Hiệu quả của mô hình phòng tâm lý học đường tại các trường phổ thông thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

TÓM TẮT

Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá hiệu quả của mô hình phòng tâm lý học

đường tại các trường phổ thông thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai do nhóm nghiên

cứu đề xuất và xây dựng. Sử dụng phương pháp thực nghiệm không đối chứng trên 2

trường THCS và 2 trường THPT (bao gồm 2 trường dân lập và 2 trường công lập)

trong vòng một năm học và phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi tự điền với mẫu là

700 học sinh tại cả 4 trường. Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số học sinh trong mẫu

khảo sát thấy mô hình phòng tâm lý là cần thiết, các em hiểu tương đối về các hoạt

động/dịch vụ của phòng, đồng thời nhận thấy các lợi ích của phòng mang lại.

Nghiên cứu này cung cấp một bằng chứng rất quan trọng về vai trò của phòng tâm lý

học đường, đồng thời đóng góp vào sự vận hành thực tiễn và phát triển mô hình tâm

lý học đường tại Đồng Nai.

pdf 10 trang yennguyen 7160
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả của mô hình phòng tâm lý học đường tại các trường phổ thông thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả của mô hình phòng tâm lý học đường tại các trường phổ thông thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

Hiệu quả của mô hình phòng tâm lý học đường tại các trường phổ thông thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
95 
HIỆU QUẢ CỦA MÔ HÌNH PHÒNG TÂM LÝ HỌC ĐƯỜNG 
 TẠI CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, 
TỈNH ĐỒNG NAI 
Lê Minh Công
1 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá hiệu quả của mô hình phòng tâm lý học 
đường tại các trường phổ thông thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai do nhóm nghiên 
cứu đề xuất và xây dựng. Sử dụng phương pháp thực nghiệm không đối chứng trên 2 
trường THCS và 2 trường THPT (bao gồm 2 trường dân lập và 2 trường công lập) 
trong vòng một năm học và phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi tự điền với mẫu là 
700 học sinh tại cả 4 trường. Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số học sinh trong mẫu 
khảo sát thấy mô hình phòng tâm lý là cần thiết, các em hiểu tương đối về các hoạt 
động/dịch vụ của phòng, đồng thời nhận thấy các lợi ích của phòng mang lại. 
Nghiên cứu này cung cấp một bằng chứng rất quan trọng về vai trò của phòng tâm lý 
học đường, đồng thời đóng góp vào sự vận hành thực tiễn và phát triển mô hình tâm 
lý học đường tại Đồng Nai. 
Từ khoá: Phòng tâm lý học đường, học sinh, Biên Hòa, Đồng Nai 
1. Đặt vấn đề 
Kể từ sau thời kỳ đổi mới (1986), 
nước ta bước vào giai đoạn phát triển 
mạnh mẽ cả về kinh tế, xã hội và văn 
hóa, khoa học cộng nghệ. Tuy vậy, đời 
sống xã hội cũng có nhiều ảnh hưởng 
tiêu cực, trong đó có vấn đề về sức khỏe 
tinh thần, mối quan hệ của đại bộ phận 
người dân. Điều này đặt ra nhiều vấn đề 
cần phải xem xét nghiên cứu, xử lý. 
Lứa tuổi học sinh (HS) là lứa tuổi 
hình thành và phát triển nhân cách, các 
em là nhóm dễ bị “tổn thương” bởi 
những tác động xã hội và văn hóa bên 
ngoài. Nhiều báo cáo gần đây cho thấy 
một bức tranh tập trung vào các vấn đề 
sức khỏe tâm thần và khó khăn tâm lý 
của học sinh như bạo lực học đường, 
nghiện chất, nghiện trò chơi trực tuyến, 
bạo lực, bắt nạt và các vấn đề sức khỏe 
tâm thần khác 
Đồng Nai là địa phương có nhiều 
khu công nghiệp; nhiều đặc trưng về sự 
đa dạng văn hóa, tôn giáo và nhiều 
