Giáo trình Tâm lý học trẻ em (Từ lọt lòng đến 6 tuổi) - Nguyễn Thị Ngọc

Phần 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC TRẺ EM

Chương 1. TÂM LÝ HỌC VÀ TÂM LÝ HỌC TRẺ EM

I. ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÝ HỌC VÀ TÂM LÝ HỌC TRẺ EM

1. Tâm lý, các loại hiện tượng tâm lý

1.1. Khái niệm tâm lý

Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta ít nhiều đã làm quen với từ "tâm lý" như "bạn thật tâm lý", "bạn

không tâm lý tí nào". Từ "tâm lý" ở đây được dùng với nghĩa là hiểu biết được tâm tư, nguyện vọng, ước

muốn, tình cảm, thái độ. của con người.

Tâm lý hiểu với nghĩa như trên là đúng, nhưng chưa đủ. Tâm lý trong khoa học còn bao gồm cả các hiện

tượng như nhìn, nghe, sờ, ngửi, suy nghĩ, tưởng tượng, chú ý, nhớ, thói quen, ý chí, chí hướng, khả năng,

lý tưởng sống. Nói một cách khái quái tâm lý bao gồm tất cả các hiện tượng tinh thần nảy sinh, tồn tại

(xảy ra) trong đầu óc con người, điều hành mọi hành động, hoạt động của con người.

Nói hiện tượng tâm lý vốn nảy sinh, tồn tại trong "đầu óc con người", nhưng không có nghĩa là chính

người đó biết rõ tất cả các hiện tượng đó. Có những hiện tượng tâm lý mà bản thân biết được gọi là hiện

tượng tâm lý có ý thức (ý thức), còn có những hiện tượng tâm lý bản thân không biết đến gọi là hiện tượng

tâm lý không được ý thức (hay còn gọi là vô thức). Nhưng rõ ràng các hiện tượng tâm lý được nảy sinh dù

chủ thể biết rõ hay không cũng đều tham gia điều hành mọi hoạt động, hành động của con người, nó định

hướng cho hoạt động, thúc đẩy hoạt động, điều khiển, kiểm soát hoạt động và điều chỉnh hoạt động khi

cần thiết. Như khi ta nhìn thấy ôtô đang đến gần thì ta dừng lại không qua đường, khi nghĩ ra một điều gì

đó khiến ta bắt tay vào hoạt động, do "thói quen" tính nết khiến ta ứng xử theo cách này mà không theo

cách khác.

1.2. Các loại hiện tượng tâm lý

Có ba loại hiện tượng tâm lý:

1.2.1. Các quá trình tâm lý

Là hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương đối ngắn (vài giây, vài giờ) có mở đầu, có diễn biến và

kết thúc. Có ba loại quá trình tâm lý:

+ Quá trình nhận thức: Bao gồm các quá trình như cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng v.v.

+ Quá trình cảm xúc: Thích, ghét, dễ chịu, khó chịu, yêu thương, bực tức, căm thù.

+ Quá trình ý chí: Như đặt mục đích, đấu tranh tư tưởng, tham vọng.

1.2.2. Các trạng thái tâm lý

Là hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương đối dài (hàng giờ, hàng tháng) thường ít biến động,

luôn đi kèm theo các quá trình tâm lý, làm tăng hay giảm tính hiệu quả của chúng. Chẳng hạn như chú ý,

phân vân, tâm trạng, ganh đua, nghi hoặc.

pdf 100 trang yennguyen 2680
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tâm lý học trẻ em (Từ lọt lòng đến 6 tuổi) - Nguyễn Thị Ngọc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Tâm lý học trẻ em (Từ lọt lòng đến 6 tuổi) - Nguyễn Thị Ngọc

Giáo trình Tâm lý học trẻ em (Từ lọt lòng đến 6 tuổi) - Nguyễn Thị Ngọc
1 
TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ 
TÂM LÝ HỌC TRẺ EM 
(Từ lọt lòng đến 6 tuổi) 
TÀI LIỆU DÙNG CHO HỆ TRUNG CẤP 
Người biên soạn: TS. Nguyễn Thị Ngọc 
2 
MỤC LỤC 
Phần một. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC TRẺ EM 
Chương 1. TÂM LÝ HỌC VÀ TÂM LÝ HỌC TRẺ EM 
I. Đối tượng của tâm lý học và tâm lý học trẻ em 
II. Bản chất của hiện tượng tâm lý 
III. Ý nghĩa của tâm lý học trẻ em và mối quan hệ của nó với các khoa học khác 
IV. Phương pháp nghiên cứu của tâm lý học trẻ em 
Chương 2. CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ CƠ BẢN 
I. Hoạt động 
II. Giao lưu 
III. Nhân cách 
IV. Ngôn ngữ 
V. Nhận cảm 
VI. Trí nhớ 
VII. Tư duy 
VIII. Tưởng tượng 
IX. Chú ý 
X. Xúc cảm, tình cảm 
XI. Ý chí 
Chương 3. NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ Ở TRẺ EM 
I. Thế nào là sự phát triển tâm lý trẻ 
II. Những quy luật cơ bản của sự phát triển tâm lý trẻ 
Phần hai. ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ THEO TỪNG LỨA TUỔI TRẺ EM 
Chương 4. ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ LỨA TUỔI HÀI NHI 
I. Đặc điểm tâm lý của lứa tuổi hài nhi 
II. Biện pháp giáo dục 
Chương 5. ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ LỨA TUỔI ẤU NHI 
I. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi ấu nhi 
II. Biện pháp giáo dục 
Chương 6. ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ LỨA TUỔI MẪU GIÁO 
I. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi Mẫu giáo 
II. Biện pháp giáo dục 
Tài liệu tham khảo 
3 
Phần 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC TRẺ EM 
Chương 1. TÂM LÝ HỌC VÀ TÂM LÝ HỌC TRẺ EM 
I. ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÝ HỌC VÀ TÂM LÝ HỌC TRẺ EM 
1. Tâm lý, các loại hiện tượng tâm lý 
1.1. Khái niệm tâm lý 
Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta ít nhiều đã làm quen với từ "tâm lý" như "bạn thật tâm lý", "bạn 
không tâm lý tí nào". Từ "tâm lý" ở đây được dùng với nghĩa là hiểu biết được tâm tư, nguyện vọng, ước 
muốn, tình cảm, thái độ... của con người. 
Tâm lý hiểu với nghĩa như trên là đúng, nhưng chưa đủ. Tâm lý trong khoa học còn bao gồm cả các hiện 
tượng như nhìn, nghe, sờ, ngửi, suy nghĩ, tưởng tượng, chú ý, nhớ, thói quen, ý chí, chí hướng, khả năng, 
lý tưởng sống... Nói một cách khái quái tâm lý bao gồm tất cả các hiện tượng tinh thần nảy sinh, tồn tại 
(xảy ra) trong đầu óc con người, điều hành mọi hành động, hoạt động của con người. 
Nói hiện tượng tâm lý vốn nảy sinh, tồn tại trong "đầu óc con người", nhưng không có nghĩa là chính 
người đó biết rõ tất cả các hiện tượng đó. Có những hiện tượng tâm lý mà bản thân biết được gọi là hiện 
tượng tâm lý có ý thức (ý thức), còn có những hiện tượng tâm lý bản thân không biết đến gọi là hiện tượng 
tâm lý không được ý thức (hay còn gọi là vô thức). Nhưng rõ ràng các hiện tượng tâm lý được nảy sinh dù 
chủ thể biết rõ hay không cũng đều tham gia điều hành mọi hoạt động, hành động của con người, nó định 
hướng cho hoạt động, thúc đẩy hoạt động, điều khiển, kiểm soát hoạt động và điều chỉnh hoạt động khi 
cần thiết. Như khi ta nhìn thấy ôtô đang đến gần thì ta dừng lại không qua đường, khi nghĩ ra một điều gì 
đó khiến ta bắt tay vào hoạt động, do "thói quen" tính nết khiến ta ứng xử theo cách này mà không theo 
cách khác. 
1.2. Các loại hiện tượng tâm lý 
Có ba loại hiện tượng tâm lý: 
1.2.1. Các quá trình tâm lý 
Là hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương đối ngắn (vài giây, vài giờ) có mở đầu, có diễn biến và 
kết thúc. Có ba loại quá trình tâm lý: 
+ Quá trình nhận thức: Bao gồm các quá trình như cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng v.v... 
+ Quá trình cảm xúc: Thích, ghét, dễ chịu, khó chịu, yêu thương, bực tức, căm thù. 
+ Quá trình ý chí: Như đặt mục đích, đấu tranh tư tưởng, tham vọng... 
1.2.2. Các trạng thái tâm lý 
Là hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương đối dài (hàng giờ, hàng tháng) thường ít biến động, 
luôn đi kèm theo các quá trình tâm lý, làm tăng hay giảm tính hiệu quả của chúng. Chẳng hạn như chú ý, 
phân vân, tâm trạng, ganh đua, nghi hoặc... 
1.2.3. Các thuộc tính tâm lý 
4 
Là hiện tượng tâm lý hình thành lâu dài và kéo dài rất lâu, có khi suốt đời và tạo thành nét riêng của cá 
nhân, chi phối các quá trình và trạng thái tâm lý của người ấy như: Tính tình, tính nết, thói quen, quan 
