Hiện thực bộ nhân số phức dấu chấm động cho tính toán FFT dựa trên thuật toán CORDIC xoay góc thích nghi

Trong bài báo này, bộ nhân số phức chuyển

đổi nhanh Fourier dấu chấm động độ chính xác

đơn được đề xuất. Kiến trúc bộ nhân được thiết

kế dựa trên thuật toán CORDIC góc xoay thích

nghi. Chip FPGA Stratix IV của Altera và tổng

hợp SOTB công nghệ 65 nm được sử dụng để xây

dựng và kiểm tra thiết kế. Trên chip FPGA, tần

số hoạt động của bộ nhân là 103,9 MHz, tốc độ

thực thi hệ thống là 16.966 triệu mẫu trên giây

(Mega-Sample per second – MSps) và tài nguyên

được sử dụng là 7,747 ALUTs và 625 thanh ghi.

Mặt khác, tổng hợp ASIC sử dụng 16,858

standard cells trên 86,718µm2 diện tích chip, đạt

được tần số là 166 MHz và tốc độ hệ thống là

27,107 MSps. Độ chính xác của kết quả đạt được

với sai số bình phương tối thiểu (Mean-SquareError – MSE) là 1.133E-10 và khoảng 26 phần

mỗi triệu (part-per-million – ppm) tỉ lệ lỗi tối đa.

pdf 10 trang yennguyen 3320
Bạn đang xem tài liệu "Hiện thực bộ nhân số phức dấu chấm động cho tính toán FFT dựa trên thuật toán CORDIC xoay góc thích nghi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện thực bộ nhân số phức dấu chấm động cho tính toán FFT dựa trên thuật toán CORDIC xoay góc thích nghi

