Điều chỉnh chủ đề nghe giúp cải thiện hứng thú học kỹ năng nghe của sinh viên năm thứ nhất chuyên ngành Tiếng Anh, trường Đại học Hùng Vương
Bài báo là báo cáo của một nghiên cứu hành động được thực hiện tại khoa Ngoại ngữ, Trường Đại
học Hùng Vương (tỉnh Phú Thọ) với sự tham gia của 54 sinh viên năm thứ nhất chuyên ngành
tiếng Anh. Theo Sass (1989), hứng thú học tập là yếu tố vô cùng quan trọng đối với người học,
thậm chí hứng thú học còn quan trọng hơn cả kết quả học tập. Trong khuôn khổ bài báo này, tác
giả tập trung đưa ra những phân tích về hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất ở giai đoạn
trước và sau khi áp dụng một số điều chỉnh trong chương trình. Từ đó, bài báo sẽ phân tích và thảo
luận về những thay đổi tích cực trong hứng thú học tập của người học.
Bạn đang xem tài liệu "Điều chỉnh chủ đề nghe giúp cải thiện hứng thú học kỹ năng nghe của sinh viên năm thứ nhất chuyên ngành Tiếng Anh, trường Đại học Hùng Vương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều chỉnh chủ đề nghe giúp cải thiện hứng thú học kỹ năng nghe của sinh viên năm thứ nhất chuyên ngành Tiếng Anh, trường Đại học Hùng Vương
24 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY ĐIỀU CHỈNH CHỦ ĐỀ NGHE GIÚP CẢI THIỆN HỨNG THÚ HỌC KỸ NĂNG NGHE CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT CHUYÊN NGÀNH TIẾNG ANH, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG TÓM TẮT Bài báo là báo cáo của một nghiên cứu hành động được thực hiện tại khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Hùng Vương (tỉnh Phú Thọ) với sự tham gia của 54 sinh viên năm thứ nhất chuyên ngành tiếng Anh. Theo Sass (1989), hứng thú học tập là yếu tố vô cùng quan trọng đối với người học, thậm chí hứng thú học còn quan trọng hơn cả kết quả học tập. Trong khuôn khổ bài báo này, tác giả tập trung đưa ra những phân tích về hứng thú học tập của sinh viên năm thứ nhất ở giai đoạn trước và sau khi áp dụng một số điều chỉnh trong chương trình. Từ đó, bài báo sẽ phân tích và thảo luận về những thay đổi tích cực trong hứng thú học tập của người học. Từ khóa: hứng thú, kỹ năng nghe, nghiên cứu hành động. NGÔ THỊ THANH HUYỀN*; NGUYỄN THỊ NGỌC THỦY** *Đại học Hùng Vương, ✉ ngohuyen2003@yahoo.com **Đại học Hùng Vương, ✉ starry_19842002@yahoo.com 1. MỞ ĐẦU Trong giảng dạy, học tập nói chung và tiếng Anh nói riêng, hứng thú học luôn là chìa khóa quan trọng giúp người học thành công (Dornyei, 2001). Nhà văn nổi tiếng William Authur Ward (1921-1994) đã từng chia sẻ, một giáo viên bình thường chỉ nói, một giáo viên tốt giải thích, một giáo viên cao cấp minh họa, nhưng một giáo viên vĩ đại sẽ tạo cảm hứng. Hơn nữa, cũng có rất nhiều nhà nghiên cứu về giáo dục có cùng chung quan điểm đó là: một trong những phương pháp giảng dạy hiệu quả nhất là tạo hứng thú thúc đẩy người học học tập (Sass, 1989). Là một giảng viên chuyên dạy kỹ năng nghe, tác giả nhận thấy sinh viên năm thứ nhất tại trường Đại học Hùng Vương đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc học kỹ năng nghe như: thiếu vốn từ vựng, chưa làm quen với các kỹ năng nghe, một số nội dung trong giáo trình nghe không phù hợp,... và họ thực sự cần nhiều