobudur. 
Borobudur (Đức Phật tôn kính) được 
đánh giá “là một trong những công trình 
kiến trúc vĩ đại do con người từng kiến tạo 
nên” [9, tr.227]. Kiến trúc này được xây 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Đức Quân 
132 
dựng vào cuối thế kỷ VIII đầu thế kỷ IX 
dưới thời vương triều Sailendra. Tuy gọi là 
Stupa nhưng Stupa Borobudur không thờ 
thánh tích Phật như truyền thống, mà ở đây, 
phổ biến nhất là những Stupa trổ hình mắt 
cáo cùng những pho tượng Phật ngồi trong 
tư thế thuyết pháp. Kiến trúc đồ sộ này có 
khoảng “800 ngôi tháp hoặc cơ sở tưởng 
niệm, không cái nào giống cái nào cả về 
kích cỡ lẫn kiểu thức trang trí” [10, tr.256]. 
Những phù điêu chạm khắc nổi ở 
Borobudur tập trung chủ yếu ở tầng nền và 
bốn tầng bậc hình vuông. Hình thức thể 
hiện phù điêu ở đây rất quyến rũ nhưng 
trang nghiêm, lặng lẽ, mang dấu ấn của 
phong cách cổ điển Ấn Độ, các phù điêu 
trên tường tiếp nối nhau tạo thành một bức 
tranh chạm khắc nổi hoành tráng, sinh động 
về cuộc đời Đức Phật từ lúc sinh thành cho 
đến khi đắc đạo. 
Nghệ thuật Trung Java không chỉ nổi 
tiếng với kiến trúc Borobudur. Vào thế kỷ 
X, vương quốc Mataram thiết lập quyền cai 
trị lên toàn bộ vùng Trung Java. Các công 
trình kiến trúc nhằm phục vụ nhu cầu tôn 
giáo tiếp tục được xây dựng. Tuy nhiên, 
niềm tin tôn giáo lúc này đã có sự thay đổi, 
thay thế cho Phật giáo là Ấn Độ giáo. Một 
trong số các công trình kiến trúc tiêu biểu cho 
giai đoạn lịch sử này là kiến trúc mang đậm 
dấu ấn của Ấn Độ giáo - Loro Gionggrang. 
Loro Gionggrang là một tổng thể kiến 
trúc bao gồm hàng trăm ngôi đền lớn, nhỏ 
tọa lạc trên ba khu đất hình vuông, tượng 
trưng cho ba thế giới (thế giới của những 
người trần tục, của các đạo sĩ và của thần 
linh). Nổi bật trong đó, ba đền thờ ở trung 
tâm, tôn thờ ba vị thần quan trọng nhất của 
Ấn Độ giáo là Brahma, Visnu và Siva. 
Theo các nhà nghiên cứu, “dường như cư 
dân Java cổ không có sự phân biệt rõ ràng 
trong việc thờ ba vị thần này và không có vị thần 
nào quan trọng hơn vị thần nào” [3, tr.57]. 
Tương tự Borobudur, chính phù điêu 
trang trí góp phần mang lại giá trị lớn lao 
cho Loro Gionggrang. Phù điêu ở đây 
mang đậm màu sắc Ấn Độ giáo, lấy sử thi 
Ramayana làm đề tài thể hiện, 43 phù điêu 
ở đền thờ Siva và 30 phù điêu ở đền thờ 
Brahma mô tả những sự kiện cốt yếu của 
bộ sử thi này. 
Nhìn chung, phù điêu trang trí của nghệ 
thuật Trung Java qua hai tổng thể kiến trúc 
lớn Borobudur và Loro Gionggrang có vẻ 
đẹp tràn đầy sức sống, mang lại cho người 
chiêm ngưỡng cảm giác về sự hiện hữu của 
chủ đề tôn giáo v ... g cách 
Hòa Lai, phong cách Đồng Dương, phong 
cách Mỹ Sơn A1, phong cách Bình Định. 
Nhưng nhìn chung, “cả kiến trúc lẫn điêu 
khắc Champa đã đạt đến sự thể hiện hoàn 
hảo trong lịch sử nghệ thuật cổ điển của 
dân tộc họ” [8, tr.41]. 