Hiện thực bộ nhân số phức dấu chấm động cho tính toán FFT dựa trên thuật toán CORDIC xoay góc thích nghi
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 20, SOÁ T4- 2017 
 Trang 187 
Hiện thực bộ nhân số phức dấu chấm động 
cho tính toán FFT dựa trên thuật toán 
CORDIC xoay góc thích nghi 
• Võ Thị Phương Thảo 
• Trương Thị Như Quỳnh 
• Hoàng Trọng Thức 
• Lê Đức Hùng 
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-HCM 
(Bài nhận ngày 26 tháng 12 năm 2016, nhận đăng ngày 30 tháng 10 năm 2017) 
TÓM TẮT 
Trong bài báo này, bộ nhân số phức chuyển 
đổi nhanh Fourier dấu chấm động độ chính xác 
đơn được đề xuất. Kiến trúc bộ nhân được thiết 
kế dựa trên thuật toán CORDIC góc xoay thích 
nghi. Chip FPGA Stratix IV của Altera và tổng 
hợp SOTB công nghệ 65 nm được sử dụng để xây 
dựng và kiểm tra thiết kế. Trên chip FPGA, tần 
số hoạt động của bộ nhân là 103,9 MHz, tốc độ 
thực thi hệ thống là 16.966 triệu mẫu trên giây 
(Mega-Sample per second – MSps) và tài nguyên 
được sử dụng là 7,747 ALUTs và 625 thanh ghi. 
Mặt khác, tổng hợp ASIC sử dụng 16,858 
standard cells trên 86,718µm2 diện tích chip, đạt 
được tần số là 166 MHz và tốc độ hệ thống là 
27,107 MSps. Độ chính xác của kết quả đạt được 
với sai số bình phương tối thiểu (Mean-Square-
Error – MSE) là 1.133E-10 và khoảng 26 phần 
mỗi triệu (part-per-million – ppm) tỉ lệ lỗi tối đa. 
Từ khóa: bộ nhân số phức dấu chấm động, FFT, CORDIC xoay góc thích nghi 
MỞ ĐẦU 
Biến đổi Fourier nhanh (Fast Fourier 
Transform–FFT) là thuật toán biến đổi nhanh của 
biến đổi Fourier rời rạc (Discrete Fourier 
Transform–DFT). Năm 1965, đồ thị tín hiệu 
(Signal Flow Graph–SFG) đầu tiên của FFT được 
phổ biến rộng rãi bởi Cooley và Tukey [1]. Từ 
đó, FFT được sử dụng hầu hết trong các ứng 
dụng khác nhau của xử lý tín hiệu số và truyền 
thông. Thuật toán FFT và biến đổi ngược của nó 
(Inverse Fast Fourier Transform – IFFT) là thành 
phần cốt lõi quan trọng trong các hệ thống truyền 
thông hiện đại, đặc biệt là trong mạng không dây 
và ứng dụng đa phương tiện như là WiMAX [2], 
3GPP-LTE [3], MIMO [4] và CDMA [5]. Hơn 
nữa, FFT còn là đơn vị xử lý trung tâm trong 
thiết kế của hệ thống chia tần số trực giao 
(Orthogonal Frequency Division Multiplexing – 
OFDM) [6]. 
Điểm mạnh của kiến trúc FFT dấu chấm tĩnh 
là tốc độ nhanh và tài nguyên tối ưu. Tuy nhiên, 
việc bỏ đi các bit thấp (Least Significant Bits – 
LSBs) dẫn đến lỗi toán học trong dấu chấm tĩnh 
(Fixed-point Arithmetic Error – FAE) [7], đó là 
lỗi giữa hệ thống dấu chấm tĩnh và hệ thống dấu 
chấm động. Trong một số hệ thống không cần 
tính toán có độ chính xác cao thì FAE có thể 
không quan trọng. Thí dụ, có thể triển khai mạch 
FFT dấu chấm tĩnh trong các hệ thống âm thanh, 
các phương pháp nén lossy, các hệ thống truyền 
thông như DVB-T/DVB-H [8] và WLAN [9]. 
Tuy nhiên, ngày càng nhiều ứng dụng FFT không 
những yêu cầu độ chính xác cao mà còn cần miền 
dữ liệu hoạt động lớn. Vì vậy, thiết kế FFT dấu 
chấm tĩnh gặp khó khăn trong việc khắc phục 
những vấn đề đó. Vì thế, ngày nay các thiết kế 
FFT dấu chấm động có xu hướng phát triển phổ 
biến hơn, thí dụ, trong hệ thống ra-đa như ra-đa 
Science & Technology Development, Vol 20, No.T4-2017 
Trang 188 
khẩu độ mặt đất (Synthetic Aperture Radar – 
SAR) [10] và xử lý ảnh trong y khoa như hệ 
thống chụp cắt lớp quang Fourier (Fourier – 
Domain Optical Coherence Tomography – FD-
OCT) [11]. Bên cạnh đó, dấu chấm động đã trở 
thành một yêu cầu không thể thiếu cho việc tính 
toán FFT số điểm lớn [12]. 
Thiết kế FFT dấu chấm động có thể được 
chia thành hai kiến trúc chính: FFT phân luồng 
liên tục (Continuous Flow FFT – CF-FFT) [6], 
[13] và bộ vi xử lý dựa trên bộ nhớ (Memory-
Based Processor – Mem-FFT) [14, 15]. Các thiết 
kế CF-FFT có ưu thế về tốc độ nên được triển 
khai phổ biến hơn Mem-FFT. Tuy nhiên, chúng 
có nhược điểm là tốn nhiều tài nguyên, đặc biệt 
khi triển khai mạch CF-FFT với số điểm lớn dẫn 
đến khó thực hiện trong thiết kế VLSI. Ngược lại, 
các mẫu thiết kế Mem-FFT chủ yếu dựa trên việc 
sử dụng bộ nhớ nên cần các nguồn tài nguyên 
logic. Do đó, các thiết kế Mem-FFT rất có lợi thế 
trong thiết kế VLSI và rất dễ tương thích với các 
hệ thống có tích hợp sẵn CPU. Tuy nhiên, nhược 
điểm của Mem-FFT chính là độ trễ quá lớn dẫn 
đến tốc độ xử lý của hệ thống chậm. Một hệ 
