Khảo sát khoang rỗng bên dưới bê tông lát mái thượng lưu vai phải đập thủy điện sê san 4 bằng phương pháp radar xuyên đất

Abstract: Ground Penetrating Radar is a non-destructive exploration

method which is widely used in reinforced concrete survey such as:

defining voids beneath concrete, mapping rebars mesh in reinforced

concrete, or determining the thickness of concrete slabs. With the

advantage of fast survey speed, high resolution, this method has proven its

superiority. The paper presents some new results from applying Ground

Penetrating Radar to investigate voids beneath reinforcement concrete of

Se San 4 hydraulic dam upstream slope. These results have effectively

served the management and assessment of dam safety by management

agencies

pdf 8 trang yennguyen 2080
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát khoang rỗng bên dưới bê tông lát mái thượng lưu vai phải đập thủy điện sê san 4 bằng phương pháp radar xuyên đất", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát khoang rỗng bên dưới bê tông lát mái thượng lưu vai phải đập thủy điện sê san 4 bằng phương pháp radar xuyên đất

Khảo sát khoang rỗng bên dưới bê tông lát mái thượng lưu vai phải đập thủy điện sê san 4 bằng phương pháp radar xuyên đất
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3 - 2019 51 
KHẢO SÁT KHOANG RỖNG BÊN DƯỚI BÊ TÔNG LÁT MÁI 
THƯỢNG LƯU VAI PHẢI ĐẬP THỦY ĐIỆN SÊ SAN 4 
BẰNG PHƯƠNG PHÁP RADAR XUYÊN ĐẤT 
PHẠM LÊ HOÀNG LINH*, DƯƠNG VĂN SÁU*, 
VŨ HOÀNG HIỆP*, LÊ VĂN ĐỨC*, 
HOÀNG VIỆT HÙNG** 
Investigating the void beneath reinforcement concrete of Se San 4 
hydraulic dam upstream slope by Ground Penetrating Radar 
Abstract: Ground Penetrating Radar is a non-destructive exploration 
method which is widely used in reinforced concrete survey such as: 
defining voids beneath concrete, mapping rebars mesh in reinforced 
concrete, or determining the thickness of concrete slabs. With the 
advantage of fast survey speed, high resolution, this method has proven its 
superiority. The paper presents some new results from applying Ground 
Penetrating Radar to investigate voids beneath reinforcement concrete of 
Se San 4 hydraulic dam upstream slope. These results have effectively 
served the management and assessment of dam safety by management 
agencies 
Keywords: Ground Penetrating Radar, void, reinforcement concrete, dam 
safety, Se San 4 hydraulic dam 
1. MỞ ĐẦU* 
Phương pháp Radar xuyên đất là phương 
pháp thăm dò không phá hủy được ứng dụng 
rộng rãi trong các công tác khảo sát bê tông cốt 
thép như: xác định khoang rỗng bên dưới bê 
tông, bản đồ hóa lưới thép trong bê tông cốt 
thép, hay xác định bề dày tấm bê tông. Với ưu 
thế tốc độ khảo sát nhanh, độ phân giải cao, 
phương pháp này đã chứng minh được tính ưu 
việt của mình. Trong bài báo này, chúng tôi 
trình bày một số kết quả mới thu được khi áp 
dụng phương pháp Radar đất để xác định 
khoang rỗng bên dưới bê tông lát mái thượng 