thành phần dân cư. Điều đó ảnh hưởng 
đến đời sống của người dân, trong đó 
nhóm đối tượng bị ảnh hưởng khá lớn là 
học sinh và thanh thiếu niên. Các 
nghiên cứu về vấn đề này đã chỉ ra: tình 
trạng rối loạn tâm lý - tâm thần (Nguyễn 
Văn Thọ và cộng sự, 2000) [1], quan hệ 
tình dục ở lứa tuổi học sinh (Nguyễn 
Văn Thọ, Nguyễn Minh Thức, 2008) [2], 
nghiện internet - game online (Lê Minh 
Công, Nguyễn Văn Thọ, 2013) [3], vi 
phạm pháp luật (Phạm Văn Thanh, 
Nguyễn Thọ Hải, 2018) [4], các khó 
khăn về đời sống tâm lý, mối quan hệ 
và chất lượng học tập (Phạm Thị Hải, 
Nguyễn Văn Cầu, Lê Minh Công, 
Nguyễn Minh Thức, 2015) [5] 
Phát triển chương trình tâm lý học 
đường (TLHĐ) (hay tâm lý học trường 
học) là một trong những giải pháp quan 
trọng góp phần giải quyết vấn đề trên. 
Trong thời gian vừa qua, nhiều mô hình 
1Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - 
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 
Email: congle@hcmussh.edu.vn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
96 
phát triển tâm lý trường học đã được 
nghiên cứu tại Đồng Nai, như mô hình 
chăm sóc sức khỏe tâm lý, tâm thần cho 
học sinh của Nguyễn Văn Thọ cùng các 
cộng sự [1]; Phạm Thị Hải và cộng sự 
năm 2015 nghiên cứu thực trạng các 
khó khăn tâm lý của học sinh tại Đồng 
Na và xây dựng được một mô hình phù 
hợp với văn hóa, xã hội tại Đồng Nai, 
dựa trên việc nghiên cứu các mô hình 
trên thế giới, Việt Nam [5]. Tuy nhiên, 
việc cụ thể hóa mô hình vào thực tiễn, 
triển khai một cách đại trà vẫn chưa 
được thực hiện. Chính vì thế, chúng tôi 
mạnh dạn đề xuất mô hình phòng tâm lý 
trường học tại các trường phổ thông 
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, 
đồng thời thử nghiệm mô hình tại 4 
trường (2 trường trung học cơ sở 
(THCS) là Long Bình và Nguyễn Văn 
Trỗi, 2 trường trung học phổ thông 
(THPT) là Lê Quý Đôn và Tam Hiệp) 
trong vòng một năm học để đánh giá 
hiệu quả của mô hình. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
2.1. Địa bàn nghiên cứu và khách 
thể nghiên cứu 
- Nghiên cứu thực nghiệm tại: 4 
trường phổ thông, trong đó có 2 trường 
THCS: 1 trường dân lập (Nguyễn Văn 
Trỗi), 1 trường công lập (Long Bình) và 2 
trường THPT: 1 trường dân lập (Lê Quý 
Đôn), 1 trường công lập (Tam Hiệp). 
- Mẫu khách thể khảo sát hiệu quả: 
700 HS ở 4 trường đã tổ chức phòng 
TLHĐ, được chia đều cho các cấp học 
(50 học sinh/1 khối từ lớp 6 đến lớp 
12). Chúng tôi chọn ngẫu nhiên 1 lớp 
trong các lớp ở cùng 1 khối lớp. 
2.2. Phương pháp 
- Phương pháp thực nghiệm tác động: 
Phương pháp thực nghiệm tác động 
nhằm mục đích đánh giá tính khả thi và 
tính hiệu quả của mô hình phòng TLHĐ 
khi hoạt động được một năm tại các nhà 
trường phổ thông TP. Biên Hòa, tỉnh 
Đồng Nai. 
Chúng tôi tiến hành triển khai thực 
nghiệm tác động không có nhóm đối 
chứng. Trong điều kiện cho phép, 
chúng tôi lựa chọn 4 trường phổ thông 
để tiến hành thực nghiệm. Tại mỗi 
trường, chúng tôi tuyển dụng một 
chuyên viên TLHĐ làm việc toàn thời 
gian trong một năm học để triển khai 
các hoạt động của phòng TLHĐ. Sau 
một năm triển khai, chúng tôi tiến hành 
đánh giá hiệu quả của mô hình phòng 
TLHĐ tại các trường phổ thông này. 
Sử dụng phương pháp Test – Retest 
để đánh giá tính khả thi và hiệu quả của 
mô hình phòng TLHĐ trong các nhà 
trường phổ thông ở TP. Biên Hòa, tỉnh 
Đồng Nai. 
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: 
Nhằm khảo sát, đánh giá về hiệu 
quả của mô hình phòng TLHĐ qua 
phương pháp thực nghiệm của đề tài 
