Hệ biểu tượng trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính - Từ lí thuyết phân tâm học
Tóm tắt: Sau 1986, trong xu thế hội nhập toàn cầu, trong việc tiếp nhận
những lí thuyết hiện đại, không thể phủ nhận vai trò của phân tâm học trong
đời sống văn học Việt Nam. Trong sáng tác, dấu ấn phân tâm học đậm nét ở
nhiều tác phẩm, trong đó tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính là một hiện tượng
tiêu biểu. Với một thế giới nhân vật đa phức, con người trong cái nhìn nghệ
thuật của nhà văn được bộc lộ ở tầng sâu vô thức, bản năng. Với một hệ
thống biểu tượng đa nghĩa, tiêu biểu là biểu tượng vô thức, biểu tượng tính
dục, biểu tượng văn hóa, nhà văn phân tâm, minh giải những phức cảm của
con người một cách sâu sắc. Cái nhìn nhân bản về con người khiến tiểu
thuyết Nguyễn Đình Chính có sức lan tỏa.
Bạn đang xem tài liệu "Hệ biểu tượng trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính - Từ lí thuyết phân tâm học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hệ biểu tượng trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính - Từ lí thuyết phân tâm học
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế ISSN 1859-1612, Số 04(40)/2016: tr. 5-13 HỆ BIỂU TƯỢNG TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH - TỪ LÍ THUYẾT PHÂN TÂM HỌC NGUYỄN THỊ LINH KA Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Quảng Nam LÊ THỊ HƯỜNG Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế Tóm tắt: Sau 1986, trong xu thế hội nhập toàn cầu, trong việc tiếp nhận những lí thuyết hiện đại, không thể phủ nhận vai trò của phân tâm học trong đời sống văn học Việt Nam. Trong sáng tác, dấu ấn phân tâm học đậm nét ở nhiều tác phẩm, trong đó tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính là một hiện tượng tiêu biểu. Với một thế giới nhân vật đa phức, con người trong cái nhìn nghệ thuật của nhà văn được bộc lộ ở tầng sâu vô thức, bản năng. Với một hệ thống biểu tượng đa nghĩa, tiêu biểu là biểu tượng vô thức, biểu tượng tính dục, biểu tượng văn hóa, nhà văn phân tâm, minh giải những phức cảm của con người một cách sâu sắc. Cái nhìn nhân bản về con người khiến tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính có sức lan tỏa. Từ khóa: phân tâm học, vô thức, tính dục, biểu tượng, biểu tượng văn hóa, lửa, rừng 1. MỞ ĐẦU Tiểu thuyết của Nguyễn Đình Chính không nhiều, nhưng với hai tác phẩm Ngày hoàng đạo và Online ba lô cho thấy nhà văn đã viết từ vùng lan tỏa của lí thuyết phân tâm học. Dấu ấn phân tâm học không ngẫu nhiên trong thế giới nghệ thuật tiểu thuyết mà nhà văn có ý thức vận dụng học thuyết này để khắc họa cũng như giải mã con người hiện đại. Với một thế giới nhân vật đa phức, con người trong cái nhìn nghệ thuật của nhà văn được bộc lộ ở tầng sâu vô thức, bản năng. Với một hệ thống biểu tượng đa nghĩa, nhà văn phân tâm, minh giải những phức cảm của con người một cách sâu sắc. 2. VIẾT TỪ ÁNH SÁNG PHÂN TÂM HỌC Một trong những vấn đề mấu chốt của học thuyết Freud trong mối quan hệ với văn học là ông đã chứng minh quá trình sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ không chỉ có ở ý thức, mà có ngay trong vô thức. Từ lí thuyết về vô thức, Freud xem tác phẩm văn học là kết quả của hoạt động thoả mãn những ham muốn bản năng và những xung động tinh thần của người nghệ sĩ; nghệ thuật như là kết quả của sự thăng hoa của sự ám ảnh vô thức con người. Tiếp nhận lí thuyết Freud, Nguyễn Đình