lưu vai phải đập Thủy điện Sê San 4. Kết quả 
này đã phục vụ hiệu quả công tác quản lý và 
đánh giá an toàn đập của các cơ quan quản lý. 
* Phòng Nghiên cứu Ứng dụng Địa vật lý - Viện Sinh 
thái và Bảo vệ công trình 
** Bộ môn Địa Kỹ thuật - Đại học Thủy lợi 
2. GIỚI THIỆU CHUNG 
Thủy điện Sê San 4 là công trình thủy điện 
được xây dựng trên sông Sê San thuộc địa bàn 
xã Ia O, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai và xã Mô 
Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum (Hình 1). 
Đây là đập đất đồng chất, dài 760m, đỉnh đập 
rộng 10m. Mái thượng lưu đập được gia cố 
bằng bê tông cốt thép đổ tại chỗ dày 22cm, 
kích thước mỗi tấm là 4m x 4m. Sau quá trình 
tích nước đưa vào sử dụng, lớp bê tông gia cố 
mái thượng lưu vai phải đập đã bị xuống cấp 
một phần: bề mặt bê tông xuất hiện dấu hiệu 
tróc rỗ, phong hóa; tại một số vị trí bề mặt bê 
tông uốn lượn không bằng phẳng. Các biểu 
hiện bề mặt trên có thể do nguyên nhân 
khoang rỗng bên dưới lớp bê tông gây ra. Khi 
đó, lớp bê tông gia cố sẽ mất tiếp xúc với các 
lớp đệm bên dưới nó, khiến cho dưới áp lực tự 
thân hay dưới áp lực nước lớn, bê tông dễ bị 
 ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3 - 2019 52 
nứt nẻ, biến dạng gây mất an toàn mái đập. Vì 
vậy, khảo sát phát hiện sớm khoang rỗng bên 
dưới lớp bê tông để có biện pháp gia cố, xử lý 
là vô cùng cần thiết tại công trình đập Thủy 
Điện Sê San 4. 
Hình 1. Vị trí vai phải đập Thủy điện Sê San 4 
Hiện nay, việc sử dụng các phương pháp 
thăm dò không phá hủy dựa trên nguyên lý của 
sự lan truyền sóng đàn hồi và sóng điện từ là 
phổ biến cho các mục đích khảo sát công trình 
xây dựng. Các phương pháp có thể kể đến như: 
phương pháp siêu âm (Ultrasonic), phương pháp 
tiếng vang tiếp xúc (Impact echo) và phương 
pháp Radar xuyên đất (Ground Penetrating 
Radar) là được áp dụng rộng rãi nhất. Phương 
pháp siêu âm và phương pháp tiếng vang tiếp 
xúc có ưu thế hơn trong việc xác định các lỗ 
rỗng nhỏ, nứt nẻ bên trong cấu kiện bê tông 
[10]. Nhưng với tốc độ khảo sát nhanh và độ 
phân giải cao, phương pháp Radar xuyên đất đã 
đạt được nhiều thành tựu không thể phủ nhận, 
đặc biệt trong việc phát hiện các khoang rỗng 
bên dưới tấm bê tông [2, 5, 8, 10]. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng 
phương pháp Radar xuyên đất để xác định vị trí 
các khoang rỗng bên dưới bê tông lát mái 
thượng lưu vai phải đập Thủy điện Sê San 4. 
3. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 
Phương pháp Radar xuyên đất là phương 
pháp địa vật lý thăm dò không phá hủy, có tốc 
độ nhanh, độ phân giải cao, có thể đo ghi và 
biểu diễn kết quả liên tục theo thời gian thực. 
Phương pháp trên sử dụng sóng điện từ có tần 
số từ 10MHz đến 2,6GHz để điều tra các đặc 
điểm bên dưới bề mặt [3, 7]. Sóng điện từ lan 
truyền trong môi trường đất với vận tốc được 
biểu diễn theo công thức: 
V = c/ εr
1/2 (1) 
Trong đó: εr là hằng số điện môi của đất; 
c = 0,3 m/ns là vận tốc truyền sóng điện từ 