trên các mẫu khách thể. 
Các biến số/yếu tố được khảo sát 
bao gồm: Hiểu biết về tâm lý trường 
học, nhận biết về mục đích và các lĩnh 
vực trợ giúp của mô hình, nhận biết về 
sự phối hợp của phòng với các lực lượng 
sư phạm khác, tính hữu ích, sự hài lòng, 
sự cần thiết duy trì. Hệ số tin cậy 
(Cronbach‟ alpha của thang đo là 0,92). 
Dữ liệu thu được được nhập và xử 
lý thông qua phần mềm SPSS phiên bản 
16.0. Các dữ liệu phân tích bao gồm: 
phân tích thống kê mô tả (tính phần 
trăm, điểm trung bình, độ lệch chuẩn, so 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
97 
sánh giữa các biến); phân tích tương 
quan giữa một số biến. 
3. Kết quả nghiên cứu 
3.1. Mức độ hiểu biết của học sinh 
về hoạt động của phòng tâm lý học 
đường tại các trường phổ thông 
Nhằm đánh giá mức độ hiểu biết về 
hoạt động của phòng TLHĐ đặt tại nhà 
trường trong thời gian qua từ học sinh, 
chúng tôi tiến hành trưng cầu ý kiến của 
họ về vấn đề này. Kết quả nghiên cứu 
về vấn đề này được thể hiện ở bảng 1. 
Bảng 1: Mức độ hiểu biết về hoạt động của phòng tâm lý học đường trong 
nhà trường phổ thông của các khách thể khác nhau 
STT Khách thể SL (N) XTB (Mean) SD (Std. Deviation) 
1 Học sinh 700 2,13 0,773 
Với thang đo likert 4 bậc về mức độ 
hiểu biết với 1 điểm là Không biết đến 4 
điểm là Biết rõ đã cho thấy nhóm HS 
với XTB (Mean) = 2,13, F = 27,653, 
p<0,01 đã cho thấy học sinh có khá ít 
hiểu biết về các hoạt động của phòng 
tâm lý trường học. Điều này có thể do 
nhiều nguyên nhân: HS còn thấy hoạt 
động của phòng TLHĐ là tương đối 
mới mẻ, lạ lẫm nên ngại tìm hiểu. Bên 
cạnh đó, nhiều HS vẫn còn sợ dư luận 
đám đông của bạn bè, sự trêu chọc của 
bạn bè khi mình xuống/tìm hiểu/thậm 
chí là tham gia các hoạt động của 
phòng. Em H.T.P.T, học sinh lớp 10 
chia sẻ: “Em có biết sơ sơ ở trường em 
có phòng tâm lý giúp đỡ cho chúng em. 
Hôm có anh ở phòng có phát tờ rơi cho 
chúng em và hôm tổ chức hoạt động 
chuyên đề em có tham gia. Nhưng em 
thấy mình ổn, chưa cần lắm phải tư vấn 
gì đó nên em chưa đến phòng ấy lần 
nào. Các bạn em bảo đến ngại lắm vì 
mọi người lại nói ra nói vô” 
Chúng tôi cũng tiến hành so sánh 
mức độ hiểu biết của học sinh giữa các 
khối lớp, kết quả cho thấy: 
Với học sinh THPT: ANOVA cho 
mức độ hiểu biết về hoạt động của 
phòng TLHĐ của HS theo 3 khối lớp 10, 
11, 12 là F=7,832 với p=0,003<0,05 cho 
thấy có sự khác nhau về mức độ hiểu 
biết về hoạt động của phòng TLHĐ của 
HS theo 3 khối lớp có ý nghĩa về mặt 
thống kê. HS lớp 12 có XTB cao hơn cả 
(XTB=2,67) hơn hai khối lớp còn lại. 
Phỏng vấn sâu HS cũng cho kết quả 
tương tự. Em L.T.T.N, HS lớp 12 cho 
biết: “Em có tham gia với chị phòng tâm 
lý học đường ấy mấy hoạt động, chị ấy 
rất vui tính và tâm lý nữa. Em có nói 
chuyện với chị ấy nên biết về phòng này 
của nhà trường. Đây là năm học đầu tiên 
trường em có phòng này, nhiều bạn tò 
mò lắm nhưng không dám đến phòng vì 
ngại. Chúng em cũng có nhiều điều 
muốn được tư vấn lắm, đặc biệt sắp tới 
chúng em thi vào đại học” 
Giữa 2 trường THPT, ANOVA 
F=5,637 với p=0,016>0,001 cho thấy sự 
khác nhau về mức độ hiểu biết về hoạt 
động của phòng TLHĐ của HS theo các 
trường là không có ý nghĩa về mặt thống 
kê. Điều này cho thấy, dù HS ở trường 
THPT công lập hay dân lập thì mức độ 
hiểu biết về hoạt động của phòng TLHĐ 
là khác biệt không đáng kể. 
Với học sinh THCS: ANOVA cho 
mức độ hiểu biết về hoạt động của 
phòng TLHĐ của HS theo 4 khối lớp 6, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
98 
7, 8, 9 là F=8,876 với p=0,0028<0,05 