2.3.2. Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc cổ 
điển Angkor (giữa thế kỷ IX - thế kỷ XII) 
Đầu thế kỷ IX, vương quốc Cambodia 
bước vào một giai đoạn lịch sử huy hoàng 
và phát triển thịnh vượng nhất của dân tộc - 
thời kỳ Angkor (802 - 1432). Chính vì vậy, 
nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc gắn với 
tôn giáo ở vương quốc này cũng bước vào 
giai đoạn vô cùng rực rỡ. 
Kiến trúc thời kỳ đầu giai đoạn cổ điển 
Angkor là sự tìm tòi thay đổi về mặt chất 
liệu xây dựng, quy mô to lớn, mặt bằng 
kiến trúc phức tạp hơn những giai đoạn 
trước kia. Các ngôi đền tháp vẫn là hiện 
thân vật chất hóa ngọn núi thiêng Meru 
theo truyền thống kiến trúc tôn giáo Ấn Độ, 
nhưng đối với các vị vua Cambodia đương 
thời, ngoài những ý nghĩa mang tính truyền 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Đức Quân 
134 
thống tôn giáo Ấn Độ, đền tháp còn mang 
một ý nghĩa mới, là nơi trú ngụ linh hồn 
của các vị Thần - Vua của vương quốc khi 
sống và chức năng lăng mộ khi nhà vua 
băng hà. Các vị vua Cambodia coi mình là 
hiện thân của thần linh, nên khi còn sống, 
mỗi vị đều xây dựng cho mình một ngôi 
đền - núi và quan niệm rằng, khi chết sẽ trở 
thành vị thần nhập vào ngôi đền núi mà họ 
đã xây. 
Do vậy, những kiến trúc mang chức 
năng tôn giáo được gia tăng về kích thước 
lẫn kỹ thuật trang trí, chạm khắc với mong 
muốn thể hiện đầy đủ nhất ý nghĩa, chức 
năng của ngôi tháp thờ Vua - Thần theo 
quan niệm của dân tộc. Đặc trưng của một 
ngôi đền tháp thờ Vua - Thần ở Cambodia 
là ngôi đền tọa lạc trên một quả núi tự 
nhiên hoặc những nền tầng cao hình khối 
nhỏ dần khi lên cao, trên đỉnh thường có 
năm tháp tượng trưng cho năm đỉnh của 
ngọn núi vũ trụ Meru, lục địa và đại dương 
vũ trụ quanh núi Meru được thể hiện bằng 
những hào nước và những lớp tường hoặc 
hành lang. Để liên kết thế giới trần tục và 
thế giới thiêng liêng, các nghệ nhân Khmer 
cổ tạo tác những chiếc cầu đá (tượng trưng 
cho cầu vồng), lan can hình rắn Naga bắc 
qua những hào nước. 
Như vậy, đặc điểm, hình thức thể hiện 
một ngôi đền Khmer tiêu biểu thời Angkor 
cổ điển là một tổng thể kiến trúc mang nội 
dung, ý nghĩa thể hiện niềm tin tôn giáo rất 
rõ nét của cư dân Khmer. Nhưng điểm 
đáng lưu ý chính là sự sáng tạo, ra đời về 
mặt kiến trúc (ngôi đền - núi) cũng như tôn 
giáo (Thần - Vua) của dân tộc Khmer trong 
thời kỳ lịch sử này. 
Vua Jayavarman II (802 - 850), để 
khẳng định quyền lực và sự tôn kính, sùng 
tín của vương quốc đối với các vị thần Ấn 
Độ giáo thiêng liêng đã cho xây dựng nhiều 
công trình kiến trúc, công trình quan trọng 
nhất là kinh đô Mahendraparvata trên núi 
Phnom Kulên gần Angkor. 
Đến nửa cuối thế kỷ IX đến thế kỷ XI, 
nghệ thuật cổ điển Angkor thực sự phát 
triển rực rỡ với nhiều công trình nghệ thuật 
kiến trúc độc đáo. Hàng loạt các công trình 
kiến trúc tiêu biểu như Preah Ko, Bakong, 
Bakheng, Phnom Krom, Kravan, Pre Rup, 
Banteay Srei ra đời. 