hứng thú học tập hơn nữa để học tốt kỹ năng quan trọng này, vì kỹ năng này sẽ giúp các em học tốt những môn học khó hơn sau này như: phiên dịch, ngữ âm- âm vị học,... Hơn nữa, theo Nunan (1994), một trong những yếu tố rất quan trọng giúp cải thiện hứng thú học của người học là giáo trình phù hợp, có nhiều chủ đề hay 25KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v và được thiết kế một cách cẩn thận dựa trên nhu cầu và năng lực của người học. Trong khi đó, giáo trình nghe sử dụng trong học phần nghe 2 còn có một số bài không phù hợp với trình độ của sinh viên, vì có nhiều từ vựng khó và cuối mỗi bài lại có một số hoạt động được thiết kế dành cho kỹ năng nói. Những hoạt động này là không cần thiết, vì kỹ năng nói đã được học như một kỹ năng riêng. Chính vì vậy, dựa trên khảo sát trước khóa học và nghiên cứu giáo trình, nhóm nghiên cứu tiến hành điều chỉnh một số chủ đề nghe và tăng thời lượng dành cho kỹ năng nghe ở chương trình học, nhằm xem xét sự thay đổi trong hứng thú học tập của sinh viên. 2. NỘI DUNG 2.1. Phương pháp nghiên cứu 2.1.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện với sự tham gia của 54 sinh viên năm thứ nhất chuyên ngành Ngôn ngữ Anh của Khoa Ngoại ngữ, Đại học Hùng Vương. Những sinh viên này đã kết thúc học phần nghe 1, thuộc kỳ 1 của năm thứ nhất và đang tiếp tục học học phần nghe 2, thuộc kỳ 2. Họ có độ tuổi dao động từ 18 đến 20 và xuất thân từ một số tỉnh miền núi phía Bắc. Hầu hết các sinh viên này có trình độ tiếng Anh không cao, đặc biệt là kỹ năng nghe và nói. 2.1.2. Công cụ thu thập số liệu Trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu áp dụng phương pháp quan sát lớp học và câu hỏi điều tra. Đầu tiên, câu hỏi điều tra trước thực nghiệm được đưa ra nhằm thu thập thông tin về hứng thú học tập của sinh viên và việc dạy-học kỹ năng nghe. Thông tin thu thập được từ những câu hỏi điều tra này giúp nhóm nghiên cứu tìm hiểu về thực trạng hứng thú học tập và có định hướng cho những điều chỉnh phù hợp hơn trong khóa học. Sau đó, nhóm nghiên cứu tiến hành điều chỉnh một số chủ đề nghe trong giáo trình cho phù hợp với trình độ, sở thích của sinh viên và tăng thời lượng dành cho kỹ năng nghe. Để điều tra tính hiệu quả của những điều chỉnh này trong việc giúp nâng cao hứng thú học của sinh viên, việc quan sát lớp học cùng với bảng hỏi sau thực nghiệm được sử dụng để thu thập những dữ liệu về hứng thú học tập của sinh viên. 2.1.3. Tài liệu học tập Trong học phần nghe 2, giáo trình được sử dụng cho kỹ năng nghe là Listen in 3 (Nunan, 2011). Đây là giáo trình được thiết kế để dạy tích hợp hai kỹ năng nghe và nói. Sau phần nghe là phần luyện tập kỹ năng nói cho người học về chủ đề mà họ vừa nghe ở trên. Chính vì vậy, trong nghiên cứu này, tác giả đã tiến hành điều chỉnh nội dung bài học để phù hợp với trình độ và sở thích của sinh viên; trong đó, nhóm tác giả bổ sung thêm thời gian cho các hoạt động nghe, đồng thời cắt giảm bớt các hoạt động nói vì đã có những giờ học kỹ năng nói riêng biệt. Thêm vào đó, vì một số bài nghe quá khó so với trình độ sinh viên như bài 3, bài 7, bài 8, bài 15, bài 16, bài 20 hoặc các kiểu bài nghe chưa đa dạng để tạo hứng thú