điểm, hứng thú, năng lực, lý tưởng sống, sở trường... 
Trong mỗi con người các hiện tượng tâm lý gắn bó mật thiết với nhau, ảnh hưởng qua lại với nhau tạo 
thành đời sống tâm lý trọn vẹn ở mỗi người. Các hiện tượng tâm lý dù là quá trình hay trạng thái, thuộc 
tính tâm lý đều gắn bó chặt chẽ với hoạt động con người, nó xuất hiện, diễn biến và thể hiện trong điều 
kiện cụ thể một hoạt động nào đó của con người, là chất liệu hình thành nhân cách người ấy. 
2. Đối tượng của tâm lý học và tâm lý học trẻ em 
2.1. Đối tượng của tâm lý học 
Tâm lý học là một khoa học nghiên cứu về tâm lý con người. Những hiện tượng tâm lý, những quá trình 
phát sinh và phát triển của chúng, những nét tâm lý cá nhân và những đặc điểm tâm lý hoạt động của con 
người là đối tượng nghiên cứu của tâm lý học. Như vậy, khoa học này nghiên cứu một vấn đề quan trọng 
đối với con người và xã hội ("cái điều hành hành động, hoạt động của con người") nên ở đâu có hoạt động 
của con người là ở đó có thể vận dụng tâm lý học để cải tiến, nâng cao hiệu quả hoạt động thực tế, mà 
trong xã hội không một lĩnh vực nào vắng bóng con người. Với ý nghĩa, tính thiết thực của ứng dụng tâm 
lý học nên chỉ hơn 100 năm nó đã có lịch sử riêng và bất kể những khủng hoảng về đối tượng nghiên cứu 
của mình, tâm lý học vẫn phát triển mạnh mẽ. Đến năm 1985 đã có thể thống kê được hơn 50 ngàn phân 
ngành tâm lý học. 
Mặt khác, đối tượng của tâm lý học cực kỳ phức tạp, tinh vi và khó khăn, cần phải có cả một tập hợp khoa 
học (triết học, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, sinh lý học, tâm lý học thần kinh, điều khiển học, toán 
học, ngôn ngữ học, xã hội học, văn học, dân tộc học, văn hóa học...) làm cơ sở cho nó phải phát triển đến 
mức nhất định mới giúp cho tâm lý học đủ điều kiện hình thành và phát triển. Vì vậy việc nghiên cứu tâm 
lý và vận dụng khoa học tâm lý đòi hỏi vừa khoa học vừa nghệ thuật, đòi hỏi kiến thức khoa học tổng hợp 
và vận dụng vào thực tế cần có tri thức khoa học cụ thể có liên quan, đáp ứng đòi hỏi của nhiều ngành 
hoạt động xã hội. 
2.2. Đối tượng của tâm lý học trẻ em 
Tâm lý học trẻ em là một ngành khoa học nghiên cứu tâm lý trẻ. Những phẩm chất, những đặc điểm của 
những quá trình tâm lý (như cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng, xúc cảm, tình cảm, ý chí) của 
trẻ em, những hình thức hoạt động khác nhau của chúng (trò chơi, học tập, lao động), những phẩm chất 
tâm lý, nhân cách của trẻ em nói chung trong sự phát triển tâm lý là đối tượng nghiên cứu của tâm lý học 
trẻ em. 
Cùng với sự phát triển của tâm lý học như một khoa học, phạm vi những vấn đề đòi hỏi sự nghiên cứu tâm 
lý học chuyên biệt liên tục được mở rộng, hàng loạt các khoa học chuyên ngành như tâm lý học sư phạm, 
tâm lý học trẻ em, tâm lý học y học, tâm lý học thể thao, tâm lý học kỹ sư... xuất hiện. Mỗi ngành khoa 
học trong đó có tâm lý học trẻ em đều tuân theo những nguyên tắc, những cơ sở lý luận của những luận 
thuyết tạo nên cơ sở phương pháp luận của tâm lý học đại cương. Nhưng sự phát triển tâm lý học trẻ em 
còn chịu tác động của những quy luật riêng. Tâm lý học trẻ em hướng việc nghiên cứu của mình vào 
những quy luật riêng biệt của sự phát triển tâm lý trẻ. Dựa trên những tài liệu của chủ nghĩa duy vật biện 
chứng và duy vật lịch sử, tâm lý học trẻ em nghiên cứu những nguyên nhân, những yếu tố tác động đến sự 
5 
biến đổi đứa trẻ từ bất lực thành con người khôn ngoan, nghiên cứu những đặc điểm phản ánh và sự phát 
triển của nó trong những giai đoạn khác nhau của đời sống đứa trẻ, nghiên cứu sự phát triển của mỗi quá 
trình tâm lý, từng hoạt động (vui chơi, lao động, học tập), toàn bộ nhân cách của đứa trẻ diễn ra trong 
những thời kỳ, giai đoạn nào? Dưới những tác động của những yếu tố nào? Để giải quyết những vấn đề 
trên, tâm lý học trẻ em phải phân tích chu đáo tất cả những điều kiện, yếu tố, hoàn cảnh quy định sự phát 
triển của trẻ, trong sự tác động tương hỗ giữa chúng, phân tích những mâu thuẫn xảy ra một cách có quy 
luật trong quá trình chuyển trẻ từ trình độ thấp lên trình độ cao và mâu thuẫn này được giải quyết trong 
quá trình phát triển của đứa trẻ như thế nào? 
II. BẢN CHẤT HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ NGƯỜI 
1. Tâm lý là chức năng của não 
Trong quá trình tiến hóa, môi trường sống ngày càng phức tạp, sinh vật dần dần hình thành một cơ quan 