thống Mem-FFT điển hình gồm 1 bộ cộng trừ và 
nhân chéo (Butterfly – BF) đơn vị, 1 đơn vị tạo 
địa chỉ, 1 bộ điều khiển đơn vị và 1 vài khối bộ 
nhớ. Thiết kế CF-FFT điển hình N điểm có 
log2(N) tầng pipeline với mỗi tầng gồm có 1 BF 
đơn vị và 1 số thanh ghi dịch. Mặc dù kiến trúc là 
khác nhau nhưng hạn chế về tốc độ của các thiết 
kế BF đều ở bộ nhân (Twiddle Factor – TF). TF 
cũng là nhân tố chính dẫn đến sự chính xác của 
các hệ thống FFT. 
Kiến trúc TF có thể được chia thành 2 thiết 
kế chính: thiết kế bảng tra (Look Up Table – 
LUT) và tính toán trực tiếp. Trong thiết kế TF 
dựa trên bảng tra LUT, các hằng số lượng giác đã 
tính toán trước và được lưu trữ trong bộ nhớ chỉ 
đọc (Read Only Memory – ROM), chúng được 
truy xuất ra để sử dụng khi thích hợp. Một vài thí 
dụ về bảng tra LUT được thực hiện trong [16], 
[17] và [18]. Ưu thế lớn nhất của kiến trúc LUT 
là tốc độ cao và độ trễ thấp trong khi yêu cầu về 
nguồn tài nguyên là tương đối nhỏ. Tuy nhiên, 
trong việc triển khai FFT số điểm lớn thì thiết kế 
LUT cần một ROM có dung lượng quá lớn dẫn 
đến việc thiết kế mạch tích hợp lớn (Very-Large-
Scale Integration – VLSI) sẽ trở nên khó khăn 
hơn. Để khắc phục những vấn đề trên, nhiều công 
trình nghiên cứu đã được đề xuất. Thí dụ, H. Y. 
Lee và I. C. Park [19] đã đề xuất một thuật toán 
phân hủy cây nhị phân để giảm thiểu số lượng bộ 
nhân được lưu trữ trong ROM. R. Radhouane 
cùng các cộng sự [13] đưa ra một phương pháp 
để tối ưu bộ nhớ cho CF-FFT. Một ‘bộ nhớ truy 
cập tối ưu hóa’ được mô tả bởi X. Xiao cùng các 
cộng sự [20] để đọc dữ liệu và bộ nhân sử dụng 
kiến trúc bộ nhớ 4 bank. S. Mou và X. Yang [17] 
đã phân tích và tối ưu độ trễ đọc sau khi viết 
(Read-After-Write – RAW) trong hệ thống vi xử 
lý FFT. Tuy nhiên, các kĩ thuật này đã không đưa 
ra một giải pháp cuối cùng mà chỉ đánh đổi giữa 
dung lượng ROM và độ chính xác hoặc tốc độ 
thực thi. Vì những khó khăn đó, kiến trúc LUT 
chỉ phù hợp với các ứng dụng FFT ít điểm. Còn 
trong các ứng dụng cần tính FFT nhiều điểm thì 
giải pháp là tính toán bộ nhân trực tiếp. 
Trong phương pháp tính toán bộ nhân trực 
tiếp, thuật toán xoay tọa độ véc-tơ trong hệ thống 
tính toán số (Coordinate Rotation DIgital 
Computer – CORDIC) đã sớm được đề xuất. Cho 
đến nay, bộ vi xử lý FFT dựa trên CORDIC vẫn 
được nghiên cứu và phát triển [14, 15]. Thuật 
toán CORDIC truyền thống có tác dụng lớn trong 
việc thực thi bộ nhân dấu chấm tĩnh vì nó làm 
giảm độ phức tạp của phép nhân thành phép dịch 
và phép cộng. Tuy nhiên, phương pháp này 
không thích hợp cho thiết kế bộ nhân dấu chấm 
động vì phép cộng của dấu chấm động không hề 
đơn giản. Mạch nhân dựa trên CORDIC truyền 
thống trong FFT dấu chấm động tốn nhiều tài 
nguyên và tốc độ thấp. Để khắc phục tình trạng 
trên, phương pháp CORDIC mới có độ chính xác 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 20, SOÁ T4- 2017 
 Trang 189 
tương đương nhưng có độ hội tụ nhanh hơn được 
đề xuất. Hạn chế chính của phương pháp 
CORDIC truyền thống là số bước lặp. Có nhiều 
phương pháp được đề xuất với mục đích giảm số 
vòng lặp mà vẫn giữ được độ chính xác. Y. H. 
Hu cùng các cộng sự [21] đã đề xuất một phương 
pháp hiệu quả gọi là ‘Angle Recoding CORDIC’ 
(ARC). Thuật toán ARC cắt giảm tối thiểu 50 % 
tổng số vòng lặp. Ý tưởng của ARC là chỉ chọn 
một vài góc để xoay thay vì xoay tất cả các góc. 
Vì thế hệ thống có thể thực hiện nhanh hơn và 
thậm chí có độ chính xác cao hơn. Nhiều ứng 
dụng triển khai thuật toán ARC đã được trình bày 
trong [22, 23]. Hơn nữa, bài viết của Hong-Thu 
Nguyen cùng các cộng sự đã đề xuất một phương 
pháp thích nghi của ARC (Adaptive method of 
ARC – AARC) [24] dựa trên dữ liệu dấu chấm 
động có độ chính xác đơn. Thuật toán AARC đã 
được chứng minh thực nghiệm là ít tốn tài 
nguyên, độ trễ thấp và chính xác cao [24]. Dựa 
trên thuật toán AARC, thiết kế bộ nhân ROM-
free đã được đề xuất trong bài báo này. Bộ nhân 
dựa trên AARC được xây dựng và chứng minh 
trên chip FPGA Stratix IV của Altera và tổng hợp 
SOTB công nghệ 65 nm. Kết quả thực nghiệm 
cho thấy kiến trúc đề xuất có tần số chạy trên 
chip FPGA là 103,9 MHz và phân tích trên ASIC 
là 166 MHz. Kết quả về diện tích chip là 7.747 
ALUTs và 625 thanh ghi trên chip FPGA và 
16,858 standard cells trên 86,718 µm2 diện tích 