cho thấy có sự khác nhau về mức độ 
hiểu biết về hoạt động của phòng 
TLHĐ của HS theo 4 khối lớp có ý 
nghĩa về mặt thống kê. HS lớp 8 có 
ĐTB cao hơn cả (=2,88) hơn các khối 
lớp còn lại. Giữa hai trường THCS, 
ANOVA F=5,968 với p=0,013>0,001 
cũng cho thấy sự khác nhau về mức độ 
hiểu biết về hoạt động của phòng 
TLHĐ của HS theo các trường THCS là 
không không đáng kể. 
Kết quả này là tương đối thống nhất 
trên toàn bộ mẫu khách thể và mẫu địa 
bàn nghiên cứu, nhưng cũng cho thấy 
về mức độ chưa phổ quát trong việc 
trang bị hiểu biết cho HS trong nhà 
trường về hoạt động của phòng TLHĐ. 
Nếu HS hiểu biết hơn, hiểu rõ về chức 
năng, nhiệm vụ của phòng TLHĐ thì 
HS dễ dàng đến phòng và hợp tác với 
các hoạt động của phòng hơn. Tuy 
nhiên, khi tiến hành trưng cầu ý kiến 
bằng bảng hỏi để được kết quả này, các 
phòng TLHĐ mới hoạt động được một 
năm trong nhà trường với việc chuyên 
viên TLHĐ phải tiến hành rất nhiều 
hoạt động khác nhau bên cạnh hoạt 
động quảng bá phòng TLHĐ. Chúng tôi 
cho rằng, nếu thời gian hoạt động của 
phòng lâu hơn (phòng được duy trì và 
phát triển hoạt động trong thời gian tới), 
chắc chắn số lượng HS biết về phòng và 
các hoạt động trợ giúp của phòng sẽ rõ 
ràng hơn, từ đó việc phát huy vai trò trợ 
giúp của phòng TLHĐ với các em HS 
sẽ hiệu quả hơn nhiều. 
3.2. Mức độ nhận biết có/tồn tại 
phòng tâm lý học đường trong trường 
Chúng tôi tiến hành trưng cầu ý 
kiến của học sinh về các hoạt động 
chuyên môn của phòng thì thu được kết 
quả thể hiện ở bảng 2. 
Bảng 2: Nhận biết của học sinh về tần suất các hoạt động 
của phòng tâm lý học đường 
Các loại hoạt động XTB SD 
Tham vấn tâm lý cá nhân 1,13 0,574 
Tham vấn tâm lý nhóm 1,12 0,987 
Đánh giá, sàng lọc 1,08 0,588 
Tham vấn nghề nghiệp 1,86 0,675 
Tham vấn khó khăn tuổi dậy thì, sự phát triển 
của lứa tuổi 
1,98 0,674 
Trị liệu tâm lý 1,01 0,763 
Tư vấn cho phụ huynh, giáo viên, cán bộ quản lý 1,00 0,543 
Các chủ đề kỹ năng sống 1,87 0,678 
Nghiên cứu về vấn đề này ở các 
hoạt động của phòng TLHĐ trong một 
năm hoạt động tại trường với 4 mức độ 
diễn ra từ 0 (không biết), 1 (không diễn 
ra), 2 (ít diễn ra < 40% thời gian) và 3 
(diễn ra đều > 40% thời gian). XTB của 
HS ở 3 hoạt động là tham vấn khó khăn 
tuổi dậy thì, sự phát triển của lứa tuổi 
(XTB = 1,98); tham vấn nghề nghiệp 
(XTB = 1,86) và các chủ đề kỹ năng 
sống (XTB = 1,87) là cao hơn cả nhưng 
cũng ở mức tương đương là ít diễn ra. 
Kết quả này chưa phản ánh tần suất 
thực sự diễn ra các hoạt động này trong 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
99 
trường. Trên thực tế, các hoạt động này, 
đặc biệt là các hoạt động hướng dẫn kỹ 
năng sống hoặc tổ chức các hoạt động 
theo chủ đề được diễn ra tương đối 
thường xuyên trong một năm vừa qua 
tại các nhà trường có phòng TLHĐ. Tuy 
nhiên, số HS biết đến hoặc tiếp cận hoạt 
động này nhỏ hoặc có thể chuyên viên 
TLHĐ đã tổ chức nhưng thời điểm tổ 
chức và thời điểm lấy ý kiến đánh giá 
cách nhau xa nên HS có thể bị quên 
hoặc sót. Bên cạnh đó, một chuyên viên 
TLHĐ trong nhà trường phải phụ trách 
số lượng HS lớn, lượng công việc nhiều 
ngay từ những ngày đầu thành lập 
phòng, phải tổ chức nhiều hoạt động 
theo yêu cầu hoạt động của phòng/kế 
hoạch hoạt động của năm học có thể 
ảnh đến việc chuyên sâu tổ chức các 
hoạt động để lại ấn tượng sâu sắc tới 
HS. Chúng tôi cho rằng, nếu duy trì 
phòng TLHĐ trong những năm tới, khi 
“món ăn tinh thần” trở thành quen thuộc 
với HS thì việc HS nhìn nhận và đánh 
giá về các hoạt động của phòng TLHĐ 