trong không khí; 
v (m/ns) là vận tốc truyền sóng điện từ trong 
đất. [4, 6, 9] 
Khi gặp các ranh giới mà vận tốc truyền 
sóng điện từ thay đổi qua ranh giới đó hay nói 
cách khác là các ranh giới của 2 môi trường có 
giá trị hằng số điện môi khác nhau, sóng điện 
từ bị phản xạ một phần, với hệ số phản xạ được 
tính theo công thức: 
 (2) 
trong đó: - là hằng số điện môi tương đối 
của môi trường thứ nhất. 
 - là hằng số điện môi tương đối của môi 
trường thứ hai. [4]. 
Giá trị hằng số điện môi của một số vật liệu 
được trình bày trong Bảng 1. [6] 
Hình 2. Hệ thiết bị Radar xuyên đất bao gồm 
khối điều khiển và ăng ten 400MHz 
Hệ thiết bị Radar xuyên đất cơ bản bao gồm 
một khối điều khiển (GPR controller) được kết 
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3 - 2019 53 
nối với ăng ten phát và ăng ten thu thông qua 
cáp truyền tín hiệu, bên cạnh đó còn có một số 
phụ kiện đi kèm như GPS, bánh xe khảo sát 
(Hình 2). Xung sóng điện từ qua ăng ten phát 
được lan truyền vào môi trường. Khi sóng điện 
từ đi trong môi trường, một phần năng lượng 
được phản hồi khi gặp các ranh giới thay đổi về 
hằng số điện môi, một phần khác tiếp tục đi 
xuyên sâu hơn. Phần năng lượng phản hồi từ 
môi trường mang theo thông tin về đối tượng 
quan tâm được ăng ten thu ghi lại. Các tín hiệu 
phản hồi sau đó được khối điều khiển tập hợp 
lại dưới dạng mặt cắt Radar (Radar image) 
(Hình 3). Điều này giúp người sử dụng theo 
dõi chất lượng tín hiệu thu thập được ở thời 
gian thực. Xử lý, phân tích tín hiệu sóng điện 
từ phản hồi này cung cấp cho chúng ta thông 
tin về đặc điểm của các đối tượng quan tâm 
bên dưới bề mặt. 
Bảng 1. Giá trị hằng số điện môi 
của một số vật liệu 
STT Tên vật chất 
Giá trị 
hằng số 
điện môi r 
1 Không khí 1 
2 Đất khô 5 
3 Đất ướt 25 
4 Nước ngọt 81 
5 Đất bồi 5-30 
6 Đất sét 5-40 
7 Đá phiến sét 5-15 
8 Đá granit 4-6 
9 Đá vôi 4-8 
10 Cát khô 3-5 
11 Cát ướt 20-30 
12 Nước biển 80 
13 Kim loại dẫn điện ∞ 
Hình 3. Nguyên lý hình thành mặt cắt Radar 
Các đại lượng vật lý đặc trưng của sóng điện 
từ được dùng trong phương pháp Radar đất như: 
vận tốc truyền sóng (v), bước sóng (λ), hệ số 
suy giảm (α), hằng số điện môi tương đối hay 
độ điện thẩm tương đối (r), độ từ thẩm (μ), độ 
dẫn điện (σ) 
Độ sâu khảo sát của phương pháp phụ thuộc 
vào tần số của ăng ten phát thu và tính chất vật 
lý của môi trường địa chất trong đó giá trị hằng 
số điện môi tương đối ) và độ dẫn điện (σ) 
là chủ yếu. Tần số càng cao, độ dẫn điện và 
hằng số điện môi càng lớn thì chiều sâu khảo sát 
càng nhỏ. [1, 2] 
Độ phân giải dọc của phương pháp Radar 
 ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3 - 2019 54 
xuyên đất là khoảng cách giữa các phản xạ phân 
biệt trên một đường ghi tín hiệu [6]. Nói cách 
khác là khoảng cách cần thiết để phân biệt được 
hai đối tượng nằm sát nhau (khoảng cách này 
được ký hiệu là X). Theo nguyên lý Niyquist, X 
trong môi trường lý tưởng nhận giá trị là 0,25λ, 
trong môi trường thực tế X > 0,5 λ, với λ là 