chuyên trách phản ánh hiện thực khách quan để điều hành hành động và hoạt động sống của mình. Cơ 
quan ấy là hệ thần kinh trung ương, trong đó có bộ phận biến đổi dẫn thành não. Tâm lý chính là chức 
năng cao nhất của hệ thần kinh trung ương - chức năng của vỏ não. 
Nhưng não phải hoạt động mới nảy sinh tâm lý, hoạt động của não sinh ra tâm lý không phải như gan tiết 
ra mật mà là hoạt động phản xạ có điều kiện đang dừng ở khâu thứ hai. Thí dụ: Người lớn đưa ra trước trẻ 
cái xúc xắc: Các thuộc tính hình dạng, màu sắc, kích thước... của xúc xắc tác động vào thị giác, tạo thành 
những xung động thần kinh. Những luồng xung động thần kinh này theo dây thần kinh hướng tâm đi vào 
các trường của vùng thị giác. Ở đây có sự phân tích tổng hợp. Nhờ có sự phân tích tổng hợp những đường 
liên hệ tạm thời mới giữa các kích thích khác nhau của xúc xắc và các phản ứng trả lời của cơ thể với xúc 
xắc được thành lập, tạo nên hình ảnh xúc xắc và các thao tác chơi với nó đó chính là hình ảnh tâm lý. Sau 
đó những xung động đã phân tích được truyền đến vùng vận động, từ đó những xung động này theo dây 
thần kinh ly tâm đến cơ quan vận động (cơ tay) tạo ra vận động tay cầm xúc xắc, lắc lắc. 
Toàn bộ con đường thần kinh mà luồng xung động thần kinh đi qua từ cơ quan cảm giác (mắt) đến cơ 
quan vận động (tay) gọi là cung phản xạ. 
Một cung phản xạ gồm có 3 khâu: 
1) Khâu kích thích và hướng tâm tạo ra xung động thần kinh; dẫn xung động thần kinh vào trung khu bộ 
máy phân tích. 
2) Khâu trung tâm (trung ương thần kinh) phân tích tổng hợp xung động và dẫn truyền xung động sang tế 
bào khác, vùng khác. 
3) Khâu ly tâm và vận động: Truyền xung động đến cơ quan vận động và vận động. 
Kết quả của vận động được báo về trung ương thần kinh làm cho đường dẫn truyền thành một vòng khép 
kín gọi là vòng phản xạ. Ngoài 3 khâu trên vòng phản xạ còn có thêm 2 khâu: 
1) Báo ngược để điều chỉnh hoạt động cho hoàn thiện hơn. 
2) Khâu ly tâm truyền xung động điều chỉnh. 
Như vậy tâm lý được nảy sinh và tồn tại ở khâu thứ hai - khâu trung tâm. Đó mới chỉ là những hình ảnh 
tâm lý, nó chưa đủ điều kiện cần thiết cho sự nảy sinh chức năng vận hành của hoạt động tâm lý. Điều đó 
6 
nói lên rằng hoạt động thần kinh của não và hoạt động tâm lý không phải là hai, cũng không phải là hoạt 
động song song mà quyện vào nhau, để nảy sinh, tồn tại và vận hành chung. 
2. Tâm lý là sự phản ánh hiện thực khách quan trong hoạt động của cá nhân 
Mặc dù tâm lý là hiện tượng tinh thần nhưng nó có nguồn gốc từ hiện thực khách quan, tâm lý chính là 
hình ảnh hiện thực khách quan (cái bên ngoài) ở trong não ta. Vì thế có thể nói tâm lý mang bản chất phản 
ánh. Sự phản ánh tâm lý khác sự phản ánh khác (phản ánh vật lý, hóa học) nó không phải là sự ghi lại một 
cách nguyên xi, cứng đờ những tác động của hiện thực khách quan mà nó sinh động, phong phú, phức tạp. 
Hiện tượng tâm lý nào cũng phản ánh hiện thực khách quan nhưng mỗi loại hiện tượng tâm lý phản ánh 
một mặt, một quan hệ, một mức độ... khác nhau và điều hành hoạt động khác nhau. Chẳng hạn: quá trình 
tâm lý nhận thức phản ánh bản thân hiện thực khách quan, những thuộc tính vốn có của bản thân sự vật, 
hiện tượng từ những thuộc tính bề ngoài đến thuộc tính bản chất, quy luật ẩn giấu bên trong nên thường nó 
đóng vai trò định hướng cho hoạt động. Các quá trình rung động (cảm xúc) phản ánh hiện thực khách 
quan trong mối quan hệ với nhu cầu, thị hiếu, ý hướng (thỏa mãn hay không thỏa mãn) nên quá trình rung 
động thường hay đóng vai trò thúc đẩy hành động và hoạt động. Các quá trình ý chí phản ánh hiện thực 
khách quan của chính hành động và hoạt động (sẽ, đang và đã thực hiện) nên quá trình ý chí thường đóng 
vai trò điều khiển, điều chỉnh hành động, hoạt động. Các trạng thái, thuộc tính tâm lý phản ánh những yếu 
tố trong hiện thực khách quan có ảnh hưởng tương đối lâu lên hành động và hoạt động của cá nhân, do đó 
được phản ánh đến độ sâu nhất định trong tâm lý, nhân cách cá nhân. 
Tâm lý là sự phản ánh hiện thực khách quan nên nội dung tâm lý mang nội dung hiện thực khách quan. 
Nhưng điều kiện sống của mỗi cá nhân không giống nhau nên tâm lý (tri thức, kinh nghiệm, phẩm chất 
tâm lý...) mỗi cá nhân không như nhau. Vì vậy cùng một hiện thực khách quan tác động tới não nhưng 
mỗi cá nhân khác nhau sẽ phản ánh nó khác nhau dẫn đến mỗi cá nhân có cách ứng xử, hành động, hoạt 