Đầu thế kỷ XII, Cambodia bước vào 
một trong những giai đoạn hùng mạnh nhất 
của lịch sử. Hàng loạt các công trình kiến 
trúc được xây dựng, nổi tiếng nhất là ngôi 
đền - núi Angkor Wat. Nghệ thuật kiến trúc 
và điêu khắc thời kỳ này được định danh 
theo tên gọi của ngôi đền này. Đây thực sự 
là một trong số ít các di tích kiến trúc, điêu 
khắc nổi tiếng được biết đến nhiều nhất ở 
Đông Nam Á. 
Angkor Wat được xây dựng vào đầu 
thế kỷ XII (1113 - 1150) nhằm dâng hiến 
cho thần Visnu và dành riêng cho chính 
nhà vua. Xét về mặt cấu trúc, mô hình 
Angkor Wat vẫn tiếp tục thể hiện những 
nguyên tắc truyền thống của một ngôi đền - 
núi, tuy nhiên, kích thước của công trình 
này được nâng lên một tầm vóc chưa từng 
có trước đó. Bố cục, ý nghĩa cao siêu của 
công trình kiến trúc Angkor Wat nhằm 
minh họa “phúc lành của thượng giới sau 
đó chảy cuồn cuộn ra phía bên ngoài, xuất 
phát từ ngôi đền là trung tâm của vũ trụ 
hoặc là thế giới của các thần linh. Nó đi 
xuyên qua chiếc cổng vòng cung và băng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 13, Tháng 01 - 2019 
135 
qua chiếc cầu có lan can hình con rắn để 
làm lợi ích cho nhân loại” [10, tr.221-222]. 
Giá trị nghệ thuật của Angkor Wat là 
sự hài hòa giữa điêu khắc với kiến trúc. 
Điêu khắc ở đây không chỉ tô điểm mà còn 
hòa hợp với từng thành phần và tổng thể 
chung của kiến trúc. Chỉ riêng các mẫu 
chạm khắc trên mép hào bao quanh đền dài 
đến 10 km, hình tượng vũ công có đến hai 
ngàn phiên bản không trùng lặp. Chủ đề 
của các phù điêu trang trí điêu khắc ở 
Angkor Wat từ trái sang phải, bắt đầu từ 
góc phải mặt tường phía tây với chủ đề lần 
lượt là chiến trận Kurukshetra, những cảnh 
từ sử thi Ramayana, quân đội của vua 
Suryavarman II, thần Yama, sự tích Khuấy 
Biển Sữa, các phù điêu ghi chép văn tự cổ, 
chiến thắng của thần Visnu trước những 
con quỷ, chiến thắng của thần Visnu trong 
hóa thân Krishna trước quỷ vương Bana, 
cuộc chiến giữa các vị thần với những con 
quỷ dữ, chiến trận Lanka,... Tất cả được bố 
trí hợp lý giúp người xem hiểu được toàn 
bộ nội dung sử thi. Đây thực sự là một tác 
phẩm tạo hình lớn nhất của nhân loại. 
Cuối thế kỷ XII, Phật giáo Đại thừa 
chính thức là quốc giáo ở vương quốc 
Campuchia cổ, thay thế hoàn toàn Ấn Độ 
giáo. Quần thể kiến trúc Angkor Thom với 
trung tâm ngôi đền Bayon được xem là đại 
diện tiêu biểu cho các công trình nghệ thuật 
cổ điển Campuchia thời kỳ này. 
Angkor Thom được xây dựng từ năm 
1190 đến năm 1210. Đây là kinh đô cuối 
cùng của đế quốc Khmer cổ đại. Tuy là một 
công trình kiến trúc được xây dựng dưới 
ảnh hưởng của nghệ thuật kiến trúc Phật 
giáo Đại thừa nhưng những yếu tố truyền 
thống văn hoá Ấn Độ trong kiến trúc vẫn 
được bảo đảm. Angkor Thom vẫn là một 
tiểu vũ trụ trên trần thế với cấu trúc được 
“chia làm bốn phần trên một trục chính, 
đền Bayon là trục giữa như là biểu tượng 
mối liên hệ giữa Trời và Đất, bức tường 
bao quanh Angkor Thom là biểu hiện của 
những dãy núi xung quanh núi vũ trụ Meru, 
những hào nước xung quanh là biểu tượng 
cho đại dương vũ trụ” [7, tr.82]. 