Chính quan niệm: “viết bằng vô thức, viết nhằm truyền đạt cảm xúc của đời sống, lột tả những xao xuyến sâu thẳm của kiếp người” [10]. Theo quan niệm của Freud, viết là sự giải toả bản năng, giải toả ẩn ức. “Tác phẩm văn học trước hết là một giấc mơ. Nó phản ảnh những ham muốn vô thức” [9, tr. 12]. Bàn về tiểu thuyết, Nguyễn Đình Chính tâm sự: “Sáng tạo các tác phẩm nghệ thuật trong đó 6 NGUYỄN THỊ LINH KA – LÊ THỊ HƯỜNG có việc viết tiểu thuyết, suy cho cùng là một sự xả stress, giải toả những ẩn ức hết sức cá nhân Viết không phải nghĩ nhiều, hoàn toàn từ vô thức, để cho nhân vật dắt mình. Viết rất nhanh. Nhiều lúc ghi không kịp” [6]. Bàn về hoạt động sáng tác, theo Nguyễn Đình Chính: “Tác giả tiểu thuyết không thể sáng tạo ra một nhân vật thời đại phức tạp, đa chiều, đầy mâu thuẫn nếu anh thờ ơ với phân tâm học hoặc là nghiên cứu phân tâm học một cách cẩu thả” [3]. Điều đó cho thấy nhà văn đã có ý thức vận dụng lí thuyết phân tâm học trong hoạt động sáng tạo - đặc biệt là tiểu thuyết. Nhà văn quan niệm: “Mỗi người thường cất giấu trong chỗ sâu kín nhất của tâm hồn mình một cái gì về tình dục (thí dụ sự ham muốn, những màu sắc của khoái cảm, những mặc cảm về đạo đức...) mà chính họ cũng hơi hổ thẹn, chưa dám, hoặc chưa quen phơi bầy, chia sẻ... Tôi muốn bóc ra những lớp bí mật đó” [7]. Từ những quan niệm trên, Nguyễn Đình Chính đã tổ chức văn bản nghệ thuật đa dạng để phân tích tâm lí, bóc tách “cái tôi ẩn mật” (Kundera), đặc biệt qua hệ thống biểu tượng dày đặc trong tác phẩm. 3. HỆ THỐNG BIỂU TƯỢNG TỪ PHÂN TÂM HỌC 3.1. Biểu tượng vô thức Theo S.Freud, tận thẳm sâu nơi tâm hồn mỗi con người là cả một đại dương mênh mông, bao la, vô tận; ở đó, vô thức là chúa tể thống ngự. Từ quan niệm đa chiều về con người, nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính được soi rọi đến tận thấu đời sống bên trong, những vùng mờ vô thức; những mặc cảm, những giằng xé giữa cái ấy (id), cái tôi (ego) và cái siêu tôi (superego). Vùng vô thức thực sự trở thành đối tượng thẩm mỹ trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính qua một hệ thống biểu tượng được sử dụng đa nghĩa, nhằm giải mã vùng mờ tâm linh. Một trong những biểu hiện động của vô thức là nhiễu tâm, giấc mơ, hành vi bị lỡ, lỡ lời, nói nhịu... Với những hành vi sai lạc trong đời sống con người, Freud đã lí giải: Con người luôn bị ràng buộc bởi những quy chuẩn đạo đức mà chính họ đã đề ra. Đó là nguyên nhân làm nảy sinh mâu thuẫn giữa ham muốn mãnh liệt với giới hạn hành vi có thể thực hiện trên thực tế. Mâu thuẫn này là thường trực nên con người luôn phải đấu tranh nội tâm để dung hòa chúng sao cho vừa có thể thỏa mãn những ham muốn một cách hợp lý, vừa không vi phạm những chuẩn tắc đạo đức, tức là phải tạo ra sự cân bằng về mặt tâm lý. Song không phải lúc nào sự cân bằng đó cũng được đảm bảo. Từ đó nảy sinh những hành vi mà ngay cả bản thân người thực hiện nó cũng không hề hay biết. Nhiều nhân vật của Nguyễn Đình Chính rơi vào hành vi sai lạc không qua sự kiểm soát của ý thức (bác sĩ Cần, cha Tạc trong Ngày hoàng đạo, nhân vật Zê trong Onlineba lô). Những hành vi nhiễu tâm ở nhân vật bác sĩ Cần thể hiện rõ nét qua những bước chân vô định, đi mà không hiểu tại sao mình đi, hành động mà không hiểu tại sao mình hành động, “Ta chui vào cái ống tối om này ư. Ta chui vào để làm gì. Có việc gì mà chui vào cơ chứ” (Ngày hoàng đạo). Con người luôn lầm tưởng rằng mình có thể làm chủ được bản thân, tự hướng dẫn và điều khiển được chính mình, nhưng rồi rốt cuộc, vẫn bị bàn tay vô hình nào đó điều khiển trở lại. Bàn tay vô hình đó, theo S.Freud, là vô BIỂU TƯỢNG TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH 7 thức, chính vô thức điều khiển toàn bộ hoạt động có ý thức của con người mà con người có thể không hay biết. Freud từng khẳng định hành vi con người do vô thức mà thành. Như vậy cái hành động chạy trốn của bác sĩ Cần là do vô thức điều khiển. Ông chạy trốn nỗi sợ hãi, chạy trốn chính bản thân mình - một cái tôi [ego] dằn vặt, chông chênh trong sự trì níu giữa cái ấy [id] và cái siêu tôi [superego]. Trong Online... ba lô, nhân vật Zê luôn “nghe” một tiếng gọi mơ hồ từ vô thức, nó xui khiến hành động: “Tại sao lại cứ lên rừng. Không biết. Có một tiếng gọi xa xăm nào đó thôi thúc ta. Ban ngày thì tiếng gọi đó hú lên những tiếng lặng câm trong tâm trí. Ban đêm thì tiếng gọi đó bật lên thành những tiếng hú điếc tai ai oán thảm thiết trong giấc mộng” (Online... ba lô). Công thức “vô thức được cấu trúc như một ngôn ngữ” của phân tâm học Lacan giúp phần soi tỏ, lí giải trạng thái tinh thần phân lập của nhân vật tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính. Biểu tượng tiếng hú lặp lại nhiều lần, như một hành vi ngôn ngữ, do những dồn nén, ẩn ức. “Những tiếng lặng câm trong tâm trí” chỉ có thể là “tiếng hú” của vô thức, tiếng gào thét của ham muốn, của ám ảnh tuổi thơ. “Tết đến. Sương muối mịt mù lạnh tái tê. Đêm co ro trong chăn. Ngủ. Trong mơ đôi khi lại nghe thấy tiếng hú hoang vu từ rừng thẳm vọng về” (Online... ba lô). Tiếng hú ấy cứ ám ảnh, vô thức lên tiếng, trở thành tiếng gọi nguyên sơ, thống thiết, thôi thúc Zê khoác ba lô lên đường về với rừng. Bởi lẽ, về với rừng thẳm là về với kí ức tình yêu vừa khoái lạc vừa thống khổ của anh đối với người con gái bị ruồng bỏ giữa cộng đồng người. Sâu xa hơn, với Zê, đó là tiếng gọi của ám ảnh tuổi thơ, một tuổi thơ dữ dội. Theo Freud, những cảm xúc từ lúc còn là trẻ thơ, ở tuổi dậy thì hoặc giai đoạn đầu đời có khả năng lưu giữ, ám ảnh con người cho đến hết cuộc đời. Cũng theo Freud: “Khái niệm vô thức được suy ra từ lí thuyết về sự dồn nén” [4, tr. 35]. Tuổi thơ của Zê gắn liền với nhà sàn, với cây cỏ, thú rừng, với những tiếng hú ghê rợn trong lòng rừng sâu vọng về lúc nửa đêm, với bếp lửa bập bùng giữa nhà, với bình yên, và cả cái chết. Hai tuổi, mẹ địu sau lưng chạy loạn lên tận bản Nà Cốc heo hút rừng xanh, Zê tận mắt chứng kiến người mẹ thổ ra hàng đống máu vào thúng tro rồi chết, người làng làm phúc bó chiếu chôn đâu đó ở bìa rừng, được bà mế Thổn Mừ ẵm về nuôi. Bao nhiêu năm chen chúc giữa chốn đô thành miền xuôi náo nhiệt, những kỷ niệm thời thơ ấu gắn bó với rừng xanh tưởng đã mất đi. Nhưng thực tế nó vẫn tồn tại, dồn nén, lặn sâu vào vùng mờ vô thức, Zê cảm nhận được điều đó qua tiếng hú mà anh vẫn thường nghe thấy. “Tiếng hú hoang vu từ rừng thẳm vọng về” như một ham muốn, khát khao, “thèm muốn hít thật nhiều màn sương rừng tháng giêng hai lạnh lẽo và tinh khiết đến rùng mình rồi nằm sõng soài ra đất co quắp chân cẳng ôm choàng những búi rễ trám già sần sùi héo khô đang âm thầm rỏ nhựa”. Về rừng để được “ngồi trên rễ cây loằng ngoằng thân rắn. Thích nằm toài trên tảng đá rêu phong. Vểnh tai nghe tiếng gió hú và khịt mũi liên hồi ngửi mùi sương rừng Ta lội trong rừng giống như cái bào thai lội trong bụng mẹ. Trời ơi thanh thản quá chừng” (Online... ba