chip SOTB. Độ chính xác của mạch được kiểm 
tra bằng cách triển khai thuật toán sai số bình 
phương tối thiểu và phần mỗi triệu tỉ lệ lỗi tối đa. 
Kết quả độ chính xác là 1.133E−10 MSE và 
khoảng 26 phần mỗi triệu tỉ lệ lỗi tối đa. Tốc độ 
thực thi tương ứng trên chip FPGA và tổng hợp 
ASIC là 16,966 MSps và 27,107 MSps. 
THUẬT TOÁN CORDIC XOAY GÓC 
THÍCH NGHI (AARC) 
Tính toán CORDIC dựa trên các vòng lặp 
của ba tham số X, Y, Z như trong công thức lặp 1. 
𝑥𝑖+1 = 𝑥𝑖 − 𝑠𝑖𝑔𝑛(𝑧𝑖)𝑦𝑖2
−𝑖 
 𝑦𝑖+1 = 𝑦𝑖 + 𝑠𝑖𝑔𝑛(𝑧𝑖)𝑥𝑖2
−𝑖 (1) 
 𝑧𝑖+1 = 𝑧𝑖 − 𝑠𝑖𝑔𝑛(𝑧𝑖)α𝑖 
Trong đó, 𝑥𝑖+1 và 𝑦𝑖+1 là giá trị tọa độ mới 
của véc-tơ khi véc-tơ xoay quanh góc mới 𝑧𝑖+1. 
Giá trị α𝑖 trong phương trình được gọi là góc dư 
và có thể được tính theo công thức 2. 
α𝑖 = 𝑡𝑎𝑛
−1(2−𝑖) (2) 
Sau một vài bước lặp, kết quả cuối cùng sẽ bị 
tăng lên thêm một hằng số K gọi là hệ số chiều 
dài. Vì vậy, ngõ ra X và Y cần phải loại bỏ hệ số 
K để cho ra kết quả đúng. Trong thuật toán 
CORDIC truyền thống, góc dư là hằng số và góc 
𝑧𝑖 sẽ giảm gần một nửa giá trị sau mỗi lần lặp. 
Mặt khác, góc dư trong AARC không cố định và 
chúng được chọn dựa trên trạng thái trước đó của 
𝑧𝑖. Như vậy, thuật toán AARC có thể cắt giảm số 
lần lặp trong khi kết quả ngõ ra vẫn có độ chính 
xác tương đương. 
Hình 1 cho thấy mã giả của phương pháp 
AARC. Góc θi được chọn trong mỗi lần lặp dựa 
vào góc dư 𝑧𝑖 sẽ nhanh chóng hội tụ về 0. Trong 
mỗi bước lặp, thuật toán sử dụng khái niệm C, là 
tích của các tham số ci. Mỗi giá trị ci thể hiện 
phạm vi của các góc còn lại xung quanh một góc 
không đổi như có thể được nhìn thấy trong các 
công thức 3. 
𝑐𝑖 = {
𝜃𝑖+𝜃𝑖+1
2
 , 0 ≤ 𝑖 ≤ (𝑁 − 2)
𝜃𝑖
2
 , 𝑖 (𝑁 − 2)
 (3) 
Hình 1. Mã giả của kiến trúc AARC 
Do góc dư 𝑧𝑖 luôn thay đổi nên K cũng sẽ 
thay đổi không phải là hằng số như trong phương 
Science & Technology Development, Vol 20, No.T4-2017 
Trang 190 
pháp truyền thống. Hệ số này là tích của các 𝑘𝑖 
như công thức 4. Giá trị 𝑘𝑖 được tính theo công 
thức 5. 
𝐾 = ∏ 𝑘𝑖𝑖∈𝜃 (4) 
𝑘𝑖 = cos(𝜃𝑖) (5) 
Lưu ý rằng mã giả chỉ tính cho góc từ 00 đến 
450. Những góc khác trong vòng tròn lượng giác 
phải được chuẩn hóa về khoảng giá trị trên như 
Hình 2. 
Hình 2. Các góc chuẩn hóa trong vòng tròn lượng giác 
HIỆN THỰC BỘ NHÂN 
Tổng quan kiến trúc bộ nhân 
Hình 3. Tổng quan bộ nhân 
Tổng quan bộ nhân TF được thể hiện như 
Hình 3. Kiến trúc TF gồm 4 mô-đun: Mô-đun 
chọn góc xoay θi (RotSel), Mô-đun tính tổng của 
X và Y (FAdd_XY), Mô-đun tính tích ki (FMul_ki) 
và Mô-đun tính hệ số K và chuẩn hóa ngõ ra 
(FMulK_andNorm). Mô-đun RotSel nhận giá trị 
góc iZ từ bên ngoài để tính ra các góc dư θ cần 
xoay. Tất cả các góc được chuyển vào Mô-đun 
FAdd_XY và FMul_ki theo từng clock. Sau đó, 
nhờ quá trình lặp, Mô-đun FAdd_XY và FMul_ki 
tính ra giá trị X, Y và K tương ứng. Mô-đun 
FAdd_XY nhận giá trị khởi tạo ban đầu X, Y 
tương ứng iX, iY từ bên ngoài. Sau đó, giá trị của 
X và Y được tính bởi Mô-đun Add_XY tại clock 
có góc dư θi truyền vào. Cùng lúc đó, hệ số chiều 
dài K được nhân với ki bởi Mô-đun FMul_ki mỗi 
khi có góc θi. Quá trình lặp kết thúc khi Mô-đun 
RotSel hoàn thành việc tính và chuyển toàn bộ 
góc θ ra ngoài mô-đun, lúc này hai Mô-đun 
FAdd_XY và FMul_ki cũng hoàn thành quá trình 
lặp của mình. Đó cũng là lúc Mô-đun 
FMulK_andNorm hoạt động. Mô-đun 
FMulK_andNorm tiến hành nhân hai giá trị X và 
Y và giá trị K đến từ FMul_ki để cho ra kết quả 
cuối cùng. Giá trị cuối cùng của X và Y phải được 
chuẩn hóa theo định dạng của IEEE-754 trước 
khi truyền tương ứng ra oX và oY ở ngõ ra cuối 
cùng. Như đã đề cập ở trên, thuật toán AARC 
phải quy đổi tất cả góc ngõ vào trong vòng tròn 
lượng giác về đoạn 00 đến 450 trước quá trình 
tính toán. Mô-đun RotSel sẽ đảm nhiệm việc 
chuyển đổi này. Tuy nhiên, tín hiệu ngõ vào và 
ngõ ra phải được hoán đổi cùng với việc chuyển 
đổi góc. Về đặc điểm kĩ thuật, dữ liệu ngõ vào 
hoặc ngõ ra phải được hoán đổi với nhau và đổi 
dấu các tín hiệu X và Y ở ngõ ra để có kết quả 
chính xác cuối cùng. Việc chuyển đổi các giá trị 
ngõ vào và ngõ ra được thực hiện dựa trên Bảng 
1. 
Bảng 1. Bảng tra phục hồi dữ liệu dựa vào thông 
tin góc Z 
Phân 
đoạn 
Chuyển 
đổi góc 
Chuyển đổi dữ 
liệu X-Y 
Đảo tín hiệu 
ngõ ra 
Ngõ 
vào 
Ngõ 
ra 
X Y 
0 Z Không không Không Không 
1 π/2 − Z Có Không Có Không 
2 Z − π/2 Không Có Có Không 