Bayon là một đền tháp ba tầng. Tất cả 
các bộ phận của kiến trúc đều có những 
chỏm tháp cao thấp khác nhau. Có tất cả 52 
tháp nhỏ chạm khắc mặt người nhìn ra bốn 
hướng với phong cách và khuôn mẫu thể 
hiện là khuôn mặt Đức Phật (cũng chính là 
khuôn mặt của vua Jayavarman VII trong 
hình tượng Bồ Tát). “Khuôn mặt với đôi 
mắt khép hờ, miệng nở nụ cười khoan dung 
và bí ẩn, có lúc như mỉa mai trêu cợt, có 
lúc như vỗ về, thương cảm,... Tất cả đều 
được thể hiện một cách sống động và kỳ 
diệu đến lạ lùng” [3, tr.74]. Ngoài ra, 
những phù điêu mô tả cảnh chiến trận, 
những tiên nữ Apsara duyên dáng. Hình 
thức thể hiện này có thể được xem là một 
trong số những hình ảnh tượng trưng tiêu 
biểu, rõ ràng nhất cho sự hợp nhất giữa thế 
quyền với thần quyền trong chính trị của 
lịch sử Cambodia cổ đại. 
Độc đáo không kém phần kiến trúc, 
phù điêu trang trí chạm khắc ở Angkor 
Thom là nghệ thuật tạc tượng với “hai 
điểm nổi bật là tính tâm linh và tính chân 
dung sâu sắc” [2, tr.112]. Đặc điểm này thể 
hiện rõ quan niệm, tư tưởng tôn giáo dưới 
triều đại trị vì của vua Jayavarman VII. 
Những tượng nam trong tư thế đường bệ, 
cân đối, tĩnh, duy nhất chỉ có khuôn mặt 
mới được trau chuốt nhằm làm nổi bật ý 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Đức Quân 
136 
nghĩa nội tâm mang dấu ấn triết lý Phật 
giáo. Có phần trái ngược với các tượng 
nam, các bức tượng nữ tuy cũng trong tư 
thế tĩnh nhưng bố cục gầy gò, những đường 
nét đặc trưng vốn có của nữ giới bị giảm 
thiểu tối đa trong việc thể hiện. Có thể nhận 
xét rằng, loại hình nghệ thuật tạc tượng 
trong giai đoạn này chú tâm đến việc thể 
hiện những bức tượng có hồn, có nội tâm rõ 
rệt nhưng mặt khác, đó cũng là những bức 
tượng thiếu tính sinh động, thiếu sức sống 
nhất trong lịch sử nghệ thuật cổ điển 
Campuchia. Nguyên nhân có thể do xuất 
phát từ sự chi phối của tôn giáo đối với nghệ 
thuật cũng như mục đích của nghệ thuật 
theo truyền thống văn hóa Ấn Độ, những 
nguồn gốc cơ bản của giáo lý Phật giáo. 
2.3.3. Phong cách cổ điển Pagan (thế kỷ 
XI - thế kỷ XIII) 
Myanmar là quốc gia duy nhất ở Đông 
Nam Á có biên giới với Ấn Độ. Trước khi 
Pagan - vương quốc thống nhất đầu tiên 
được thành lập trên lãnh thổ Myanmar ngày 
nay, một số vương quốc cổ đã từng tồn tại 
trên lãnh thổ của quốc gia này: vương quốc 
Pyu (thế kỷ III) ở vùng trung lưu sông 
Irrawaddy, vương quốc của người Môn với 
kinh đô là Thaton,... 
Trong thời kỳ vương quốc Pagan thịnh 
vượng (1044 - 1287), nền văn hóa dân tộc 
được hình thành mang đậm dấu ấn Phật 
giáo, nhiều ngôi chùa tháp được xây dựng. 
Thế kỷ XII, vương quốc Pagan phát triển 
về lãnh thổ lẫn kinh tế và văn hóa, xã hội 
và là trung tâm Phật giáo nổi tiếng ở khu 
vực Đông Nam Á. 
Trong lịch sử nghệ thuật cổ điển 
Myanmar, Pagan là nơi xuất phát điểm và 
cũng là nơi đánh dấu sự thành công rực rỡ 
nhất và tiêu biểu nhất. Ngay sau khi được 
thống nhất (năm 1044), đô thị cổ Pagan 
được quy hoạch lại, ngày nay nơi đây là 
một địa điểm có mật độ các công trình kiến 
trúc tôn giáo dày đặc, “khoảng 2230 công 
trình kiến trúc tôn giáo bao trùm lên diện 
tích 16 dặm vuông” [11, tr.3-4]. Trong số 
đó, hầu hết là những công trình kiến trúc 
Phật giáo Tiểu Thừa, còn lại là “đền 
Nathlaung Kyaung là ngôi đền Ấn Độ giáo 
duy nhất hiến dâng cho thần Visnu. Đền 
Payathonzu và Abeyadana có những đặc 
điểm Phật giáo Đại Thừa” [11, tr.5]. 
Ở Myanmar có hai loại hình kiến trúc 
tôn giáo chủ yếu: các tháp (Stupa - 
Cetiyas), và loại kiến trúc chùa (Gu - 
hang). Ở Myanmar, những ai có điều kiện 
đều được phép xây dựng chùa làm công 
đức. Kiến trúc tháp thường to lớn, đồ sộ và 
quy mô hơn chùa nên chỉ có tầng lớp quý 
tộc giàu có mới đủ khả năng xây dựng. 
Kiến trúc chùa nhỏ hơn, thường do cư dân 
góp tiền, góp công xây dựng. 
Chùa tháp ở Myanmar có mô hình gần 
giống những tháp ở Ấn Độ nhưng chức 
năng chủ yếu của chùa tháp Myanmar 
nhằm thể hiện tinh thần Phật giáo. Đó là 
những biểu tượng Phật giáo cụ thể, rõ ràng, 
hình thức được xây dựng như ngọn núi đồ 
sộ, chóp tháp phủ vàng tượng trưng cho 
năng lượng và sức mạnh của ngọn lửa 
thiêng. Trong số đó, chùa tháp cao nhất là 
Thatbyinnyu (cao 61m), chùa tháp đẹp nhất 
ở Pagan là Ananda. 
Chùa tháp Ananda xây dựng vào năm 
1090, kiến trúc tiêu biểu của chùa tháp 
Myanmar. Chùa tháp có bình đồ hình 
vuông, mỗi cạnh dài khoảng 80m, độ cao 
khoảng 52m. Các mái chùa cong nghiêng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 13, Tháng 01 - 2019 
137 
mang dấu ấn phong cách Môn và nhấp nhô 
những chóp phụ, viền mái là những hàng 
tường hình răng cưa, bên dưới là những 
mảng trang trí tráng men thể hiện các điển 
tích về tiền kiếp của Đức Phật. Gian thờ 
chính đặt tượng Phật mạ vàng cao 10m trên 
một bệ tượng cao 3m. Khuôn mặt Đức Phật 
thể hiện theo quan niệm Phật giáo như 
những bức tượng Phật khác, phảng phất nụ 
cười đầy ẩn ý, điềm tĩnh, bình thản. Đối 
diện tượng Phật là những ô cửa sổ, ánh 
sáng chiếu qua ô cửa soi sáng gương mặt 
Đức Phật nổi bật lên giữa một không gian 
mờ ảo của gian thờ. Dưới chân tượng là hai 
tượng người trong tư thế quỳ. “Đó là những 
tác phẩm điêu khắc chân dung duy nhất có thể 
tìm thấy trong các chùa ở Pagan” [3, tr.64]. 
Bên cạnh kiến trúc là những thành 
phần trang trí, điêu khắc tô điểm thêm cho 
công trình kiến trúc. Hình thức thể hiện 
tượng trong nghệ thuật cổ điển Myanmar là 
tượng Phật với phong cách sao chép những 
khuôn mẫu cổ xưa, không chú trọng đến 
việc cải tiến hình mẫu. Ngoài những bức 
tượng Phật trong các chùa, tháp là những 
tượng Phật đặt đơn độc ngoài trời. Đây 
thường là những bức tượng với sự thể hiện 
đơn giản, kích thước to lớn, nổi bật giữa 
cảnh quan thiên nhiên. 