động khác nhau. Chẳng hạn: trong cùng một tiết học do một giáo viên dạy nhưng có học sinh thì thích thú 
nghe, có học sinh thờ ơ, mỗi học sinh hiểu vấn đề ở một mức độ khác nhau, vận dụng vào thực tế khác 
nhau... 
Tóm lại: Tâm lý phản ánh hiện thực khách quan trong quá trình hoạt động, giao lưu của mỗi cá nhân. Vì 
vậy tâm lý mang tính chủ thể, là hiện thực khách quan đã được "khúc xạ qua lăng kính chủ quan của mỗi 
người". 
3. Tâm lý người mang bản chất xã hội lịch sử 
Loài người có lao động, sống thành xã hội nên tâm lý người khác hẳn về chất so với tâm lý động vật. Tâm 
lý người mang bản chất xã hội - lịch sử. 
Trong quá trình lao động con người sử dụng phương tiện lao động tác động vào hiện thực khách quan tạo 
ra sản phẩm lao động (vật chất hoặc tinh thần) nhằm phục vụ nhu cầu nảy sinh trong cuộc sống thì các 
hiện tượng tâm lý sống động trong não người lao động được chuyển vào trong sản phẩm lao động gọi là 
sự xuất tâm, tâm lý được chứa chất trong sản phẩm lao động gọi là tâm lý tồn đọng. Khi người khác hoạt 
động với sản phẩm lao động ở trong não họ nảy sinh hiện tượng tâm lý sống động ít nhiều tương ứng với 
hiện tượng tâm lý ban đầu gọi là sự nhập tâm các hiện tượng tâm lý. 
Con người sống trong xã hội nhờ có sự giao lưu giữa những người trong xã hội (gia đình, tập thể, nhóm 
bạn bè, làng xóm...). thông qua việc trao đổi thông tin, khuyên nhủ, hướng dẫn, thuyết phục, tuyên truyền, 
7 
bày tỏ, tâm tình, yêu cầu, nguyện vọng, bắt chước mỗi hiện tượng tâm lý nảy sinh trong trí óc mỗi cá nhân 
không "nằm yên" ở đó mà luôn "lây lan" ảnh hưởng đến nhiều người khác chuyển thành của chung nhiều 
người, có khi của cả dân tộc, loài người. Thí dụ: Nếp sống ngăn nắp gọn gàng ở trẻ A được cô nêu gương 
trong cả nhóm trẻ sẽ có thể chuyển thành nếp sống của nhóm trẻ. 
Nhờ có sự giao lưu và nhập tâm các hiện tượng tâm lý của cá nhân đều có thể trở thành tâm lý xã hội và 
ngược lại. Do đó loài người bên cạnh sự di truyền sinh học còn có sự "di truyền" xã hội hay là "di truyền" 
văn hóa - tức là khả năng truyền lại toàn bộ đặc điểm tâm lý đang phát triển của cả loài người cho mỗi cá 
nhân. 
Tóm lại: Tâm lý người mang bản chất xã hội - lịch sử biểu hiện cả trên bình diện không gian và thời gian 
nhờ xuất tâm, lây lan, nhập tâm "di truyền" văn hóa. 
III. Ý NGHĨA CỦA TÂM LÝ HỌC TRẺ EM VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI CÁC KHOA HỌC K ... n liền với việc lĩnh hội và sự ý thức được những chuẩn mực và những quy tắc hành vi xã hội, 
gắn liền với sự thống hiểu ý nghĩa những cử chỉ của mình đối với người khác, đầu tiên việc thực hiện quy 
tắc hành vi thường đối với trẻ chỉ là phương tiện để trẻ duy trì mối quan hệ qua lại tích cực giữa mình với 
người lớn xung quanh. Sau rồi do được tán thưởng, khen ngợi mà đứa trẻ vui vẻ thực hiện những hành vi 
đó như là một sự bắt buộc của người lớn, một nghĩa vụ xã hội, tức là trẻ hiểu được ý nghĩa xã hội của 
những hành vi này. Chẳng hạn đối với câu hỏi: "Tại sao không được đánh bạn?", nếu trẻ mẫu giáo bé trả 
lời: "Không được đánh nhau, đánh nhau sẽ bị phạt!" thì trẻ mẫu giáo nhỡ lại trả lời: "Không được đánh 
nhau với bạn vì cô dặn là phải thương yêu bạn". 
Từ tuổi mẫu giáo nhỡ những động cơ "xã hội" muốn làm một cái gì đó cho người khác, mang lại lợi ích 
cho người khác - bắt đầu chiếm vị trí ngày càng lớn trong số các động cơ đạo đức. Trong thời kỳ này trẻ 
đã hiểu rằng những hành vi của chúng có thể mang lại lợi ích cho những người khác và chúng bắt đầu 
thực hiện những công việc vì người khác theo sáng kiến riêng của mình. Nhưng muốn như vậy, người lớn 
cần phải làm sao để trẻ có thể hình dung được những việc mình làm quả là có đem lại niềm vui cho những 
người mà mình cần phải quan tâm. Chẳng hạn muốn cho trẻ mẫu giáo hoàn thành được công việc làm đồ 
chơi tặng các em nhỏ ở nhà trẻ nhân dịp tết Trung thu thì cô giáo phải kể cho chúng nghe dưới một hình 
thức rõ ràng giàu hình tượng về sự thèm khát có đồ chơi của những em nhỏ ở nhà trẻ, về sự bất lực của 
97 
các em nhỏ, về niềm vui sướng của các em nhỏ đó khi nhận được quà Trung thu do các anh chị mẫu giáo 
gửi cho. Dần dần sau này về cuối tuổi mẫu giáo trẻ có thể tự giác thực hiện các nghĩa vụ xã hội. 
Sự hình thành những động cơ xã hội ở cuối tuổi mẫu giáo đánh dấu một bước trưởng thành so với trẻ mẫu 
giáo bé. Khi người ta hỏi các cháu mẫu giáo bé đang làm trực nhật là tại sao chúng làm việc đó thì thường 