lô). Hòa nhập với rừng hay Zê đang ôm lấy người mẹ tưởng tượng của mình và tận hưởng những giọt sữa trong lành tinh khiết mà suốt cả tuổi thơ Zê luôn luôn khao khát, kiếm tìm. 8 NGUYỄN THỊ LINH KA – LÊ THỊ HƯỜNG 3.2. Biểu tượng cái chết Theo Freud, bản năng chết là một trong hai bản năng chủ yếu của bộ máy tâm thần con người (bên cạnh bản năng sống). Theo đó, ông xác nhận chết là mục tiêu cuối cùng của sự sống, cái không sinh sống có trước cái sinh sống. Luồng xung năng vô thức này có tác động rất lớn đến hành vi và lối sống của con người. Bản năng chết làm cho con người luôn âu sầu, sợ hãi mọi thứ, hủy hoại thân thể hoặc muốn biến mất khỏi thế giới này. Nhân vật tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính luôn bị ám ảnh bởi cái chết, muốn chết, do mặc cảm tội lỗi, mặc cảm tàn phế (mặc cảm hoạn - Freud). Nhà văn xây dựng một loạt những biểu tượng để làm nổi bật phần bản năng chết như xác chết, hồn, ngôi mộ, nhà xác Bảng khảo sát tần số xuất hiện biểu tượng cái chết trong Ngày hoàng đạo Hình ảnh Tần số xuất hiện (lần) Hồn (linh hồn, hồn ma, hồn vía) 66 Mộ (ngôi mộ, mồ mả, nấm mồ, nhà mồ...) 146 Xác (xác chết, xác người, nhà xác) 154 Trong Ngày hoàng đạo, hồn xuất hiện khá nhiều, gắn với khả năng kì lạ của bác sĩ Cần, có thể nhìn thấy và chuyện trò với những hồn ma. Trong trạng thái u mê, nửa điên nửa tỉnh của căn bệnh tâm thần phân lập, bác sĩ Cần đã nhìn thấy hồn người chết. Trong quan niệm của các nhà phân tâm học, hồn là một trạng thái tâm lý, gắn với cái vô thức (Jung). Hồn là phần vô thức của con người được hiển lộ. Vô thức đã tìm được nơi trú ngụ của mình, để rồi khi hồn tự thú, sám hối, phân trần cũng chính là lúc vô thức của con người cất tiếng nói. Đó là phần chìm, phần khuất lấp, phần ẩn giấu bên trong mỗi người. Freud cho rằng bản năng chết có thể làm biến dạng sự sống. Một số nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính luôn bị ám ảnh bởi cái chết. Kể từ khi cuộc đời bác sĩ Cần “hoàn toàn rơi xuống và bị nhấn chìm trong nỗi khổ đau tuyệt vọng còn tối tăm hơn cả đáy địa ngục” thì “nhiều lúc ông đã định tự tử”. Với bản tính nhút nhát hèn yếu, ông không thể thỏa mãn cái ham muốn “được chết” của mình, do đó ông giải tỏa nó bằng một hình thức khác còn đau đớn hơn cả cái chết, tự hủy hoại bản thân bằng cách đi hoang, sống một cuộc đời vô nghĩa, không mục đích, sợ hãi mọi thứ xung quanh và chán ghét chính bản thân mình. Ông luôn có cảm giác buồn bã và cô đơn, nó giống như “luồng thuốc độc ngấm dần qua da qua xương thấm sâu vào tim phổi ruột gan khiến ông bải hoải tuyệt vọng chỉ muốn chết đi cho xong đời” (Ngày hoàng đạo). Đối với bác sĩ Cần, bản năng sống trong ông quá yếu ớt, quá mờ nhạt trong khi bản năng chết thì mạnh mẽ, hoàn toàn chiếm ưu thế, làm biến dạng sự sống. Đặc biệt, với cha Tạc, mặc cảm tội lỗi luôn vò xé trong cuộc đấu tranh giữa đạo và đời. Tâm trạng dằn vặt ấy đã đẩy cha Tạc tới nhu cầu chết như cách tự tìm lối thoát cho mình. Nghiên cứu phân tâm học và tôn giáo, E. Fromm - nhà phân tâm học, nhà tâm lý học xã hội người Đức đã lí giải mặc cảm tội lỗi nảy sinh giữa tôn giáo và những ham muốn bản năng: “Tội lỗi chủ yếu không phải là tội chống lại thượng đế mà là tội chống lại chính bản thân” [5, tr.130]. Nguyễn Đình Chính xây dựng thành công kiểu nhân vật mặc cảm vì tội chống lại chính bản thân. Cha Tạc luôn ý thức được bổn phận của một BIỂU TƯỢNG TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH 9 cha đạo, đồng thời cũng luôn cất giấu, dồn nén những ham muốn bản năng và tìm mọi cách triệt tiêu nó. Nhưng thực tế nó không hề mất đi mà vẫn âm thầm tồn tại trong vô thức, chờ thời cơ thuận lợi là bùng phát. Thời cơ đó chính là lúc cha Tạc nhìn thấy những pho tượng cụt đầu đầy gợi dục. Trong tâm hồn cha Tạc luôn có sự dằn xé, giao tranh giữa một cha Tạc nguyện trọn đời dâng mình cho nước chúa, và một cha Tạc vật vã những thèm khát dục vọng, để rồi không thể vượt qua được những cám dỗ của bản năng, cha Tạc sống trong mặc cảm tội lỗi, tự cảm thấy xấu hổ với đức Chúa trời và xấu hổ với chính bản thân mình. Cái mặc cảm phạm tội đó cứ đeo bám, dằn vặt và lớn dần lên trong tâm hồn mỏng manh dễ vỡ của cha. Càng lo sợ mình phạm tội thì cha lại càng vướng vào những tội lỗi mà một cha đạo không được phép phạm phải. Những phức cảm giằng xé đã đẩy cha vào ngõ cụt tinh thần, tạo điều kiện cho bản năng chết trỗi dậy. 3.3. Biểu tượng phồn thực Tín ngưỡng phồn thực là một hiện tượng tôn giáo phổ biến trong đời sống nhân loại từ thuở xa xưa. Nó biểu hiện trước hết ở tục thờ cúng sinh thực khí. “Chính sự cấm kị đi kèm với nỗi khát khao quả cấm, sự bất cập của lý trí nguyên thủy đã mang lại một ánh sáng khác thường cho các cơ quan sinh sản, làm thiêng hóa chúng” [8, tr.65]. Nguyễn Đình Chính đã sử dụng những siêu mẫu có tính chất hoài niệm phồn thực để khai mở phần bản năng tính dục. Đó là hình ảnh linga, yoni, sự sinh nở, hình ảnh về những bộ phận nữ giới - “bức tượng sành cụt đầu đàn bà có bộ mông to tướng tròn vo như cái chum còn đàn ông thì cứ ưỡn bộ phận sinh dục ra méo mó cứng đờ chẳng khác gì những vòi ấm tích sứt sẹp bị nung quá lửa” (Ngày hoàng đạo). Những biểu tượng phồn thực xuất hiện với tần số lớn nhằm phát lộ phần bản năng gốc của con người. Đa phần nhân vật của Nguyễn Đình Chính đều hành động theo sự chi phối của bản năng gốc, bản năng tính dục. Nhà văn tập trung khám phá bản năng này ở nhân vật như một thuộc tính tất yếu bất kể tầng lớp, giới tính, tuổi tác. Theo Freud, tính dục là một trong những ẩn ức quan trọng, là bản năng sinh lý thuộc về bản thể tự nhiên nhất của con người, nếu nhu cầu tính dục không được thỏa mãn thì con người sẽ bị ám ảnh đến thành bệnh tật. Vì vậy, việc đưa hình tượng con người với bản năng tính dục vào văn học sẽ chạm vào cõi sâu tâm hồn, góp phần phản ánh mọi góc khuất bên trong, sâu kín của con người, biểu hiện khát vọng hạnh phúc chính đáng mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Tiểu thuyết Online ba lô chủ yếu viết về cuộc sống miền núi; nhưng trong những mạch liên văn bản; số phận người lính sau chiến tranh được nhà văn đề cập qua góc nhìn bản năng. Kiểu nhân vật chấn thương tính dục xuất hiện trong tiểu thuyết không nhiều nhưng gây ấn tượng sâu sắc và đậm chất nhân bản. Cô gái Thổ bị xua đuổi đã dâng hiến sự trinh bạch của mình, đón chờ một cuộc sống hạnh phúc nhưng niềm hạnh phúc tinh thần chưa đạt đã vùi chôn thân xác trong cơn núi lỡ. Người lính trở về từ chiến tranh, thương tật khiến anh mang mặc cảm khiếm khuyết/hoạn; để rồi luôn mơ những giấc mơ tình dục. Anh thương binh Bàn Kỳ Páo bị mảnh cối ”chém đứt phăng bộ đồ nghề. Cụt chim” (Online balô). Những ham muốn, khát khao được làm một con đực đúng nghĩa không bao giờ được thỏa mãn trên thực tế, vì vậy, Bàn Kỳ Páo luôn có 10 NGUYỄN THỊ LINH KA – LÊ THỊ HƯỜNG những giấc mơ ân ái, hoan lạc với hầu hết những người phụ nữ anh nhìn thấy lúc tỉnh. Phân tâm học gọi đây là một hình thức thỏa mãn thay thế bằng giấc mơ. Con người dục tính trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính hội đủ mọi cung bậc của đời sống bản năng. Với một mật độ dày đặc những biểu tượng tính dục (ngoại trừ một số trường đoạn miêu tả quá tỉ mỉ chi tiết đến độ vượt ngưỡng), nhìn chung tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính ám ảnh người đọc với những cảm xúc khó diễn tả bằng lời, nó day dứt nhưng sâu sắc và nhân bản. Bởi đằng sau đời sống bản năng được phơi bày, bộc lộ không che dấu là nỗi buồn thương, day dứt về những giá trị bị mai một; những xót xa phận người. Nhân vật của Nguyễn Đình Chính cuốn theo những hoạt động giường chiếu, nhưng không chỉ có thế, nhà văn đề cập sâu sắc vấn đề số phận con người trong và sau chiến tranh, vẻ đẹp nguyên sơ của núi rừng và những mất mát trong quá trình phố thị hóa; vấn đề nghệ thuật chân chính, đời sống của người trí thức; mặt sau của cuộc sống con người 3.4. Biểu tượng văn hóa Theo C.G. Jung, tác phẩm văn học là của cá nhân nghệ sĩ nhưng nó lại biểu đạt cái vô thức của nhân loại, được cấu trúc hóa bằng những siêu mẫu. Với G. Bachelard, siêu mẫu là các hình tượng được tạo dựng vượt lên hiện thực, gắn liền với những giấc mơ nguyên thuỷ. Ông cho rằng, bản thân con người thuộc về bốn chất liệu (Nước, Lửa, Đất, Không khí). Trong quá trình tìm hiểu tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính, chúng tôi nhận thấy nhà văn đã sử dụng nhiều siêu mẫu Lửa, Nước, Rừng mang tính biểu tượng trong đời sống người Việt từ cổ sơ đồng thời trượt nghĩa đến hôm nay. Bảng khảo sát tần số xuất hiện của các biểu tượng Lửa, Nước, Rừng Biểu tượng Tần số xuất hiện trong hai tác phẩm Ngày hoàng đạo Online ba lô Lửa 169 65 Nước 405 23 Rừng 278 174 Gaston Bachelard lấy lửa làm đối tượng hàng đầu để phân tâm và coi lửa “như một thực thể sống trong tiềm thức và vô thức của con người” [9]. Ngoài ý nghĩa vật chất, Lửa (Feu) tượng trưng cho nhiệt huyết (nhất là tình yêu và sự giận dữ), cho tinh thần (ngọn lửa tinh thần). Lửa còn là “biểu tượng thần thánh chủ yếu của đạo Thiện”, bởi nó biểu tượng cho “sự tẩy uế và tái sinh”. Bên cạnh mặt tích cực tượng trưng cho “hoạt động đem lại sự sinh sản dồi dào, tẩy uế và soi sáng”, Lửa còn thể hiện mặt tiêu cực: “nó làm tối và chết ngạt bởi khói của nó; nó đốt cháy, tàn phá và thiêu huỷ: lửa của những dục vọng, của sự trừng phạt, của chiến tranh” [1, tr. 548]. Trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính, Lửa xuất hiện dày đặc với những biến thể không gian và trạng thái phong phú với ý nghĩa biểu tượng đa tầng: (1) Lửa của nhục dục, của đam mê, đánh thức bản năng dục tính. Nhân vật của Nguyễn Đình Chính luôn có ngọn lửa libido bên trong; đàn bà (Kim Thoa, bà Nhàn): “Tôi chỉ nhớ hình như có một ngọn lửa đang đốt cháy cổ họng tôi, đốt cháy hai bầu vú của tôi và BIỂU TƯỢNG TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH 11 đốt cháy háng tôi”; và cả đàn ông (bác sĩ Cần): “Có một ngọn lửa đang phun phì phì trong người ông”. (2) Lửa của lòng hận thù, ghen tỵ (y sĩ Sự, Thạch gà gáy). (3) Lửa tái sinh, truyền sự/sức sống (những pho tượng được nung trong lửa). Trong số các biểu tượng văn hoá nhân loại, Nước được biết như một siêu mẫu có giá trị phổ quát nhất trong hầu hết các nền văn hoá của mỗi dân tộc. Trong quan niệm của Bachelard, Nước là yếu tố gây ra những tưởng tượng sâu xa nhất