học tập cho sinh viên nên tác giả đã có những điều chỉnh trong chương trình nhằm giúp sinh viên hứng thú với giờ học nghe hơn. Nhóm nghiên cứu đã điều chỉnh một số nội dung trong chương trình học của học phần nghe 2. Những điều chỉnh đó là: thay đổi chủ đề của 06 bài học trong chương trình và thay thế bằng những chủ đề phù hợp hơn với trình độ và sở thích của sinh viên như Unit 3 (love), Unit 7 (student life), Unit 8 (dreams), Unit 15 (television), Unit 16 (At a language center), Unit 20 (Memory); điều chỉnh thời lượng và nội dung học tập theo hướng tăng thêm các hoạt động nghe, giảm bớt các hoạt động nói trong từng bài học. Lí do nhóm nghiên cứu cắt bớt hoạt động nói là sinh viên đã được học kỹ năng nói theo một giáo trình riêng, không lồng ghép với kỹ năng nghe. Những điều chỉnh này nhằm hướng đến một mục đích là giúp sinh viên nâng cao hứng thú học tập đối với kỹ năng nghe và những điều chỉnh này đều dựa trên khảo sát về nhu cầu, sở thích và trình độ của sinh viên. 2.2. Kết quả nghiên cứu 2.2.1. Kết quả thu được từ việc quan sát lớp học Việc quan sát lớp học được nhóm nghiên cứu tiến hành trong suốt thời gian sinh viên học học phần nghe 2. Trong nhóm nghiên cứu có một người là giảng viên giảng dạy và một người đóng vai trò quan sát lớp học. 26 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY Trong khuôn khổ bài báo này, nhóm nghiên cứu chỉ đưa ra thông tin thu thập được từ việc quan sát lớp học trong hai tuần đầu và hai tuần cuối cùng của học phần trong năm học 2016-2017. Bảng 1: Dữ liệu từ việc quan sát lớp học trong 2 tuần đầu tiên của học phần (03 là mức độ trung bình cho tất cả các tiêu chí) 1 2 3 4 5 1. Sinh viên tham gia đóng góp ý kiến với bài học (1 Không tham gia – 2 Hiếm khi – 3 Thỉnh thoảng – 4 Thường xuyên – 5 Rất tích cực) 11.1% 27.8% 22.2% 33.3% 5.6% 2. Đánh giá mức độ tập trung của sinh viên đối với bài học (1 Không chút nào – 2 Ít khi – 3 Thỉnh thoảng – 4 Khá tập trung – 5 rất tập trung) 9.3% 27.8% 11.1% 29.6% 22.2% 3. Sinh viên thích các hoạt động nghe (1 Ghét – 2 Không rõ – 3 Bình thường – 4 Thích – 5 Rất thích) 12.5% 15.0% 35.0% 27.8% 10.0% 4. Đánh giá mức độ tham gia hoạt động của sinh viên (1 Không tham gia – 2 Hiếm khi – 3 Thỉnh thoảng – 4 Thường xuyên – 5 Rất tích cực) 7.5% 27.8% 33.3% 11.8% 19.6% 5. Sinh viên nêu thắc mắc của mình để giáo viên/bạn học giải đáp (1 Không tham gia – 2 Hiếm khi – 3 Thỉnh thoảng – 4 Thường xuyên – 5 Rất tích cực) 12.5% 27.5% 30.0% 15.0% 15.0% 6. Sinh viên đến lớp chuyên cần, đúng giờ (1 Không bao giờ – 2 Ít khi – 3 Thỉnh thoảng – 4 Thường xuyên – 5 Rất đúng giờ) 7.5% 29.8% 29.8% 20.4% 12.5% 7. Sinh viên chăm chú nghe và cố gắng hoàn thành các nhiệm vụ nghe (1 Không – 2 Hiếm khi – 3 Thỉnh thoảng – 4 Thường xuyên – 5 Rất tích cực) 3.7% 27.8% 35.0% 27.8% 5.7% Khi mới bắt đầu khóa học, số lượng sinh viên tham gia phát biểu ý kiến trong giờ học ở mức độ tích cực chỉ là 38.9%, trong khi số sinh viên không đóng góp ý kiến hoặc ít khi đóng góp ý kiến lên tới 39%. Chỉ có 37.5% sinh viên được quan sát thấy là có hứng thú với bài học; chỉ có 30% sinh viên thường xuyên đưa ra câu hỏi về nội dung bài học, số còn lại được quan sát thấy là không