sẽ rõ nét hơn. 
3.3. Nhận biết về mục đích và các 
lĩnh vực hỗ trợ học sinh của phòng 
tâm lý học đường 
Để biết được hiệu quả hoạt động 
của mô hình phòng TLHĐ, chúng tôi 
tiến hành nghiên cứu những đánh giá 
của các khách thể khác nhau về việc 
thực hiện được mục đích và các lĩnh 
vực trợ giúp HS của phòng TLHĐ. 
- Nhận biết về mục đích của phòng 
tâm lý học đường: 
Kết quả bảng 3 cho thấy về mức độ 
nhận biết về mục đích của phòng TLHĐ 
trong nhà trường ở các nhóm khách thể 
khác nhau (HS, giáo viên (GV), cán bộ 
quản lý (CBQL) và chuyên viên TLHĐ). 
Bảng 3: Mức độ nhận biết về mục đích của phòng tâm lý học đường (N = 700) 
Mục đích của phòng tâm lý học đường Điểm trung 
bình (ĐTB) 
Độ lệch 
chuẩn (SD) 
Hỗ trợ và tạo điều kiện cho học sinh học tốt 2,48 0,616 
Tạo dựng môi trường lành mạnh 2,48 0,662 
Khuyến khích tiềm năng học sinh 2,36 0,659 
Hỗ trợ phát triển tâm lý học sinh 2,34 0,687 
Giúp công tác quản lý hiệu quả 2,92 0,683 
Chăm sóc sức khỏe tâm thần/tâm lý cho học sinh 2,30 0,609 
Giáo dục kỹ năng sống 2,58 0,677 
Tăng cường khả năng giải quyết vấn đề 2,26 0,680 
Với 3 mức độ từ 1 là không đúng, 2 
là đúng một phần, 3 là rất đúng, XTB 
của nhận biết về mục đích của phòng 
TLHĐ là giáo dục kỹ năng sống là cao 
nhất (XTB=2,58, SD=0,677), tiếp đến là 
mục đích tạo dựng môi trường học tập 
lành mạnh và hỗ trợ, tạo điều kiện để 
HS học tập tốt hơn (XTB=2,48, 
SD=0,662 và 0,616). Điều này có thể dễ 
hiểu vì từ khi thành lập phòng TLHĐ, 
các chuyên viên TLHĐ thường tổ chức 
các hoạt động giáo dục kỹ năng sống 
hoặc các chủ đề về học tập. Những hoạt 
động này là hoạt động nổi bật, tác động 
và ảnh hưởng đến số lượng lớn HS nên 
để lại ấn tượng với các em. Do đó, các 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
100 
em nghĩ rằng, mục đích chính của công 
tác TLHĐ trong nhà trường là tổ chức 
các chương trình kỹ năng sống và các 
chương trình này đều mang lại lợi ích 
cho việc học tập và cuộc sống của các 
em. Phỏng vấn sâu HS, kết quả cũng 
cho tương tự khi đa số HS được phỏng 
vấn đều cho rằng phòng TLHĐ là 
phòng tổ chức dạy kỹ năng sống, thậm 
chí có em còn cho rằng, các anh chị 
chuyên viên TLHĐ là giáo viên dạy kỹ 
năng sống. N.P.A, học sinh lớp 6 cho 
biết: “Con nghĩ là anh T (chuyên viên 
TLHĐ) là giáo viên dạy kỹ năng sống 
vì anh ấy tổ chức chương trình rất hay 
và có duyên. Do đó, nếu hỏi con có biết 
mục đích của phòng tâm lý không thì 
con nghĩ là để dạy kỹ năng sống. Còn dĩ 
nhiên, phòng ấy có ở trường con là để 
làm điều có ích cho học sinh tụi con thì 
nhà trường mới đồng ý cho làm chứ, 
con nghĩ vậy!” 
- Nhận biết về các lĩnh vực hỗ trợ 
học sinh của phòng tâm lý học đường: 
Với các lĩnh vực hỗ trợ HS của 
phòng TLHĐ, chúng tôi tiến hành tìm 
hiểu mức độ nhận thức của các mẫu 
khách thể với 3 mức độ: 1- Không 
đúng; 2- Phần nào đúng; 3- Hoàn toàn 
đúng. Kết quả được thể hiện ở bảng 4. 
Bảng 4: Mức độ nhận biết về các lĩnh vực hỗ trợ học sinh 
của phòng tâm lý học đường 
Các lĩnh vực hỗ trợ học sinh của phòng tâm 
lý học đường 
Điểm trung 
bình (ĐTB) 
Độ lệch 
chuẩn (SD) 
Lo âu, trầm cảm 1,74 0,728 
Xa lánh 1,70 0,691 
Sức khỏe thể chất 1,89 0,698 
Quan hệ với giáo viên 2,13 0,600 
Khó khăn trong học tập 2,24 0,691 
Hành vi gây hấn 1,92 0,601 
Động cơ học tập 2,09 0,6730 
Xây dựng kế hoạch tương lai 2,22 0,658 
Vấn đề cá nhân, gia đình 1,90 0,640 
Định hướng cuộc sống 2,28 0,619 
Định hướng nghề nghiệp 2,00 0,650 
Hợp tác, trao đổi với phụ huynh 2,00 0,650 
Các hành vi chống đối và phạm pháp 1,84 0,725 
Stress 1,84 0,737 
Quan hệ bạn bè 2,06 0,676 
Sự biến động về XTB bảng 4 cho biết 
về mức độ nhận biết về các lĩnh vực mà 
phòng TLHĐ có thể trợ giúp HS có thể 
thực hiện từ 1,70 (xa lánh) đến 2,28 
(định hướng cuộc sống). XTB cao nhất là 
ở lĩnh vực định hướng cuộc sống 
(XTB=2,28; SD=0,619), xây dựng kế 
hoạch tương lai (XTB=2,22; SD=0,658), 
khó khăn học tập (XTB=2,24; SD=0,691) 
và định hướng nghề nghiệp (XTB=2,00, 
SD=0,650) với giá trị tương đương 
“phần nào đúng”, thể hiện 4 lĩnh 
vực/vấn đề hỗ trợ này được các em HS 
nhận thức tốt hơn. Điều này đã cho thấy, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
101 
HS đã hiểu rõ hơn về các lĩnh vực mà 
phòng TLHĐ có thể tiến hành để trợ 
giúp HS trong trường và còn kỳ vọng 
nhiều lĩnh vực khác nữa mà phòng có 
thể trợ giúp cho HS. Phỏng vấn sâu về 
vấn đề này ở HS càng làm rõ hơn nhận 
định trên. T.T.G, HS lớp 12 cho biết: 
“Em nghĩ với những học sinh cuối cấp 
như chúng em rất cần biết về nghề 
nghiệp, về định hướng tương lai. Chị ở 
phòng TLHĐ trường em đã giúp chúng 
em phần nào về điều đó. Nhưng các nội 
dung khác cũng cần cho học sinh như gỡ 
rối về tâm lý, tình cảm, tư vấn khi đi thi, 
tư vấn cách giải tỏa căng thẳng khi học 
tập.” Còn N.T.T. Dung, HS lớp 7 lại 
cho biết: “Tụi con gặp khó khăn nhất là 
bạn bè bỏ rơi, tẩy chay tụi con. Khi chơi 
với bạn không biết cách chơi, chọn chơi 
với bạn, làm cho bạn vui. Vì vậy, con 
nghĩ phòng tâm lý nhà trường nên tư vấn 
cho tụi con về vấn đề này để bạn bè tụi 
con chơi với nhau được vui vẻ hơn ạ” 
3.4. Nhận biết về sự hợp tác/phối 
hợp của phòng tâm lý học đường 
Để có đánh giá và nhìn nhận về 
hiệu quả của mô hình phòng TLHĐ 
trong nhà trường sau thời gian triển 
khai hoạt động thì việc nhận biết được 
có sự phối hợp giữa phòng TLHĐ với 
các bộ phận khác trong nhà trường hay 
không cũng là một nội dung cần được 
quan tâm, xem xét và nghiên cứu. Kết 
quả khảo sát thể hiện trong bảng 5. 
Bảng 5: Nhận biết về mức độ hợp tác/phối hợp của phòng tâm lý học đường 
 Số lượng 
(N) 
Điểm trung 
bình (ĐTB) 
Độ lệch 
chuẩn (SD) 
Nhận biết về mức độ phối hợp giữa 
phòng TLHĐ với các bộ phận khác 
447 2,54 0,932 
Kết quả phân tích cho thấy, 
XTB=2,54; SD=0,932 tương đương với 
mức độ phần nào chưa tốt và phần nào 
tốt. SD của nhóm khách thể này tương 
đối cao phần nào đã thể hiện ý kiến trả 
lời của HS về mức độ phối hợp giữa 
phòng TLHĐ với các bộ phận khác 
trong nhà trường là không đồng nhất, có 
sự phân tán rộng giữa các ý kiến trả lời. 
Thậm chí, khi tiến hành phỏng vấn sâu 
về vấn đề này, chúng tôi nhận thấy có 
những HS trả lời mang tính chủ quan 
cao. Em H.Đ.D, HS lớp 6 cho biết: 
“Vấn đề này ý ạ, em nghĩ là phải phối 
hợp tốt mới làm tốt chứ. Em cho rằng 
có sự phối hợp tốt”. Còn H.H.Q, HS lớp 
9 cho biết: “Em không quan tâm lắm, 
miễn là giúp đỡ cho chúng em là chúng 
em ủng hộ ạ!” 
Qua khảo sát, các trường chưa có 
quy định, quy chế, quy trình về sự tham 
dự, thu nhận ý kiến của chuyên viên 
TLHĐ trong các công tác HS. Đối với 
trường hợp HS gặp rắc rối về mặt tâm 
lý, GV chỉ hướng dẫn HS đó đến phòng 
TLHĐ. Sau đó, việc trao đổi giữa 
chuyên viên TLHĐ với GV về tình hình 
HS đó chỉ mang tính chất cá nhân và 
phụ thuộc rất nhiều vào sự nhiệt tình 
của GV và chuyên viên TLHĐ. Điều 
này thiếu tính chuyên nghiệp. Ở các mô 
hình phòng TLHĐ nước ngoài, chuyên 
viên TLHĐ luôn là thành viên của hội 
đồng GV và luôn là thành phần của 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
102 
cuộc họp nào liên quan tới HS và khi đó 