trong con người về sự sống và sự chết. Trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính, từ cổ mẫu mẹ Nước đã sản sinh ra những cổ mẫu con, vừa mang đặc tính, ý nghĩa của mẹ Nước, lại vừa kiến tạo nên những trường nghĩa biểu tượng mới: Nước trước hết biểu tượng của nguồn sống dồi dào cho con người (cuộc sống của hai vợ chồng Mùi cá ngạnh, những người dân làng Lũng Bãi sống gần sông) và sự hồi sinh của cây cỏ sau những cơn hạn hán khốc liệt (những cơn mưa tưới mát cho cây cối). Nước mang biểu tượng hủy diệt, tàn phá. Cơn mưa bão kèm theo sóng thần đã nhấn chìm làng Lũng Bãi, cuốn trôi mọi sự sống, làng nghèo lại càng nghèo hơn. Biểu tượng Nước còn mang ý nghĩa thanh tẩy, hoá giải và tái sinh. Những giọt nước mắt được chắt chiu từ cuộc sống khốn khổ, thiệt thòi của bác sĩ Cần và Thương Ơi đã xoa dịu và hoá giải mọi tội lỗi, mặc cảm: “Hai người thi nhau khóc âm ĩ, tiếng khóc gào lẫn trong tiếng chim kêu ríu rít. Ba ngày hôm sau khu nghĩa trang có chôn ngôi mộ ông y sĩ Nguyễn Văn Sự bay sạch mùi thối khắm. Bảy ngày sau thì những vạt cỏ chết héo cháy đen đã tươi tốt trở lại đua nhau trổ mầm non xanh mơn mởn Môi trường ở góc nghĩa trang này đã được thanh lọc trở lại bình thường” (Ngày hoàng đạo). Nước biển cuốn cha Tạc và cô gái Thương Ơi dạt vào đảo Kình, nơi mà họ sẽ được thanh lọc, hóa giải; để rồi cha Tạc đi theo tiếng gọi của Chúa, còn cô gái Thương Ơi rơi vào “hố đen tâm linh”, trở thành những mảnh thiên sứ bay khắp bốn phương trời. Nếu như Lửa, Nước xuất hiện chủ yếu trong Ngày hoàng đạo, thì biểu tượng Đất/Rừng lại chiếm vị trí chủ đạo trong Online ba lô như một ý hướng nghệ thuật của Nguyễn Đình Chính. Trong quan điểm của các nhà phân tâm học hiện đại, rừng tượng trưng cho vô thức bởi sự tối tăm và sự bắt rễ ăn sâu vào lòng đất đá. “Những nỗi khiếp sợ rừng cũng như những nỗi khiếp sợ kinh hoàng, theo Jung, đều được gợi lên bởi sự khiếp sợ của những phát hiện vô thức” [1, tr. 787]. Với tần số xuất hiện dày đặc, trong 211 trang sách, hầu như trang nào cũng có hình ảnh rừng. Rừng xuất hiện với nhiều dạng thức: núi rừng, sông rừng, bìa rừng, sương rừng, cây rừng, măng rừng, cửa rừng, đất rừng, cỏ rừng, gió rừng, nấm rừng, lá rừng, thú rừng, mùi rừng, bụi rừng, vùng rừng, ma rừng Rừng gắn với cuộc sống sinh hoạt, là môi sinh nuôi sống con người (vào rừng hái củi, lội rừng kiếm thức ăn), cũng là nơi tạo nên bản tính con người: thích tự do, ngây thơ, phóng khoáng, lạc quan. Rừng cùng những bí ẩn diệu kỳ của nó gợi lên vùng tâm linh, vô thức trong sâu thẳm bản thể mỗi người, không phải ai cũng có thể hiểu được: “Không thể nào hiểu được mối quan hệ rằng rịt, bí ẩn của thằng bạn người Thổn Mừ với rừng. Đã cố hiểu. Nhưng vô ích. Bởi vì có hỏi thì ngay chính thằng Páo cũng không 12 NGUYỄN THỊ LINH KA – LÊ THỊ HƯỜNG hiểu. Đó là thế giới tâm linh quái lạ và bí mật được cất giấu lưu truyền từ đời này qua đời khác. Nó tạo nên tâm hồn và tính cách người Thổn Mừ” (Online ba lô). Với Zê, từ thành phố náo nhiệt, ồn ào lên rừng là hành trình về cội - đất Mẹ linh thiêng, là chuyến hành hương về miền đất tâm linh huyền nhiệm để xoa dịu nỗi đau, thanh lọc tâm hồn, quên đi nỗi sợ hãi, để Được - Là - Chính - Mình. Rừng chính là vùng vô thức, tiếng gọi của rừng cũng chính là tiếng gọi nguyên sơ, xa xăm của bản thể luôn ám ảnh, nhắc nhở Zê hãy quay về với chính mình. 4. KẾT LUẬN Có thể nói, trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chính, hệ thống biểu tượng không là phương tiện mà là một thành tố trong tư duy nghệ thuật của nhà văn. Một mặt, nhà văn phải tuân theo vô thức tập thể để đảm bảo tính liên tục của truyền thống, tính liên văn bản hoá, mặt khác phải chống lại vô thức để tạo ra được đứt đoạn, có được sáng tạo cá nhân, làm nên bản lĩnh, cá tính và phong cách của nghệ sĩ. Hơn nữa, nhìn từ lí thuyết phân tâm học, hệ thống biểu tượng phong phú là một cách thức để phân tâm, khai mở thế giới phức cảm của con người. Dưới ánh sáng của học thuyết phân tâm học, Nguyễn Đình Chính thể hiện nỗ lực của nhà văn trong việc tiếp cận, khám phá, luận giải hiện thực cuộc sống và con người trong tính đa chiều, phức tạp. Đôi lúc, cái nhìn về con người của nhà văn có phần thiên lệch, quá thiên về tính dục bản nguyên. Tuy vậy, đằng sau những trang tiểu thuyết của nhà văn là ý nghĩa xã hội lớn lao. Nhờ vậy, tác phẩm của ông không phải là sự minh họa đơn thuần cho lý thuyết, mà đó là những sinh thể nghệ thuật có sức lan tỏa mạnh mẽ giàu tính nhân bản. Tiểu thuyết Nguyễn Đình Chính là “sự chuyển đổi một lý thuyết tâm lý học về vô thức hay còn gọi là phân tâm học của nhà khoa học Sigmund Freud sang văn học” [2, tr. 394]. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (2002). Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, nhiều người dịch, NXB Đà Nẵng. [2] Nguyễn Đình Chính (2006). Ngày hoàng đạo, Tập 2, NXB Văn học, Hà Nội. [3] Lý Đợi (2006). Nguyễn Đình Chính - sẽ chẳng có ma nào đọc Ngồi!, truy cập ngày 25/4/2016. [4] Sigmund Freud (Thân Thị Mận dịch) (2015). Cái tôi và cái nó, NXB Tri thức, Hà Nội. [5] Erich Fromm (2012). Phân tâm học và tôn giáo, NXB Từ điển bách khoa. [6] Hằng Nga (2013). Bên cạnh tiểu thuyết Đêm thánh nhân, truy cập 25/4/2016. [7] Khôi Nguyên (2015), Khuôn mẫu cũ về tình yêu đã chật, truy cập 25/4/2016. [8] Đỗ Lai Thúy (1999). Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. [9] Đỗ Lai Thúy (biên soạn) (2004). Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. [10] Đỗ Minh Tuấn (2007). Nguyễn Đình Chính, Kẻ mang bố ra đùa, truy cập 25/4/2016. BIỂU TƯỢNG TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH 13 Title: SYMBOL SYSTEM IN NGUYEN DINH CHINH’S NOVEL - A LOOK BY PSYCHOANALYSIS THEORY Abstract: Besides the trend of global integration after 1986, along with approaching of the modern theory, psychoanalysis has still played a very important role in Vietnamese literary life. In writing, psychoanalysis is reflected clearly in many works; especially, Nguyen Dinh Chinh's novels are typical illustration. With a complex multi-character world, people in the artistic vision of the writer are revealed in the deeply unconscious and instinctive. With a multi- meaning symbol system; typically unconscious symbol, sexual symbol and cultural icon, psychoanalysis writers explain the complex of human feelings deeply. By a very humanization perspective, Nguyen Dinh Chinh’s novels have become very common and pervasive. Keywords: psychoanalysis, unconscious, sex, symbol, culture icon, fire, forest ThS. NGUYỄN THỊ LINH KA Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Quảng Nam ĐT: 0973 301 744, Email: linhka.vn@gmail.com TS. LÊ THỊ HƯỜNG Khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế (Ngày nhận bài: 20/5/2016; Hoàn thành phản biện: 25/5/2016; Ngày nhận đăng: 29/5/2016)
File đính kèm:
- he_bieu_tuong_trong_tieu_thuyet_nguyen_dinh_chinh_tu_li_thuy.pdf