bao giờ hoặc rất ít khi đưa ra câu hỏi. Có lẽ, sinh viên không mấy hứng thú hoặc chưa thích học kỹ năng nghe là một trong những lí do tỉ lệ chuyên cần đến lớp của họ cũng không cao. Có tới 37.3% (tương ứng với 20 sinh viên) thường xuyên vắng mặt hoặc đi học muộn. Con số này là khá cao đối với một lớp học chính quy. Ở tiêu chí 7, chỉ có 33.5% sinh viên chăm chú lắng nghe bài giảng và cố gắng hoàn thiện các nhiệm vụ nghe mà giáo viên yêu cầu. Qua phân tích số liệu thu được ở hai tuần đầu khóa học, có thể thấy sinh viên chưa hào hứng với các hoạt động nghe, thậm chí là trong 02 tuần đầu tiên họ cũng chưa hứng thú với việc thay đổi chủ đề bài học, mặc dù trong thời gian này bài số 3 đã được thay đổi chủ đề. 27KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v Cho đến những tuần cuối của học phần, hứng thú học kỹ năng nghe đã có sự chuyển biến tích cực. Bảng số liệu sau đây sẽ chỉ ra sự thay đổi này. Bảng 2: Dữ liệu từ việc quan sát lớp học trong 2 tuần cuối cùng của học phần (03 là mức độ trung bình cho tất cả các tiêu chí) 1 2 3 4 5 1. Sinh viên tham gia đóng góp ý kiến với bài học (1 Không tham gia – 2 Hiếm khi – 3 Thỉnh thoảng – 4 Thường xuyên – 5 Rất tích cực) 7.4% 13.0% 29.6% 20.4% 29.6% 2. Đánh giá mức độ tập trung của sinh viên đối với bài học (1 Không chút nào – 2 Ít khi – 3 Thỉnh thoảng – 4 Khá tập trung – 5 rất tập trung) 3.7% 5.6% 11.1% 33.3% 43.7% 3. Sinh viên thích các hoạt động nghe (1 Ghét – 2 Không rõ – 3 Bình thường – 4 Thích – 5 Rất thích) 3.7% 3.7% 13.0% 48.1% 31.5% 4. Đánh giá mức độ tham gia hoạt động của sinh viên (1 Không tham gia – 2 Hiếm khi – 3 Thỉnh thoảng – 4 Thường xuyên – 5 Rất tích cực) 1.9% 13.1% 20.4% 47.5% 20.4% 5. Sinh viên nêu thắc mắc của mình để giáo viên/bạn học giải đáp (1 Không tham gia – 2 Hiếm khi – 3 Thỉnh thoảng – 4 Thường xuyên – 5 Rất tích cực) 1.9% 7.4% 29.6% 37.0% 24.1% 6. Sinh viên đến lớp chuyên cần, đúng giờ (1 Không bao giờ – 2 Ít khi – 3 Thỉnh thoảng – 4 Thường xuyên – 5 Rất đúng giờ) 70% 10.0% 30.0% 40.0% 19.6% 7. Sinh viên chăm chú nghe và cố gắng hoàn thành các nhiệm vụ nghe (1 Không – 2 Hiếm khi – 3 Thỉnh thoảng – 4 Thường xuyên – 5 Rất tích cực) 3.7% 7.4% 16.7% 27.8% 44.4% Số liệu ở bảng 2 cho thấy, số sinh viên hứng thú các hoạt động nghe đã tăng đáng kể so với 2 tuần đầu của kỳ học. Theo quan sát của nhóm nghiên cứu, 51% sinh viên tham gia vào các hoạt động nghe một cách tích cực. Hầu hết sinh viên (79.6%) thấy khá hứng thú và rất thích thú với các hoạt động nghe. Điều này là một sự tiến bộ đáng kể so với thời gian đầu học phần. Số lượng sinh viên tập trung trong giờ học nghe đã lên 43.7% (so với 22% ở 2 tuần đầu tiên). Số lượng sinh viên tham gia chủ động, tích cực hơn trong giờ học cũng gia tăng đáng kể (67.9% so với 31.4% ở đầu khóa học). Khá nhiều sinh viên (67.9%) tham gia vào các hoạt động nghe một cách thường xuyên và rất tích cực. 37% sinh viên thường xuyên đưa ra các ý kiến trong bài học trong khi đó có 24.1% rất tích cực đóng góp ý kiến. Số sinh viên đi học đúng giờ cũng tăng lên 59.6% so với 32.9% ở đầu học kỳ. Khi giảng viên đưa ra các yêu cầu trong giờ học, có 27.8% sinh viên thường xuyên cố gắng hoàn thành các nhiệm vụ nghe và 44.4% sinh viên rất tích cực nghe để hoàn thành các nhiệm vụ nghe. Trong khi đó, các con số tương ứng đối với tiêu chí này ở 2 tuần đầu của khóa học chỉ là 27.8% và 5.7%. Điều này thể hiện rằng, hứng thú học của sinh viên đã tăng lên trong suốt khóa học. 28 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 2.2.2. Kết quả thu được từ bảng hỏi điều tra So sánh kết quả thu được từ bảng hỏi điều tra trước thực nghiệm và sau thực nghiệm: Sinh viên tự đánh giá về hứng thú học kỹ năng nghe của bản thân (Biểu đồ 1 và 2) Trước khi thực nghiệm, khi được hỏi “ Em có thích học kỹ năng nghe không?”, một số lượng rất lớn (60%) sinh viên thú nhận rằng, họ không thích học kỹ năng này. Con số này gần gấp 3 lần con số sinh viên cảm thấy hứng thú học nghe. Thêm vào đó, 15% sinh viên ngần ngại trong việc đưa ra câu trả lời về việc mình có hứng thú học nghe hay không. Nhìn chung, khảo sát trước thực nghiệm cho thấy, có ít sinh viên cảm thấy hứng thú học kỹ năng nghe. Sau khi áp dụng những thay đổi trong học phần nghe 2, số lượng sinh viên hứng thú với kỹ năng này đã tăng lên đáng kể (từ 25% lên tới 48%) trong khi đó số lượng sinh viên không thấy hứng thú đã giảm xuống còn 39%. Sinh viên đánh giá về sự phù hợp giữa nội dung của bài học đối với sở thích của họ Đầu khóa học, gần một nửa sinh viên (40%) thấy những chủ đề của khóa học không phù hợp với sở thích của họ. Khoảng 1/3 số sinh viên cho rằng, những chủ đề của học phần nghe 1 là phù hợp với sở thích của mình và 31% sinh viên không đưa ra ý kiến gì cho câu hỏi này. (Biểu đồ 3 và 4) 29KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v Cuối khóa học, số sinh viên thấy nội dung bài học phù hợp hơn với sở thích của bản thân đã tăng lên 48% và số sinh viên thấy bài học không phù hợp giảm xuống chỉ còn 22%. Những con số này thực sự khích lệ nhóm nghiên cứu tin tưởng vào những điều chỉnh trong chương trình về nội dung bài học và thời lượng dành cho kỹ năng nghe. Thời gian để học và luyện tập kỹ năng nghe mỗi ngày Số liệu thu thập được từ câu hỏi này chỉ ra rằng, ở đầu khóa học đa số sinh viên (60%) chỉ dành ít hơn 1 giờ mỗi ngày để luyện tập kỹ năng nghe. Đây là một trong những lí do tại sao khả năng nghe của họ rất kém. Chỉ 10% số sinh viên dành hơn 2 giờ để học kỹ năng này. (Biểu đồ 7 và 8) Số lượng sinh viên dành 1-2 giờ/ngày để học và luyện tập kỹ năng nghe đã tăng gấp đôi từ 30% lên tới 63%, trong khi số lượng sinh viên dành ít hơn 1 giờ mỗi ngày để học kỹ năng này giảm xuống đáng kể từ 60% còn 25%. Rõ ràng là, khi sinh viên nhận thấy môn học thú vị hơn, họ sẽ dành thêm thời gian và công sức để đầu tư cho nó. Mong muốn cải thiện kỹ năng nghe của bản thân: 30 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY Số liệu ở đầu khóa học cho thấy, hầu hết sinh viên (56%) có chung mong muốn được học tốt kỹ năng này và chỉ 27% không mấy quan tâm tới vấn đề này. Con số này cho thấy, mong muốn được cải thiện khả năng nghe không tương ứng với hứng thú học của sinh viên, vì 56% mong muốn cải thiện khả năng nghe không bao gồm 25% ít hứng thú học. (Biểu đồ 9 và 10) Mong muốn được cải thiện kỹ năng nghe của sinh viên đã có sự thay đổi: 56% sinh viên trước thực