bước sóng của tín hiệu điện từ trong môi trường 
được xác định qua công thức: λ = V/f (V là vận 
tốc truyền sóng điện từ trong môi trường, f là 
tần số của ăng ten). Như vậy, trong một môi 
trường nhất định, tần số ăng ten càng cao thì độ 
phân dải càng tốt và ngược lại. 
Bê tông là vật liệu ít hấp thụ năng lượng sóng 
điện từ do có giá trị hằng số điện môi thấp 
(ε=7÷12), nên đây là môi trường khá lý tưởng 
cho thăm dò bằng phương pháp Rada xuyên đất. 
Tuy nhiên, đối với bê tông cốt thép lại là một 
trường hợp khác biệt. Lưới thép bên trong bê 
tông cốt thép là tác nhân chính cản trở sóng điện 
từ truyền qua lớp bê tông để thăm dò các đối 
tượng bên dưới. Thép có hằng số điện môi vô 
cùng lớn (ε ~ ∞) nên nó gần như hấp thụ và 
phản xạ lại toàn bộ năng lượng sóng điện từ 
truyền đến. Để có thể thăm dò các đối tượng bên 
dưới lưới thép, xung sóng điện từ phải có bước 
sóng nhỏ hơn khoảng cách mắt thép [4]. Bước 
sóng của xung sóng điện từ trong môi trường 
được xác định qua công thức: 
λ= v/f (3) 
Trong đó: λ (m) là bước sóng của xung sóng 
điện từ trong môi trường; 
v (m/ns) là vận tốc sóng điện từ truyền trong 
môi trường; 
f (GHz) là tần số của xung sóng điện từ. 
Vận tốc truyền sóng điện từ trong bê tông là 
một giá trị xác định, nên để sóng điện từ có thể 
đi xuyên qua lưới thép chúng ta cần lựa chọn 
tần số phát của ăng ten thích hợp sao cho bước 
sóng của xung sóng điện từ (λ) nhỏ hơn khoảng 
cách mắt thép. Nếu bước sóng của xung sóng 
điện từ lớn hơn khoảng cách mắt thép thì năng 
lượng sóng bị lưới thép chặn lại và phản xạ 
nhiều lần tại đó, chúng ta sẽ không thu được 
thông tin về môi trường bên dưới lưới thép. Mặt 
khác, khi bước sóng của xung sóng điện từ nhỏ 
hơn khoảng cách mắt thép thì xung sóng có thể 
xuyên qua lưới thép để đem về thông tin của đối 
tượng bên dưới, ở đây đối tượng bên dưới lưới 
thép được quan tâm là khoang rỗng. 
Khoang rỗng bên dưới lớp bê tông gây ra sự 
tương phản lớn về giá trị hằng số điện môi so 
với môi trường bê tông bên trên với giá trị hằng 
số điện môi của không khí trong khoang rỗng là 
1 (εkk = 1) và giá trị hằng số điện môi của bê 
tông thay đổi từ 7 đến 12 (ε = 7 ÷ 12) phụ thuộc 
vào độ trưởng thành và hàm lượng xi măng 
trong bê tông. Chính vì sự tương phản này mà 
Radar xuyên đất có thể dễ dàng phát hiện được 
các khoang rỗng. Trên mặt cắt Radar xuyên đất, 
khoang rỗng được biểu thị như một “điểm sáng” 
tạo nên bởi các xung sóng phản xạ có biên độ 
lớn [3]. 
4. KHẢO SÁT KHOANG RỖNG BÊN 
DƯỚI BÊ TÔNG LÁT MÁI THƯỢNG LƯU 
VAI PHẢI ĐẬP THỦY ĐIỆN SÊ SAN 4 
4.1. Công tác khảo sát thực địa 
4.1.1. Thiết bị sử dụng 
Để thực hiện nghiên cứu này, chúng tôi sử 
dụng hệ thiết bị Radar xuyên đất SIR 30, hãng 
GSSI, Mỹ. Hệ thiết bị bao gồm khối điều khiển 
SIR 30 và ăng ten phát thu có tần số 900MHz. 
Việc lựa chọn tần số ăngten phụ thuộc vào tính 
chất của môi trường và đối tượng nghiên cứu. 
Đối tượng nghiên cứu là khoang rỗng nằm 