họ phải có những báo cáo về trường 
hợp HS đó dưới khía cạnh TLHĐ. Ý 
kiến của chuyên viên TLHĐ được xem 
xét kỹ lưỡng cùng với việc xem xét các 
ý kiến khác để đưa ra những hành 
động/quyết định cuối cùng về HS đó 
trên cơ sở đặt quyền lợi của HS lên trên 
quyền lợi của tổ chức. Điều này cũng 
đặt ra cho công tác TLHĐ cần hướng 
tới mang tính chuyên nghiệp để tiếng 
nói (chính xác là những đề xuất mang 
tính chuyên môn) của chuyên viên 
TLHĐ chính thức được coi là một kênh 
thông tin quan trọng, có ảnh hưởng lớn 
đến quyết định của GV, CBQL đối với 
tình hình cụ thể của HS. 
3.5. Nhận biết về lợi ích và mức độ 
hài lòng khi trường có phòng tâm lý 
học đường 
Đánh giá về hiệu quả của mô hình 
phòng TLHĐ trong nhà trường phổ 
thông cần có đánh giá về lợi ích của mô 
hình này mang đến như thế nào và ở 
mức độ nào cho HS, GV và nhà trường. 
Tìm hiểu về điều này chúng tôi trưng 
cầu ý kiến của HS, GV, CBQL và cả 
chuyên viên TLHĐ về những nhận định 
của họ về lợi ích của phòng TLHĐ 
mang lại sau một năm phòng hoạt động 
tại nhà trường. Bên cạnh đó cũng là kết 
quả về mức độ hài lòng của các nhóm 
khách thể về phòng TLHĐ. Kết quả về 
các vấn đề này thu được thể hiện trong 
bảng 6. 
Bảng 6: Nhận biết về lợi ích và mức độ hài lòng khi trường mình có 
phòng tâm lý học đường (N = 700) 
 Điểm trung bình 
(ĐTB) 
Độ lệch 
chuẩn (SD) 
Mức độ hữu ích của học sinh 2,89 0,741 
Mức độ hữu ích của cán bộ quản lý 2,93 0,759 
Mức độ hài lòng đối với hoạt động của 
phòng tâm lý học đường 
1,78 0,598 
Phân tích ANOVA cho mức độ 
mang lại lợi ích/hữu ích trên nhóm 
khách thể là HS, F=l,74, p=0,163>0,05 
và mức độ mang lại lợi ích/hữu ích trên 
khách thể là GV, CBQL là F=l,38, 
p=1,38>0,05 đều không có ý nghĩa về 
mặt thống kê. Điều này cho thấy, việc 
trả lời phiếu trưng cầu ý kiến trong câu 
hỏi về mức độ hữu ích của phòng 
TLHĐ còn phân tán lớn về ý kiến trả 
lời. Có nhiều ý kiến trái chiều về việc 
nhận thấy rõ hay không nhận thấy rõ 
việc hữu ích hay không hữu ích trong 
công tác TVHĐ. Tuy nhiên, cả HS, GV, 
CBQL và chuyên viên TLHĐ đều thống 
nhất đánh giá mức độ hữu ích của hoạt 
động phòng TLHĐ cho HS và cán bộ 
tương đương mức “có ích”. 
Với mức độ hài lòng về hoạt động 
của phòng TLHĐ, XTB của học sinh khá 
thấp (XTB= l,78) tương đương với mức 
“phần nào không hài lòng”. Kết quả 
này cũng thuận với kết quả do Jacob & 
Havlick (2009) đưa ra ở một trường về 
vai trò, nhiệm vụ và mong chờ của họ 
về chuyên viên TLHĐ. Nghiên cứu chỉ 
ra mong muốn của học sinh về các mức 
độ thực hiện công việc của chuyên viên 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
103 
TLHĐ cao hơn với những gì chuyên 
viên TLHĐ đang thực hiện. Theo họ, 
các chuyên viên TLHĐ chưa đảm nhận 
hết vai trò của mình hoặc thể hiện chưa 
rõ các vai trò ấy. 
4. Kết luận và kiến nghị 
4.1. Kết luận 
Sau khi khảo sát đánh giá hiệu quả 
của phòng tâm lý học đường đối với 
nhóm khách thể là học sinh sau một 
năm hoạt động thử nghiệm, chúng tôi 
thu được một số kết quả như sau: 
- Hầu như tất cả học sinh đều nhận 
thấy rằng mô hình phòng tâm lý học 
đường là rất cần thiết trong nhà trường 
phổ thông. Hiệu quả hoạt động của 
phòng TLHĐ thực sự mang lại ý nghĩa 
đối với HS. 
- Mặc dù nhận biết của HS về 
phòng TLHĐ chưa đầy đủ và chính xác 
nhưng bản thân các em cũng nhận thấy 
rằng các hoạt động của phòng TLHĐ đã 
và đang mang lại tác dụng tích cực nhất 
định với các em thông qua các hoạt 
động sinh hoạt chuyên đề như hướng 
nghiệp, tư vấn về sự thay đổi lứa tuổi, 
kỹ năng sống. 