3 π − Z Có Có Có Có 
4 Z − π Không Không Có Có 
5 3π/2 − 
Z 
Có không Không Có 
6 Z − 
3π/2 
Không Có Không Có 
7 2π − Z Có Có Không Không 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 20, SOÁ T4- 2017 
 Trang 191 
Mô-đun chọn góc xoay θi (RotSel) 
Hình 4. Sơ đồ khối của Mô-đun RotSel 
Hình 4 mô tả sơ đồ khối của Mô-đun RotSel. 
Trong đó, Mô-đun Z_Normalizer chuyển đổi góc 
ngõ vào iZ về dạng góc chuẩn hóa NormZ có giá 
trị trong đoạn từ 00 đến 450. Tín hiệu oRec_info 
có 3-bit sẽ chứa thông tin miền giá trị mà iZ phụ 
thuộc vào. Tín hiệu oRec_info sẽ giúp phục hồi 
lại dữ liệu sau này dựa vào Bảng 1. Lúc bắt đầu 
quá trình lặp, mạch đa hợp (multiplexer – Mux) 
sẽ đưa giá trị NormZ cất vào thanh ghi. Còn trong 
quá trình lặp, kết quả của bộ cộng trừ (ALU) sẽ 
được Mux chọn để cất vào thanh ghi. Trong 
ALU, giá trị của góc Z tiếp theo được tính bằng 
cách cộng hoặc trừ giá trị Z hiện tại với góc dư θ 
hiện tại được chọn ra từ bảng tra. Mà góc θ hiện 
tại thì được tính bởi lần xoay trước thông qua 
LUT như có thể thấy trong Hình 4. Kết quả ALU 
được lặp lại và lưu trữ trong thanh ghi trong mỗi 
lần lặp và dấu của nó sẽ được đưa thẳng ra ngõ ra 
bằng tín hiệu oSignZ. Mô-đun SetRot là Mô-đun 
ra quyết định lựa chọn góc cho lần lặp tiếp theo. 
Dựa trên giá trị của góc Z hiện tại mà nó nhận 
được, Mô-đun SetRot sẽ chọn góc tiếp theo để 
xoay. Khi bắt đầu quá trình lặp, Mô-đun SetRot 
nhận giá trị góc Z trong Mô-đun Z_Normalizer 
thông qua tín hiệu NormZ. Ngoài ra thì nó nhận 
giá trị tuyệt đối của góc Z từ ALU khi đang trong 
quá trình lặp. Toàn bộ quá trình lặp sẽ kết thúc 
khi tín hiệu cho biết Z bằng không (Ze0) được bật 
lên. Và cuối cùng, Mô-đun Controller điều khiển 
hoạt động lặp của RotSel và quản lý các tín hiệu 
điều khiển khác như là oValid, oStart, oEnd và 
oWait. Giả sử rằng góc Z cần xoay nhiều lần để 
tính toán. Khi đó, tín hiệu oWait sẽ được Mô-đun 
RotSel bật lên để yêu cầu bên ngoài chờ, còn hai 
tín hiệu ngõ vào là iValid và iZ sẽ được giữ 
nguyên trạng thái. Tín hiệu oValid bật lên 1 để 
đánh dấu một phiên làm việc  ... pment, Vol 20, No.T4-2017 
Trang 192 
Hình 5. Sơ đồ khối của Mô-đun FAdd_XY 
Sơ đồ khối của Mô-đun FAdd_XY được 
thể hiện trong Hình 5. Thông tin iRec_info cho 
biết góc hiện tại đang ở góc phần tám nào trong 
vòng tròn lượng giác như Hình 2. Giá trị vào iX 
và iY có thể được hoán đổi dựa vào giá trị 
iRec_info theo Bảng 1. Sau đó, Mux chọn dữ liệu 
từ ngõ vào hoặc dữ liệu tương ứng từ thanh ghi. 
Dữ liệu được chọn được chia thành 3 phần độc 
lập: phần dấu (sX và sY), phần exponent (eX và 
eY) và phần mantissa (mX và mY) như đã mô tả 
trong hình. Phần exponent được so sánh với nhau 
để chọn ra số có exponent lớn hơn. EMax và 
MMax lần lượt là giá trị exponent và manissa của 
số có số mũ lớn hơn. Tương tự, EMin và MMin 
tương ứng là exponent và mantissa của số có số 
mũ nhỏ hơn. Giá trị Edif là hiệu của EMax và 
EMin. Chức năng của Mô-đun Right_Shifter là 
dịch phải phần mantissa để cần bằng giá trị số mũ 
của hai số. Mô-đun Right_Shifter cần thông tin 
của Edif, iRot và Edif +iRot cùng với hai 
mantissa MMax và MMin để tính các giá trị của 
Xi, Yi2−i, Yi và Xi2−i như trong Hình 5. Theo công 
thức 1 thì cặp Xi, Yi2−i cũng như cặp Yi, Xi2−i sẽ 
được cộng hoặc trừ với nhau. Việc cộng hay trừ 
sẽ phụ thuộc vào các phần dấu sX và sY , cùng 
với dấu của Z đến từ ngõ vào thông qua tín hiệu 
iSignZ. Kết quả các phép tính sẽ được đi qua các 
Mô-đun 2’s complement để lấy trị tuyệt đối. Các 
cờ tràn Cout của các ALU cùng với các phần dấu 
được đưa đến Mô-đun Control Sign để sinh ra 
các dấu của kết quả. Phần exponent của kết quả 
chính là giá trị EMax. Hai kết quả cuối cùng của 
X và Y được lưu trữ trong thanh ghi cho lần lặp 
tiếp theo hoặc đưa ra bên ngoài thông qua hai tín 
hiệu oX và oY. Ngoài ra, đối với trường hợp đặc 
biệt, khi góc vào bằng 0 được biết khi tín hiệu 
iStart và iEnd bật lên đồng thời trong một clock. 
Khi đó, oX và oY sẽ được lấy trực tiếp dữ liệu từ 
tín hiệu ngõ vào thay vì lấy từ hai thanh ghi kết 
quả. 
Mô-đun tính tích ki (FMul_ki) 
Hình 6. Sơ đồ khối của Mô-đun FMul_ki 
Kết quả ngõ ra của Mô-đun RotSel, iRot 
được truyền vào Mô-đun FMul_ki để tính giá trị 
K. Mô-đun FMul_ki thực hiện việc nhân tích lũy 
giá trị K theo công thức 4 và nó được thực thi 