dưới tấm bê tông cốt thép dày 0,22m, có 02 lớp 
thép với khoảng lưới thép là 0,2m. Để có thể thu 
được tín hiệu Radar phản hồi từ đối tượng, bước 
sóng của tín hiệu Radar phải nhỏ hơn khoảng 
lưới thép, hay λ < 0,2m. Vận tốc truyền sóng 
điện từ trong bê tông nằm trong khoảng 0,08-
0,11 m/ns tương ứng với giá trị hằng số điện 
môi ε = 12 ÷ 7 (theo công thức 1). Mặt khác để 
đáp ứng yêu cầu về độ sâu nghiên cứu, năng 
lượng sóng điện từ phải đến được đối tượng và 
quay trở lại mà không bị hấp thụ hết bởi môi 
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3 - 2019 55 
trường. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn ăngten tần số 
900MHz cho khảo sát này. 
4.1.2. Biện pháp khảo sát và bố trí tuyến đo 
Trong phương pháp Radar xuyên đất có 
nhiều biện pháp khảo sát như: mặt cắt sóng 
phản xạ, đo truyền xuyên qua (phương pháp 
chiếu sóng), đo điểm sâu chung. Để thực hiện 
khảo sát này, chúng tôi sử dụng biện pháp mặt 
cắt sóng phản xạ, đây là phương pháp thường 
dùng nhất trong khảo sát với việc kéo ăngten 
theo một tuyến thì kết quả cho ra một mặt cắt 
mô phỏng mặt cắt địa chất ở phía dưới theo 
phương thẳng đứng. Trong quá trình đo ăngten 
luôn luôn phát và luôn thu, quá trình này dừng 
lại khi ta kết thúc tuyến đo. 
Hệ thống tuyến đo được bố trí theo các tuyến 
đo dọc song song với mặt đập (có cùng cao độ) 
sao cho trên một tấm bê tông lát mái bố trí tối 
thiểu 02 tuyến đo và khoảng cách giữa các 
tuyến đo là 2m. Mỗi tuyến đo được chia thành 
các đoạn nhỏ có độ dài 50m. Vị trí đầu và cuối 
của mỗi đoạn đều được đánh số thứ tự và có tọa 
độ chính xác. Trong trường hợp phát hiện có dị 
thường trên tuyến đo thì bố trí một số tuyến đo 
bổ sung theo mạng lưới ô vuông, với khoảng 
cách giữa các tuyến đo là 0,5m/tuyến đo. 
4.2. Xử lý số liệu 
Số liệu đo đạc được xử lý bằng phần mềm 
RADAN7 với các phép xử lý quan trọng như: 
hiệu chỉnh điểm 0, lọc tần số, khuếch đại tín hiệu. 
4.2.1. Hiệu chỉnh điểm 0 (Timezero 
correction) 
Do sự trễ thời gian truyền sóng từ ăng ten đến 
mặt đất nên ranh giới không khí-mặt đất không 
nằm ở mốc 0. Điều này khiến cho sự minh giải độ 
sâu của đối tượng bị sai lệch đáng kể. Để đưa 
phản xạ của mặt đất trở về đúng với mốc 0, ta phải 
áp dụng các thuật toán nhằm hiệu chỉnh điểm 0. 
Thông thường mốc 0 sẽ được hiệu chỉnh về đỉnh 
cực đại của xung phản xạ đầu tiên. 
4.2.2 Lọc tần số (Bandpass filter) 
Tín hiệu sóng điện từ thu được tồn tại nhiễu 
đến từ nhiều nguồn khác nhau. Các nguồn gây 
nhiễu có thể đến từ các thiết bị phát sóng điện từ 
khác hoặc là tín hiệu điện từ phản hồi từ các vật 
thể không phải đối tượng quan tâm. Để tăng tỷ lệ 
tín hiệu trên nhiễu, ta sử dụng bộ lọc tần số theo 
phương thẳng đứng. Bộ lọc được đặc trưng bằng 
các hàm lọc trong miền tần số, giúp loại bỏ các 
thành phần tần số không liên quan đến đối tượng. 
4.2.3 Khuếch đại tín hiệu (Gain) 
Tín hiệu Radar bị suy giảm rất nhanh khi lan 
truyền vào lòng đất. Cường độ tín hiệu từ các độ 
sâu lớn có giá trị bé hơn rất nhiều so với cường 