nhận được những câu trả lời như: "Tại cô bảo" hay "tại cháu thích". Nhưng trẻ mẫu giáo nhỡ và lớn thì lại 
có cách trả lời khác: "Cháu cần phải giúp đỡ các bác cấp dưỡng kẻo một mình bác ấy làm vất vả" hoặc 
"cháu phải dọn cơm cho các bạn ăn kẻo các bạn đói rồi"... 
Ta có thể thấy nhiều trẻ em ở cuối tuổi mẫu giáo thực hiện một cách có ý thức những công việc mang nội 
dung đạo đức tốt đẹp. Chẳng hạn trong một buổi chơi chung giữa trẻ em thuộc nhiều độ tuổi khác nhau 
(bé, nhỡ, lớn) ở một trường mẫu giáo, một số trẻ mẫu giáo bé làm hỏng đồ chơi và đang muốn nhờ người 
giúp đỡ. Cô giáo liền hỏi: "Anh chị nào có thể giúp em sửa lại đồ chơi?" Lập tức rất nhiều trẻ mẫu giáo 
nhỡ và lớn giơ tay sẵn sàng tình nguyện bỏ cuộc chơi của mình để đến giúp em bé. 
Do hoạt động phối hợp với bạn cùng tuổi, đặc biệt là các trò chơi có quy tắc phát triển đã thúc đẩy sự xuất 
hiện một hình thức động cơ mới - động cơ thi đua, gắn liền với khát vọng khẳng định, nguyện vọng thắng 
cuộc. Hầu hết trong trò chơi học tập, trò chơi vận động của trẻ mẫu giáo nhỡ, đặc biệt là mẫu giáo lớn đều 
là trò chơi gắn liền với sự thi đua - thi đua với các bạn, giữa tổ mình với các tổ khác. Yếu tố thi đua kích 
thích trẻ hoạt động một cách tích cực. Những lời nhắc nhở như "Ai làm nhanh hơn?", "tổ nào làm tốt 
hơn?"... đối với trẻ mẫu giáo lớn có một sức động viên mạnh khiến cho trẻ thực hiện công việc tốt hơn 
bình thường. Tuy nhiên thắng hay thua đối với trẻ đều vui vẻ cả. Cái chính ở đây sự thi đua đã thúc đẩy trẻ 
hoạt động một cách hào hứng. Có nhiều cháu thua mà vẫn phấn khởi vì được hoạt động, được vui chơi. 
Ở lứa tuổi mẫu giáo còn hình thành những động cơ nhận thức. Ngay từ lúc 3 - 4 tuổi trẻ đã luôn hỏi ngươi 
xung quanh vô số những câu hỏi "đây là cái gì", "để làm gì", "như thế nào"; sau này những câu hỏi "tại 
sao" trở thành ưu thế. Những câu hỏi của trẻ bé và nhỡ đặt ra phần lớn nhằm mục đích thu hút sự chú ý 
của người lớn, nhằm giao tiếp với họ, chia sẻ tình cảm xuất hiện ở trẻ với họ. Trẻ thường không chờ đợi 
và nghe hết câu trả lời của người lớn về câu hỏi của mình, trẻ thường cướp lời người lớn, chuyển sang câu 
hỏi mới. Dần dần do ảnh hưởng của những tri thức muôn màu muôn vẻ người lớn dạy, truyền thụ cho, do 
người lớn luôn trả lời câu hỏi của trẻ một cách vừa sức, có cơ sở mà trẻ mới bắt đầu hứng thú hơn với thế 
giới xung quanh, khao khát muốn biết một cái mới nào đó. Đến mẫu giáo lớn hứng thú với tri thức mới trở 
thành một động cơ độc lập của những hành động ở trẻ, mới bắt đầu định hướng cho hành vi của trẻ. 
Tóm lại, động cơ hành vi của trẻ mẫu giáo nhỡ và lớn đã trở nên nhiều màu, nhiều vẻ, có thể kể đến như là 
động cơ muốn tự khẳng định mình, động cơ nhận thức, muốn khám phá về thế giới xung quanh, động cơ 
thi đua, động cơ xã hội... Trong những động cơ đó cũng có thể có sự pha trộn mặt tích cực lẫn mặt tiêu 
cực, nhất là đối với những động cơ xã hội. Do đó cần phải quan tâm đến nội dung động cơ của trẻ, cần 
phải phát huy động cơ tích cực và ngăn chặn động cơ tiêu cực. 
Sự biến đổi động cơ hành vi trong tuổi mẫu giáo nhỡ và lớn không chỉ thể hiện ở mặt nội dung của động 
cơ với sự xuất hiện nhiều loại động cơ mới mà trong lứa tuổi này đã bắt đầu hình thành quan hệ phụ thuộc 
theo thứ bậc của các động cơ, được gọi là hệ thống thứ bậc của các động cơ. Đó là một cấu tạo tâm lý mới 
trong sự phát triển nhân cách của trẻ mẫu giáo. 
Trong hệ thống thứ bậc này, các động cơ được sắp xếp theo ý nghĩa quan trọng của mỗi động cơ đối với 
bản thân đứa trẻ. Chẳng hạn trong việc làm trực nhật, không phải chỉ có một động cơ thúc đẩy, mà thường 
có nhiều động cơ như: Có thể là vì trẻ thích bản thân công việc trực nhật, hoặc có thể trẻ làm trực nhật để 
98 
được cô khen, hoặc cũng có thể là để giúp bác cấp dưỡng v.v... Những động cơ này thường không tồn tại 
song song với nhau mà ở mỗi đứa trẻ lại có một động cơ nào đó được nổi lên hàng đầu, chiếm vị trí ưu 
thế. Chẳng hạn: Ở cháu A thì do bản thân công việc làm cháu thích, vì làm trực nhật thì được chia bát đĩa, 
bưng thức ăn, được đeo yếm giống như bác cấp dưỡng. Ở cháu B thì lòng thương yêu, sự đồng cảm với 
những khó nhọc của bác cấp dưỡng đã khiến cho nó thích công việc này. Ở cháu C thì ý muốn cho mình 
được chọn bát đẹp, chỗ ngồi theo ý thích, lại được điều khiển các bạn nổi lên hàng đầu. 
Như vậy là trước một công việc, mỗi trẻ đều có thể có một hệ thống thứ bậc các động cơ thúc đẩy. Sự 