song song với Mô-đun FAdd_XY. Hình 6 mô tả 
sơ đồ khối của Mô-đun FMul_ki. Khi nhận 4-bit 
iRot, giá trị ki mới được chọn từ bảng tra LUT để 
đưa vào bộ nhân. Khi đó, giá trị ki mới sẽ được 
nhân với giá trị K hiện tại để tạo ra hệ số K mới. 
Hệ số K này được lưu trữ bằng thanh ghi và được 
truyền ra ngõ ra bằng tín hiệu oK như có thể thấy 
trong Hình 6. Khi bắt đầu, thanh ghi lưu hệ số K 
được khởi tạo với giá trị là 1. Bởi vì các giá trị ki 
đều là số dương nên sẽ sử dụng thiết kế bộ nhân 
không dấu tốc độ cao kế thừa từ công trình trước 
đó [25]. Hệ số K có giá trị từ 0,60725 đến 1. Hệ 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 20, SOÁ T4- 2017 
 Trang 193 
số này đạt được giá trị nhỏ nhất là 0,60725 khi tất 
cả 16 giá trị nhân với nhau. Và nó bằng 1 khi 
trường hợp đặc biệt Z vào bằng 00. Bởi vì giá trị 
hệ số K chỉ dao động trong một khoảng cố định 
biết trước, nên Mô-đun FMul_ki chỉ xử lý phần 
giá trị của K mà bỏ qua phần dấu và phần mũ của 
nó. 
Mô-đun tính hệ số K và chuẩn hóa ngõ ra 
(FMulK_andNorm) 
Hình 7. Sơ đồ khối của Mô-đun FMulK_andNorm 
Mục đích của Mô-đun FMulK_andNorm là 
để nhân hai giá trị của X và Y đến từ Mô-đun 
FAdd_XY với hệ số K đến từ Mô-đun FMul_ki, 
sau đó chuẩn hóa kết quả ngõ ra dạng 32-bit dấu 
chấm động IEEE-754. Hình 7 cho thấy sơ đồ 
khối của Mô-đun này. Bởi vì phép nhân không 
cần quy đồng hệ số mũ nên giá trị mantissa của K 
được nhân trực tiếp với phần mantissa của hai giá 
trị vào là X và Y . Việc thực thi bộ nhân được dựa 
vào bộ nhân không dấu tốc độ cao kế thừa từ 
công trình trước đó của nhóm [25]. Kết quả của 
bộ nhân sẽ được chuyển đến Mô-đun phát hiện số 
1 đầu (Lead-One-Detector – LOD) để tìm ra vị trí 
của bit ‘1’ đầu tiên đang nằm ở vị trí nào trong 
chuỗi số. Dựa trên thông tin từ Mô-đun LOD, 
Mô-đun Left_Shifter dịch kết quả đó sang bên trái 
nhằm bỏ tất cả các bit ‘0’ vô nghĩa ở đằng trước 
trong chuỗi bit. Đồng thời, phần số mũ của kết 
quả được giảm bằng lượng bit mà nó dịch trái. 
Cuối cùng, phần exponent và phần mantissa của 
kết quả được hoán đổi cho nhau tương ứng như 
trong Bảng 1 dựa vào tín hiệu iRec_info, với 
iRec_info cho biết vị trí của góc Z thuộc góc phần 
tám nào trong vòng tròn lượng giác. Và cuối 
cùng, Mô-đun Sign Recovery cũng căn cứ vào 
dấu của hai tín hiệu ngõ vào cùng với thông tin 
đến từ iRec_info để quyết định dấu cho ngõ ra. 
KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM 
Thiết kế bộ nhân được xây dựng và kiểm tra 
trên chip FPGA Stratix IV của Altera và phân 
tích ASIC trên công nghệ SOTB 65nm. Tài 
nguyên sử dụng trên FPGA là 7747 LUTs và 625 
thanh ghi. Tần số đạt được trên FPGA là 103,9 
MHz. Kết quả thực nghiệm của phân tích ASIC 
được so sánh với các thiết kế khác được trình bày 
trong Bảng 2. Dựa trên Bảng 2, thiết kế AARC-
TF sử dụng 16.858 standard cells chiếm diện tích 
86,718 µm2. Rõ ràng, có thể thấy rằng thiết kế 
được đề xuất có thời gian trễ là 6,024 ns, tức 
tương đương với tần số tối đa đạt được là 166 
MHz khi so sánh với những thiết kế khác sử dụng 
cùng một diện tích tương đương. Tuy nhiên, lưu 
ý rằng thiết kế AARC-TF là một kiến trúc dựa 
trên nền tảng CORDIC, do đó AARC-TF tính 
trực tiếp bộ nhân trong khi các thiết kế khác thì 
sử dụng kiến trúc bảng tra LUT làm cơ sở. Mà 
kiến trúc bảng tra LUT thì tiêu tốn thêm tài 
nguyên bộ nhớ để lưu trữ các giá trị của phép tính 
lượng giác trước đó, dẫn đến các vấn đề bất lợi 
trong tính toán FFT với số điểm lớn. Vì vậy, kiến 
trúc AARC-TF hoàn toàn có thể thay thế được 
cho các phương pháp truyền thống và giải quyết 
được tối ưu bộ nhớ cho tính toán trong hệ thống 
FFT có số điểm lớn. 
Science & Technology Development, Vol 20, No.T4-2017 
Trang 194 
Bảng 2. So sánh kết quả thực thi trên ASIC với những thiết kế khác 
 Công nghệ Kiến trúc TF Độ trễ 
(ns) 
Standard 
cells 
Diện tích 
 (µm2) 
AARC – TF 65 nm 
SOTB 
CORDIC-based 6,024 16.858 86.718 
Fused Butterfly với bộ nhân Wallace [18] 45 nm Bulk LUT-based 4,65 N/A 116.886 
Fused Butterfly với MCM [18] 45 nm Bulk LUT- based 4,08 N/A 97.302 
Fused Butterfly với MMCM [18] 45 nm Bulk LUT- based 4,34 N/A 101.312 
Bảng 3 cho biết thời gian và độ chính xác 
của bộ nhân số phức được thể hiện qua cả hai 
thiết kế trên FPGA và phân tích trên ASIC. Bởi 
vì độ trễ của kiến trúc chỉ dựa trên giá trị của góc 