độ tín hiệu ở độ sâu nhỏ. Do vậy, các phản xạ ở 
sâu trở nên khó nhận biết. Bằng cách áp dụng 
các hàm khuếch đại tín hiệu theo thời gian để bù 
đắp phần năng lượng mất mát khi sóng điện từ 
lan truyền trong môi trường, tín hiệu từ đối 
tượng có thể được xác định dễ dàng hơn. 
4.3. Kết quả khảo sát 
Trong phạm vi khảo sát từ cao độ +210,00 
(cao trình mực nước chết) đến cao độ +221,40 
(cao trình đỉnh mặt đập) thuộc vai phải đập Thủy 
điện Sê San 4, chúng tôi phát hiện một số khu 
vực bê tông có tồn tại khoang rỗng bên dưới. 
Khu vực 1 
Hình 4. Hình ảnh nội soi lỗ khoan thể hiện 
khoang rỗng nhỏ dưới lớp bê tông ở độ sâu 
11,5cm tại khu vực 1 
Dị thường nằm trong khoảng 13-18m thuộc 
các tuyến 38-39, 53-52, 68-69, có cao độ lần 
lượt là +219,94m; +219,31m; +218,67m. Dị 
 ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3 - 2019 56 
thường này nằm toàn bộ trong phạm vi 1 tấm bê 
tông. Kết quả phân tích dị thường cho thấy, khu 
vực xuất hiện dị thường có độ dày bê tông nhỏ 
hơn so với thiết kế (10-12cm), thiếu cốt thép 
bên trong và bên dưới tấm bê tông lát mái tồn 
tại khoang rỗng nhỏ, diện tích khu vực khoang 
rỗng khoảng 6m2. Phân bố khu vực dị thường 
được thể hiện trên hình 9. 
Khu vực dị thường đã được kiểm tra bằng 
02 lỗ khoan và chụp ảnh nội soi trong lỗ 
khoan. Kết quả nội soi tại cả hai lỗ khoan 
cho thấy: độ dày lớp bê tông là 11,5cm và 
bên dưới lớp bê tông tồn tại khoang rỗng 
nhỏ (0,02-0,03m). Kết quả này là tương 
đồng với kết quả minh giải tài liệu Radar đất 
tại khu vực. 
Hình 5. Kết quả khảo sát thể hiện dị thường trong khoảng 13-18m trên tuyến 68-69, ở cao trình 
+218,67m, tọa độ đầu tuyến (445287,94; 1545717,62), tọa độ cuối tuyến (445277,41; 1545668,74) 
Hình 6. Kết quả khảo sát thể hiện dị thường trong khoảng 14-17m trên tuyến 53-52, ở cao trình 
+219,31m, tọa độ đầu tuyến (445286,08; 1545718,01), tọa độ cuối tuyến (445275,55; 1545669,14) 
Hình 7. Kết quả khảo sát thể hiện dị thường trong khoảng 15-18m trên tuyến 38-39, ở cao trình 
+219,94m, tọa độ đầu tuyến (445284,22; 1545718,41), tọa độ cuối tuyến (445273,69; 1545669,53) 
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3 - 2019 57 
Khu vực 2: 
Dị thường nằm trong khoảng 29,5-32m trên 
tuyến 280-281, ở cao trình +211,02m, tọa độ đầu 
tuyến (445250,85; 1545418,76), tọa độ cuối tuyến 
(445240,28; 1545369,89). Kết quả minh giải tài 
liệu Radar xuyên đất cho thấy đây là dị thường 
liên quan đến khoang rỗng bên dưới lớp bê tông. 
Chúng tôi tiến hành khảo sát chi tiết để chính 
xác hóa vị trí khoang rỗng. Phân tích kết quả 
khảo sát chi tiết cho thấy khu vực khoang rỗng 
có diện tích nhỏ (~2m2) và chiều cao khoang 
rỗng ~0,04m. Phân bố khu vực dị thường được 
thể hiện trên hình 10. 
Hình 8. Kết quả khảo sát thể hiện dị thường trong khoảng 29,5-32m trên tuyến 280-281, 
 ở cao trình +211,02m, tọa độ đầu tuyến (445250,85; 1545418,76), 
tọa độ cuối tuyến (445240,28; 1545369,89) 
Hình 9. Phạm vi khu vực dị thường số 1 