Nhìn chung, kiến trúc tôn giáo ở Pagan 
tuy chịu nhiều ảnh hưởng của kiến trúc và 
tôn giáo Ấn Độ, nhưng cư dân ở đây đã 
sáng tạo cho dân tộc mình những đặc điểm, 
sắc thái riêng độc đáo. Đó là trình độ điêu 
luyện về mặt xây dựng gạch và lớp vữa giả 
đá trát gạch làm cho công trình kiến trúc 
tuy được xây bằng gạch nhưng có dáng vóc 
như được làm bằng đá. Giá trị nghệ thuật 
của kiến trúc tôn giáo Myanmar là sự phối 
hợp đều đặn, nhịp nhàng giữa các yếu tố, 
các thành phần kiến trúc, tạo được ấn tượng 
mạnh khi đứng nhìn từ xa. Một đặc điểm 
mà không có công trình kiến trúc nào khác 
ở Đông Nam Á đạt được là sự phối hợp 
màu sắc của kiến trúc (màu trắng của 
tường, màu vàng của các đỉnh chóp tháp) 
vừa làm tăng thêm vẻ đẹp của kiến trúc vừa 
thể hiện được quan niệm tôn giáo. 
3. KẾT LUẬN 
Nền nghệ thuật cổ điển Đông Nam Á 
chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi nền nghệ thuật 
truyền thống Ấn Độ, cho nên cũng giống 
nghệ thuật Ấn Độ, nghệ thuật cổ điển Đông 
Nam Á chịu sự chi phối mạnh mẽ của hai 
tôn giáo lớn trong lịch sử Ấn Độ là Ấn Độ 
giáo và Phật giáo. Trong khoảng 13 thế kỷ 
đầu Công nguyên, nền nghệ thuật cổ điển 
Đông Nam Á đã phát triển cả về chiều sâu 
lẫn bề rộng, với các phong cách nghệ thuật 
đa dạng và độc đáo. 
Các công trình nghệ thuật kiến trúc và 
điêu khắc trong nền nghệ thuật cổ điển 
Đông Nam Á thể hiện sự tiến triển của cả 
hình thức lẫn nội dung tôn giáo (cụ thể ở 
đây là Ấn Độ giáo và Phật giáo) theo từng 
thời kỳ lịch sử. Dấu ấn tôn giáo trong nghệ 
thuật kiến trúc và điêu khắc của nền nghệ 
thuật cổ điển Đông Nam Á tuy vô cùng 
đậm nét, nhưng cũng có sự hòa trộn với 
những yếu tố tín ngưỡng bản địa và cảm 
hứng nghệ thuật của chủ thể sáng tạo, đóng 
góp vào kho tàng văn hóa nghệ thuật của 
nhân loại. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Đức Quân 
138 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Ngô Văn Doanh (2003), Thánh địa Mỹ Sơn, Nxb Trẻ. 
[2] Ngô Văn Doanh, Cao Xuân Phổ, Trần Thị Lý (2000), Nghệ thuật Đông Nam Á, Nxb 
Lao Động. 
[3] Lê Phụng Hoàng, Hà Bích Liên, Trần Hồng Ngọc (1998), Các công trình kiến trúc nổi 
tiếng trong lịch sử thế giới cổ trung đại, Nxb Giáo dục. 
[4] Trương Sĩ Hùng (Chủ biên, 2003), Mấy tín ngưỡng tôn giáo Đông Nam Á, Nxb Thanh Niên. 
[5] Phan Khoang (1967), Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777 – Cuộc Nam tiến của dân tộc 
Việt, Nxb Sài Gòn. 
[6] Lương Ninh (Chủ biên) (1999), Lịch sử văn hóa thế giới cổ - trung đại, Nxb Giáo dục. 
[7] Dawn F. Rooney (1994), Angkor an introduction to the temples, Asia Books. 
[8] Emmanuel Guillon (2001), Cham Art treasures from the Da Nang museum, Vietnam, 
River Books Ltd. 
[9] Philip Rawson (1995), The Art Of Southeast Asia, Thames and Hudson. 
[10] Robert E. Fisher (Huỳnh Ngọc Trảng và Nguyễn Tuấn dịch) (2002), Mỹ thuật và kiến 
trúc Phật giáo, Nxb Mỹ thuật. 
[11] SEAMEO Regional Centre for History and Tradition (2001), Cultural Classics, 
University Estate, Yangoon, Myanmar. 
[12] Will Durant, Nguyễn Hiến Lê dịch (2003), Lịch sử văn minh Ấn Độ, Nxb Văn hóa 
Thông tin. 
Ngày nhận bài: 20-12-2018. Ngày biên tập xong: 28-12-2018. Duyệt đăng: 21-01-2019 

File đính kèm:

  • pdfdau_an_ton_giao_trong_kien_truc_va_dieu_khac_cua_nghe_thuat.pdf