ngõ vào, nên để kiểm tra tốc độ của thiết kế, 3600 
góc ngõ vào trong khoảng từ 00 đến 359,90, với 
0,10 bước nhảy được sử dụng để kiểm nghiệm. 
Kết quả thực nghiệm cho thấy kiến trúc cần 
22.046 clock để tính cho tất cả 3.600 góc. Vì vậy, 
nó mất trung bình 6.124 clock cho mỗi góc. Như 
vậy, ứng với tần số tối đa của thiết kế trên chip 
FPGA và tổng hợp trên ASIC lần lượt là 103,9 
MHz và 166 MHz, ta có tốc độ tương ứng là 
16,966 MSps và 27,107 MSps. Về độ chính xác, 
giá trị MSE là một thông số luôn luôn cần thiết 
cho các hệ thống xử lý tín hiệu số. Tuy nhiên, 
trong thực thi dấu chấm động, tỉ lệ lỗi lớn nhất là 
cần thiết bên cạnh những giá trị MSE. Thiết kế đề 
xuất có độ chính xác là 1,133E-10 MSE và 
25,894 ppm tỉ lệ lỗi tối đa như có thể thấy trong 
Bảng 3. 
Bảng 3. Độ chính xác và thời gian trễ 
 Độ trễ trung bình 
Tốc độ trung bình 
(MSps) 
Độ chính xác 
Tỉ lệ lỗi tối đa 
(ppm) 
Stratix IV 
6,124 
16,966 
1,133E – 10 25,894 
SOTB 65nm 27,107 
KẾT LUẬN 
Bài báo đề xuất một kiến trúc tính trực tiếp 
bộ nhân số phức dấu chấm động sử dụng thuật 
toán AARC. Thiết kế thực thi trên chip FPGA 
Stratix IV của Altera và tổng hợp ASIC trên công 
nghệ SOTB 65 nm với dữ liệu dấu chấm động có 
độ chính xác đơn. Kết quả thực nghiệm cho thấy, 
bộ nhân có độ chính xác cao với 1,133E-10 MSE 
và 25,894 ppm tỉ lệ lỗi tối đa. Tần số đạt được là 
103,9 MHz trên chip FPGA và 166 MHz trên 
tổng hợp ASIC. Với độ trễ trung bình là 6.124 
clock trên mỗi góc xoay, tốc độ thực thi đạt được 
trên chip FPGA và tổng hợp ASIC tuần tự là 
16,966 MSps và 27,107 MSps. Tài nguyên sử 
dụng trong thiết kế này là tương đối nhỏ. Cụ thể, 
chip FPGA sử dụng 7.747 LUTs và 625 thanh 
ghi trong khi tổng hợp ASIC sử dụng 16.858 
standard cells trên diện tích 86,718 µm2. Kết 
luận, thiết kế bộ nhân trực tiếp sử dụng kiến trúc 
AARC-TF có thể khắc phục vấn đề về bộ nhớ 
trong hệ thống FFT có số điểm lớn. Vì thế, đề 
xuất TF có thể được sử dụng cho thực thi FFT số 
điểm lớn dấu chấm động tốc độ cao. 
Lời cảm ơn: Bài báo là kết quả hợp tác nghiên 
cứu giữa Phòng Thí Nghiệm DESLAB, Khoa 
Điện tử–Viễn thông, Trường Đại học Khoa học 
Tự nhiên–ĐHQG-HCM và Phòng Thí Nghiệm 
VLSI, Trường Đại Học Điện tử - Truyền thông 
(University of Electro-Communications - UEC), 
Tokyo, Nhật Bản. Nghiên cứu được tài trợ bởi 
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 
(ĐHQG - HCM) trong khuôn khổ Đề tài mã số 
B2017-18-05. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 20, SOÁ T4- 2017 
 Trang 195 
An efficient floating-point FFT twiddle 
factor implementation based on adaptive 
angle recoding CORDIC algorithm 
• Vo Thi Phuong Thao 
• Truong Thi Nhu Quynh 
• Hoang Trong Thuc 
• Le Duc Hung 
University of Science, VNU-HCM 
ABSTRACT 
In this paper, a single-precision floating-
point FFT twiddle factor (TF) implementation is 
proposed. The architecture is based on the 
Adaptive Angle Recoding CORDIC (AARC) 
algorithm. The TF design was built and verified 
on Altera Stratix IV FPGA chip and 65nm SOTB 
synthesis. The FPGA implementation had 103.9 
MHz maximum frequency, throughput result of 
16.966 Mega-Sample per second (MSps), and 
resources utilization of 7.747 ALUTs and 625 
registers. On the other hand, the SOTB synthesis 
has 16.858 standard cells on an area of 298x291 
µm2, 166 MHz maximum frequency, and the 
speed of 27.107 MSps. The accuracy results were 
1.133E-10 Mean-Square-Error (MSE) and about 
26 part-per-million (ppm) maximum error. 
Keywords: floating-point FFT Twiddle Factor , FFT, AARC CORDIC 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. J.W. Cooley, J.W. Tukey, An algorithm for 
the machine calculation of complex Fourier 
series, Mathematics of Computation, 19, 
297–301 (1965). 
[2]. J.G. Andrews, A. Ghosh, R. Muhamed, 
Fundamentals of WiMAX: Understanding 
Broadband Wireless Networking, Prentice 
Hall Communications Engineering and 
Emerging Technologies Series (2007). 
[3]. E. Dahlman, 3G Evolution: HSPA and LTE 
for Mobile Broadband, Academic Press 
(2008). 
[4]. A.F. Molisch, X. Zhang, FFT-based hybrid 
antenna selection schemes for spatially 
correlated MIMO channels, IEEE 
Communications Letters, 8, 1, 36–38 (2004). 
[5]. Y. Tang, B. Vucetic, The FFT-based 
multiuser detection for DSCDMA ultra - 