Hình 10. Phạm vi khu vực dị thường số 2 
5. KẾT LUẬN 
Từ kết quả khảo sát xác định khoang rỗng 
bên dưới bê tông lát mái thượng lưu vai phải 
đập Thủy điện Sê San 4 bằng phương pháp 
Radar xuyên đất, có một số nhận xét như sau: 
1. Phương pháp Radar xuyên đất là phương 
pháp thăm dò không phá hủy hiệu quả trong 
việc xác định khoang rỗng bên dưới lớp bê tông 
cốt thép. 
2. Hệ thiết bị Radar xuyên đất với ăng ten tần 
 ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 3 - 2019 58 
số 900MHz đáp ứng được yêu cầu về độ phân 
giải và chiều sâu nghiên cứu trong khảo sát các 
bê tông cốt thép có độ dày từ 0,2-0,4m, 02 lớp 
thép, khoảng cách mắt thép là 0,15-0,2m. Hệ 
thiết bị này cho phép phát hiện các vị trí bê tông 
bị thiếu hụt cốt thép và các khoang rỗng nhỏ 
(0,02-0,04m) bên dưới lớp bê tông. 
3. Kết quả của nghiên cứu đã phục vụ hiệu 
quả công tác quản lý và đánh giá an toàn đập 
của các cơ quan quản lý. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Đỗ Anh Chung, Nguyễn Văn Lợi, 
Phạm Lê Hoàng Linh, Dương Văn Sáu, Vũ 
Hoàng Hiệp, Trần Thế Việt (2019). Đánh giá 
hiện trạng đê bằng tổ hợp các phương pháp 
địa vật lý: Điện đa cực và Radar đất. Tạp chí 
Địa kỹ thuật (Geotechnical Journal) Số 1-
2019, 43-50. 
[2] Đỗ Anh Chung, Nguyễn Văn Lợi, Vũ 
Đức Minh (2013).Áp dụng phương pháp 
Radar đất để xác định “thoát không” dưới bê 
tông bản mặt đập Cửa Đạt. Tạp chí Khoa học 
ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công 
nghệ, Tập 29, 8-15. 
[3] A.P.Annan (2003). Ground penetrating 
radar Principles, Procedures and Applications. 
Sensors & Software Inc. 
[4] Andrea Bebedetto, Lara Pajewshi 
(2015). Civil engineering application of Ground 
penetrating radar. Springer. 
[5] Brett Kravitz, Michael Mooney, Jurij 
Karlovsek, Ian Danielson, Ahmandreza Hedayat 
(2019). Void detection in two-component 
annulus grout behind a pre-cast segmental 
tunnel liner using Ground Penentrating Radar. 
Tunnneling and Underground Space 
Technology 83, 381-392. 
[6] Daniels, D.J. (2004). Ground 
Penetrating Radar 2nd Edition. IET. The 
Institution of Electrical Engineers, London. 
[7] Erica Carrick Utsi (2017). Ground 
penetrating radar Theory and Applications. 
Butterworth-Heinemann, Elsevier. 
[8] Giannopoulos, A., Macintyre, P., Rodgers, 
S., Forde, M.C. (2002). GPR detection of voids in 
post-tensioned concrete bridge beams. SPIE 
Proceedings of the Ninth International 
Conference on Ground Penetrating Radar , pp. 
376–381 
[9] Lawrence B.Conyers (2012). 
Interpreting Ground-penetrating Radar for 
Archaeology. Left Coast Press, Inc. 
[10] Nigel J.Cassidy, Rod Eddies, Sam Dods 
(2011).Void detection beneath reainforced 
concrete sections: The practical application of 
ground penetrating radar and ultrasonic 
techniques. Journal of Applied Geophysics 74, 
263-276.
Người phản biện: PGS.TSKH TRẦN MẠNH LIỂU 

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_khoang_rong_ben_duoi_be_tong_lat_mai_thuong_luu_vai.pdf