nghiệm cho rằng họ muốn học kỹ năng này và sau thực nghiệm con số này là 62%. Trong khi đó, số sinh viên không thích học kỹ năng này giảm từ 27% xuống còn 23%. Con số này không thay đổi nhiều lắm nhưng nó cũng phần nào thể hiện rằng, có lẽ động lực học tập của sinh viên đã thay đổi theo hướng tích cực. 3. KẾT LUẬN Số liệu thu thập được từ việc quan sát lớp học và phiếu điều tra giúp nhóm nghiên cứu đưa ra một số nhận định sau đây: - Sinh viên đã chú ý và tham gia nhiệt tình hơn trong giờ hoc kỹ năng nghe. - Việc luyện tập của sinh viên trở nên có mục đích hơn. - Sinh viên đã nhận thức được tầm quan trọng của việc luyện tập thường xuyên. - Sinh viên hứng thú với những điều chỉnh trong chủ đề nghe. Tóm tại, qua việc phân tích số liệu và thông tin thu thập được, nhóm nghiên cứu nhận thấy những nỗ lực nhằm nâng cao hứng thú học nghe của sinh viên phần nào đã có hiệu quả. Về mặt thái độ học tập, cả trên lớp và sau giờ học, những số liệu từ quan sát lớp học và bảng hỏi cho thấy việc học tập của sinh viên dần trở nên tập trung hơn; sinh viên nỗ lực hơn trong việc học, kiên nhẫn hơn với bản thân và chăm chỉ hơn. Những số liệu nghiên cứu cũng cho thấy rằng sinh viên đã thích thú với những bài học hơn. Đây thực sự là một thành công đáng ghi nhận của nhóm nghiên cứu vì trong giáo dục hứng thú học tập nhiều khi còn quan trọng hơn kết quả học tập (Naiman et al,1991)./. Tài liệu tham khảo: 1. David Nunan (2011), Listen in 3, Lao Dong Publishing House, Hanoi. 2. David Nunan (1994), Syllabus Design, Oxford University Press: Oxford. 3. Dornyei, Z. (2001), Teaching and researching motivation, London: Longman 4. Naiman et al. (1991), The good language learners, Ontario Institute for Studies in Education: Toronto. 5. Sass, E. J. (1989), “Motivation in the college classroom: What students tell us”, Teaching of Psychology, 16(2). 6. William Arthur Ward (1970), Fountains of Faith: the Words of William Arthur Ward, Droke House: United States. 31KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v ADJUSTING LISTENING TOPICS TO IMPROVE THE MOTIVATION OF THE FIRST- YEAR ENGLISH-MAJORED STUDENTS TO LISTENING SKILLS AT HUNG VUONG UNIVERSITY NGO THI THANH HUYEN NGUYEN THI NGOC THUY Abstract: This is the report of an action research which has recently been conducted on 54 first-year English students of Foreign Language Department at Hung Vuong University (Phu Tho province). Motivation is very important to the learners, and to some extent, even more important than their study results (Sass, 1989). In this report, an analysis on the motivation of the first-year students before and after the application of the adjustments in listening topics is focused on. Accordingly, findings and discussion on positive changes in the students’ motivation are explained. Based on the analyses and discussions, some suggested solutions that can help improve the student’s motivation in learning listening skills are finally given. Keywords: motivation, listening skills, action research. Received: 18/5/2017; Revised: 07/7/2017; Accepted for publication: 30/8/2017
File đính kèm:
- dieu_chinh_chu_de_nghe_giup_cai_thien_hung_thu_hoc_ky_nang_n.pdf