wideband communication systems, in Ultra 
Wideband Systems Joint with Conf. on 
Ultrawideband Systems and Technologies, 
Kyoto, Japan, 111–115 (2004). 
[6]. V. Arunachalam, A.N.J. Raj, Efficient VLSI 
Implementation of FFT for orthogonal 
frequency division multiplexing 
applications, IET Circuits, Devices & 
Systems, 8, 6, 526 – 531 (2014). 
[7]. C.F. Gerald, P.O. Wheatley, Applied 
Numerical Analysis, 7th ed. Addison Wesley 
(2003). 
[8]. A. Cortes, I. Velez, I. Zalbide, A. Irizar, J. 
Sevillano, An FFT Core for DVB-T/DVB-H 
Receivers, in IEEE 13th Int. Conf. on 
Electronics, Circuits and Systems, Nice, 
France, 102–105 (2006). 
[9]. C. Lin, Y. Yu, L. Van, A Low-power 64-
point FFT/IFFT Design for IEEE 802.11g 
WLAN Application, in Proc. of Int. Symp. 
on Circuits and Systems, 4523–4526 (2006). 
Science & Technology Development, Vol 20, No.T4-2017 
Trang 196 
[10]. C. Le, S. Chan, F. Cheng, W. Fang, M. 
Frischman, S. Hensley, R. Johnson, M. 
Jourdan, M. Marina, B. Parham, F. 
Rogez, P. Rosen, B. Shah, S. Taft, Onboard 
FPGA-based SAR Processing for Future 
Spaceborne Systems, in Proc. of the IEEE 
Radar Conf., 15–20 (2004). 
[11]. J. Li, M.V. Sarunic, L. Shannon, Scalable, 
High Performance Fourier Domain Optical 
Coherence Tomography: Why FPGAs and 
not GPGPUs, in IEEE 19th Annual Int. 
Symp. on Field-Programmable Custom 
Computing Machines (FCCM), 49–56 
(2011). 
[12]. E.E. Swartzlander, Systolic FFT Processor: 
Past, Present and Future, in Proc. of 2006 
Int. Conf. on Application Specific Systems, 
Steamboat Springs, 153–158 (2006). 
[13]. R. Radhouane, P. Liu, C. Modlin, 
Minimizing the Memory Requirement for 
Continuous Flow FFT Implementation: 
Continuous Flow Mixed Mode FFT (CFMM 
– FFT), in IEEE Int. Symp. on Circuits and 
Systems (ISCAS 2000), I–116 I–119 (2000). 
[14]. J. Zhou, Y. Dong, Y. Dou, Y. Lei, Dynamic 
Configurable FloatingPoint FFT Pipelines 
and Hybrid-Mode CORDIC on FPGA, in 
2008 Int. Conf. on Embedded Software and 
Systems (ICESS’08), 616–620 (2008). 
[15]. E. Oruklu, X. Xiao, J. Saniie, Reduced 
memory and low power architecture for 
CORDIC-based FFT processors, Journal of 
Signal Processing Systems, 2, 66, 129–134 
(2011). 
[16]. V. Montano, M. Jiménez, Design and 
Implementation of a Scalable ˜ Floating-
point FFT IP Core for Xilinx FPGAs, in 
53rd IEEE Int. Midwest Symp. on Circuits 
and Systems, 533–536 (2010). 
[17]. S. Mou, X. Yang, Research on the RAW 
Dependency in Floatingpoint FFT 
Processors, in 8th ACIS Int. Conf. on 
Software Engineering, Artificial Intelligence, 
Networking, and Parallel Distributed 
Computing, Qingdao, China, pp. 88 – 92 
(2007). 
[18]. J.H. Min, S.W. Kim, E.E. Swartzlander Jr., 
A FloatingPoint Fused FFT Butterfly 
Arithmetic Unit with Merged 
MultipleConstant Multipliers, in 2011 Conf. 
Record of the 45th Asilomar Conf. on 
Signals, Systems and Computers 
(ASILOMAR), 520 – 524 (2011). 
[19]. H.Y. Lee, I.C. Park, Balanced binary-tree 
decomposition for areaefficient pipelined 
FFT Processing, IEEE Trans. on Circuits 
and Systems I: Regular Papers, 54, 4, 889 – 
900 (2007). 
[20]. X. Xiao, E. Oruklu, J. Saniie, An Efficient 
FFT Engine with Reduced Addressing 
Logic, IEEE Trans. on Circuits and Systems 
II: Express Briefs, 55, 11, 1149–1153 
(2008). 
[21]. Y.H. Hu, S. Naganathan, An angle recoding 
method for CORDIC algorithm 
implementation, IEEE Trans. on Computer, 
42, 1, 99–102 (1993). 
[22]. P.K. Meher, S.Y. Park, CORDIC designs for 
fixed angle of rotation, IEEE Trans. on VLSI 
System, 21, 2, 217–228 (2013). 
[23]. S. Aggarwal, P.K. Meher, K. Khare, Scale 
free hyperbolic CORDIC processor and its 
application to waveform generation, IEEE 
Trans. on Circuits and Systems-I: Regular 
Papers, 60, 2, 314–326 (2013). 
[24]. N.H. Thu, N.X. Thuan, H.T. Thuc, L.Đ. 
Hung, P.C. Kha, A low-resource low-latency 
hybrid adaptive CORDIC with floating-point 
precision, IEICE Electronics Express 
(ELEX), 12, 9, 20150258 (2015). 
[25]. L.X. Vy, H.T. Thuc, B.T. Tu, D.D.A. Vu, A 
High-speed Unsigned 32-bit Multiplier 
Based on Booth-encoder and Wallace-tree 
Modifications, in The 2014 IEEE Int. Conf. 
on Advanced Technologies for 
Communications (ATC’14), 739–744 (2011). 

File đính kèm:

  • pdfhien_thuc_bo_nhan_so_phuc_dau_cham_dong_cho_tinh_toan_fft_du.pdf