khác nhau giữa trẻ em ở đây rõ nhất là trong hệ thống thứ bậc của động cơ, xem động cơ nào sẽ chiếm ưu 
thế nhất. Điều đó là hoàn toàn phụ thuộc vào sự giáo dục của người lớn và ảnh hưởng của cuộc sống bên 
ngoài mà trẻ tiếp xúc. 
Hệ thống thứ bậc các động cơ được hình thành ở tuổi này khiến cho toàn bộ hành vi của trẻ nhằm theo 
một xu hướng nhất định. Đây là điểm khác nhau trong hành vi của trẻ mẫu giáo lớn so với hành vi của trẻ 
mẫu giáo bé. Hành vi của trẻ mẫu giáo bé thường không xác định được phương hướng chủ yếu. Đứa trẻ 
vừa mới cho bạn kẹo, bây giờ lại giành đồ chơi của bạn. Một đứa trẻ khác vừa mới hăng hái giúp mẹ dọn 
dẹp trong phòng, chỉ vài phút sau lại rủ bạn đến xả rác lung tung. 
Ở trẻ mẫu giáo nhỡ trở đi, hành vi của trẻ tương đối dễ xác định. Nếu động cơ vì xã hội, tức là muốn đem 
lại lợi ích cho người khác chiếm ưu thế thì trong đại đa số trường hợp đứa trẻ sẽ thực hiện những hành vi 
mang tính đạo đức tốt đẹp. Ngược lại nếu động cơ nhằm thỏa mãn ý thích hay quyền lợi riêng của bản 
thân chiếm ưu thế thì trong nhiều trường hợp đứa trẻ sẽ hành động nhằm tìm kiếm những quyền lợi cá 
nhân ích kỷ dẫn đến những sai phạm nghiêm trọng về quy tắc đạo đức xã hội. Đối với những trẻ này cần 
áp dụng những biện pháp giáo dục thích hợp, có hiệu quả nhằm thay đổi những cơ sở của nhân cách đã 
được hình thành một cách bất lợi này, trước hết là phải biết cảm hóa trẻ bằng tình yêu thương, đồng thời 
lại đòi hỏi ở chúng sự yêu thương và quan tâm đến những người xung quanh, tạo ra những tình huống để 
gợi lên ở trẻ những hành vi đạo đức tốt đẹp. Việc giáo dục này cần thiết phải làm ngay từ khi mà hệ thống 
thứ bậc động cơ mới bắt đầu hình thành, có như vậy sau này mới đỡ mất công giáo dục lại từ đầu. 
Từ những phân tích trên, có thể nói rằng hành vi của trẻ mẫu giáo lớn là hành vi mang tính xã hội rõ rệt, 
hay còn gọi là hành vi mang tính nhân cách. 
C. TIẾN TỚI BƯỚC NGOẶT 6 TUỔI VÀ CHUẨN BỊ TRÌNH ĐỘ SẴN SÀNG VỀ MẶT TÂM LÝ 
CHO TRẺ VÀO LỚP 1 PHỔ THÔNG 
1. Bước ngoặt 6 tuổi 
Các nhà tâm lý học coi thời điểm lúc trẻ tròn 6 tuổi là một bước ngoặt quan trọng, giữa một bên là đứa trẻ 
bé nhỏ đang phát triển để hoàn thiện các cấu trúc tâm lý của con người mà hoạt động chủ đạo là vui chơi 
chưa thực hiện bất kỳ một nghĩa vụ nào của xã hội với một bên là một học sinh đang thực hiện một nghĩa 
vụ xã hội giao cho bằng hoạt động học tập nghiêm túc. Đứng về mặt phát triển tư duy thì bên này cột mốc 
đứa trẻ mới có biểu tượng về sự vật, sang phía bên kia là hình thành được những khái niệm về sự vật. 
Bước vào trường phổ thông là một bước ngoặt trong đời sống trẻ. Là sự chuyển qua một lối sống mới và 
những điều kiện hoạt động mới, chuyển qua một địa vị mới trong xã hội, chuyển qua những quan hệ mới 
với người lớn và với bạn cùng tuổi. 
Ở độ tuổi mẫu giáo lớn là thời kỳ trẻ đang tiến vào bước ngoặt đó với sự biến đổi của hoạt động chủ đạo. 
Hoạt động vui chơi vốn giữ vị trí chủ đạo trong suốt thời kỳ mẫu giáo, nhưng vào cuối tuổi này, hoạt động 
99 
vui chơi không còn giữ nguyên dạng hoàn chỉnh của nó mà đang dần dần bị phá vỡ, biểu hiện ở sự xuất 
hiện nhiều trò chơi có luật, những yếu tố của hoạt động lao động, học tập bắt đầu nảy sinh để tiến tới giữ 
vị trí chủ đạo ở giai đoạn sau bước ngoặt 6 tuổi. Đây là sự kiện quan trọng các nhà giáo dục cần phải quan 
tâm, một mặt để giúp cho trẻ hoàn thiện những thành tựu phát triển tâm lý trong suốt thời kỳ mẫu giáo, 
mặt khác tích cực chuẩn bị cho trẻ có đủ điều kiện để làm quen dần với hoạt động học tập và cuộc sống ở 
trường phổ thông. 
2. Chuẩn bị trình độ sẵn sàng về mặt tâm lý cho trẻ vào lớp 1 phổ thông 
Việc chuẩn bị trình độ sẵn sàng về mặt tâm lý cho trẻ vào học tập ở lớp 1 phổ thông là nhiệm vụ quan 
trọng vào bậc nhất của giáo dục mẫu giáo, đặc biệt là độ tuổi mẫu giáo lớn. 
Không phải ngay từ khi bắt đầu đi học trẻ đã hình thành những nét tâm lý đặc trưng cho một học sinh. 
Những nét tâm lý này chỉ có thể được hình thành trong bản thân hoạt động học tập do ảnh hưởng của việc 
giáo dục và dạy học ở nhà trường phổ thông. Vì vậy chuẩn bị trình độ sẵn sàng về mặt tâm lý cho trẻ vào 
lớp một phổ thông tức là chuẩn bị những tiền đề của những nét tâm lý đặc trưng cho một học sinh phổ 
thông, đủ để trẻ có thể thích nghi bước đầu với điều kiện học tập có hệ thống ở trường phổ thông. Những 
tiền đề này bao gồm: 
Hình thành ở trẻ lòng mong muốn trở thành người học sinh nghiêm chỉnh. Lòng mong muốn này được 
biểu hiện vào cuối tuổi mẫu giáo ở đại đa số trẻ em. Trẻ bắt đầu ý thức được rằng việc tham gia vào trò 
chơi để được làm giống như người lớn chỉ là giả vờ, còn địa vị người lớn mà trẻ thấy mà mình có thể 
vươn tới được chính là địa vị của người học sinh, trong đó học tập trở thành một nhiệm vụ thật sự. Hầu hết 
trẻ trước ngày tới trường đều hồi hộp mong sao mau đến ngày đấy, cái hấp dẫn trẻ đến học ở trường phổ 
thông chính là đặc điểm bên ngoài của cuộc sống người học sinh như: Có cặp sách, hộp bút, có góc học 
tập, trống vào lớp, cô giáo cho điểm... sức hấp dẫn của những nét bề ngoài này cũng có ý nghĩa tích cực, 
nó biểu hiện khát vọng chung của trẻ là muốn được thay đổi địa vị của mình trong xã hội. 
Trình độ phát triển ý chí của trẻ phải đủ sức để có thể điều khiển hành vi của mình tuân theo nội quy của 
nhà trường và thực hiện những yêu cầu của giáo viên hay tập thể lớp đề ra, tự giác tuân theo quy định nơi 
công cộng. 
Tính chủ định của các hoạt động tâm lý cũng cần được tăng tiến để trẻ có thể kiên trì theo đuổi mục đích 
học tập và tiếp nhận những tri thức khoa học có hệ thống, vấn đề này có nhiều khó khăn với trẻ mới đến 
trưòng, dần dần trong quá trình học tập tính chủ định của các quá trình tâm lý sẽ được tăng tiến rõ rệt. 
Những thao tác trí tuệ như quan sát, trí nhớ, tư duy... cần phải đạt tới mức nhất định đủ để có thể lĩnh hội 
tri thức một cách dễ dàng. Đứa trẻ bước vào trường phổ thông cần phải có vốn tri thức nhất định về thế 
giới xung quanh, nhưng quan trọng không phải là số lượng tri thức mà là chất lượng của nó đó là những tri 
thức chính xác, rõ ràng và có hệ thống của các biểu tượng đã được hình thành ở trẻ. 
Cần khơi dậy ở trẻ lòng ham hiểu biết, muốn khám phá những điều mới lạ của thế giới tự nhiên và cuộc 
sống xã hội, khơi dậy ở trẻ hứng thú nhận thức tức là hứng thú đối với bản thân nội dung các tri thức thu 
nhận được ở các môn học. 
Trình độ phát triển ngôn ngữ được coi là một điều kiện hết sức quan trọng trong việc lĩnh hội các tri thức 
về khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội. Bởi vậy cuối tuổi mẫu giáo, việc sử dụng thông thạo tiếng 
mẹ đẻ được coi là một yêu cầu nghiêm túc. Trước khi đến trường trẻ phải biết nói năng mạch lạc, khi giao 
tiếp với người xung quanh biết sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện để tư duy. 
100 
Những phẩm chất của nhân cách giúp trẻ gia nhập vào tập thể lớp, tìm được vị trí của mình trong tập thể 
đó, có ý thức trách nhiệm khi tham gia vào hoạt động chung. Đó là động cơ xã hội hành vi, là cách ứng xử 
với những người xung quanh, là kỹ năng xác lập và duy trì mối quan hệ qua lại lẫn nhau giữa các bạn 
cùng tuổi được hình thành trong suốt thời kỳ mẫu giáo. 
Việc chuẩn bị sẵn sàng về mặt tâm lý cho trẻ đến trường phổ thông phải được thực hiện trong các trò chơi 
và các dạng hoạt động sáng tạo, chính trong các dạng hoạt động đó lần đầu tiên đã nảy sinh những động 
cơ xã hội tích cực của hành vi, hình thành hệ thống thứ bậc động cơ, hình thành và phát triển các hành 
động trí tuệ, phát triển kỹ năng thiết lập những quan hệ với bạn bè... Tất nhiên nó không diễn ra một cách 
tự nhiên mà phải có sự hướng dẫn thường xuyên của người lớn. 
Ngoài ra một số thuộc tính tâm lý và những tri thức, kỹ năng cần thiết được hình thành trong những hình 
thức dạy học đặc biệt thông qua các "tiết học". Trong các "tiết học" đó trẻ có dịp rèn luyện những kỹ năng 
cần thiết cho việc học tập ở trường phổ thông và nâng cao mức độ của tính chủ định trong các quá trình 
nhận thức. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Tâm lý học trẻ em - Nguyễn Ánh Tuyết. Tài liệu chính thức giáo viên Nhà trẻ - Mẫu giáo hệ sự phạm 
12 + 2. 
2. Tâm lý học trước tuổi học – Nguyễn Ánh Tuyết (Chủ biên), Phạm Hoàng Gia - NXB Giáo dục, Hà Nội, 
1992. 
3. Tâm lý học - A.V.Dapadôgiét - Phạm Minh Hạc - Đức Minh (dịch) - Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội - 
1974. 
4. Tâm lý học trẻ em - A.A.Luiblinkaia - Trương Anh Tuấn - Trần Trọng Thủy (dịch) - Sở Giáo dục 
Thành phố Hồ Chí Minh - 1978. 
5. Tâm lý học tuổi mầm non - Nguyễn Ánh Tuyết (Chủ biên) - Nguyễn Như Mai - Nguyễn Kim Thoa, 
ĐHSPI, Hà Nội, 1994. 
6. Tâm lý học - Phạm Minh Hạc (Chủ biên) - CĐSP. 
7. Tâm lý học - ĐHSP Hà Nội. 
8. Tâm lý học mẫu giáo - V.X.Mulchina. 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_tam_ly_hoc_tre_em_tu_lot_long_den_6_tuoi_nguyen_t.pdf