- Đa số học sinh trong mẫu nghiên 
cứu đều khẳng định và thấy được lợi ích 
của phòng TLHĐ trong các nhà trường 
phổ thông. 
- Đa số học sinh đều tương đối hài 
lòng về các hoạt động của phòng TLHĐ 
trong thời gian qua, tuy nhiên cần có 
nhiều điều chỉnh cho phù hợp hơn với 
tình hình thực tế của nhà trường. 
4.2. Kiến nghị 
Để duy trì, phát triển và nhân rộng 
mô hình phòng TLHĐ trong các trường 
phổ thông ở địa bàn tỉnh Đồng Nai, 
chúng tôi đề xuất một số kiến nghị: 
- Tăng cường hơn nữa việc tuyên 
truyền giáo dục nâng cao nhận thức 
của học sinh, phụ huynh học sinh và 
mọi lực lượng sư phạm trong nhà 
trường về vai trò quan trọng của tâm lý 
học học đường. 
- Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng 
nhu cầu hoạt động của phòng tâm lý 
học đường trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. 
- Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ 
chức, các lực lượng trên địa bàn đối với 
việc ứng dụng mô hình tâm lý học học 
đường tại các trường phổ thông. 
- Nên triển khai một cách rộng rãi 
mô hình phòng tâm lý học đường để 
mang lại hiệu quả tích cực cho học sinh. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Văn Thọ và cộng sự (2000), “Xây dựng mô hình chăm sóc sức khỏe 
tâm lý - tâm thần cho học sinh tại Đồng Nai”, Đề tài cấp tỉnh Đồng Nai giai đoạn 
1998 - 2000 
2. Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Minh Thức (2008), “Hệ thống giải pháp nâng cao 
chất lượng giáo dục giới tính ở các trường phổ thông tại Đồng Nai”, Đề tài cấp tỉnh 
Đồng Nai giai đoạn 2006 - 2008 
3. Lê Minh Công, Nguyễn Văn Thọ (2013), Nghiện internet - game online: Lý 
luận và thực tiễn, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 17 - 2020 ISSN 2354-1482 
104 
4. Phạm Văn Thanh, Nguyễn Thọ Hải và cộng sự (2018), Hệ thống giải pháp 
phòng ngừa người chưa thành niên vi phạm pháp luật: Thực trạng và giải pháp, Nxb 
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh 
5. Phạm Thị Hải, Nguyển Văn Cầu, Lê Minh Công, Nguyễn Minh Thức (2015), 
“Báo cáo kết quả đề tài cấp tỉnh „Xây dựng mô hình hoạt động tâm lý học đường tại 
các trường phổ thông trên địa bàn tỉnh Đồng Nai‟”, Đề tài cấp tỉnh Đồng Nai giai 
đoạn 2013 – 2015 
THE EFFECTIVENESS OF THE SCHOOL PSYCHOLOGICAL ROOM 
MODEL IN HIGH SCHOOLS IN BIEN HOA CITY, DONG NAI PROVINCE 
ABSTRACT 
This study aims to evaluate the effectiveness of the school psychological room 
model in high schools in Bien Hoa City, Dong Nai province that were proposed and 
developed by the research team. Using the experimental method without control on 2 
junior high schools and 2 senior high schools (including 2 private schools and 2 
public ones) within 1 school year and self-filling questionnaire survey method with 
a sample of 700 participants in all 4 schools. The research results show that the 
majority of students in the survey sample found that the psychological room model 
was necessary. They understood relatively the room's activities / services, and 
realized the benefits of the room.They all feel satisfied with the room's activities. This 
study provides a very important evidence of the role of the school psychology 
department as well as contributing to the practical operation and development of 
school psychology models in Dong Nai. 
Keywords: School psychology room, student, Bien Hoa, Dong Nai 
(Received: 20/1/2020, Revised: 31/1/2020, Accepted for publication: 3/2/2020) 

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_cua_mo_hinh_phong_tam_ly_hoc_duong_tai_cac_truong_p.pdf