Một số tính chất của dịch Bacteriocin từ hai chủng vi khuẩn lactic chứng tỏ tiềm năng ứng dụng của chúng trong bảo quản nguyên liệu thủy sản ở Việt Nam
TÓM TẮT Việc sử dụng bacteriocin - Peptide kháng khuẩn từ vi khuẩn lactic để ức chế sự phát triển của các vi sinh vật nhằm kéo dài thời gian bảo quản và nâng cao mức độ an toàn thực phẩm là một hướng nghiên cứu có nhiều triển vọng. Mục tiêu của nghiên cứu này là khảo sát hiệu suất tách chiết bacteriocin thô từ dịch canh trường của hai chủng vi khuẩn lactic T8 và T13, đồng thời xác định độ bền của dịch bacteriocin với nhiệt độ, pH và enzyme. Kết quả chỉ ra rằng qui trình tách bacteriocin thô từ canh trường vi khuẩn lactic đạt hiệu suất 92,1% đối với chủng T8 và 77,2% với T13. Hoạt độ bacteriocin thô từ chủng T8 là 6000 AU/ml và từ chủng T13 là 8000 AU/ml khi sử dụng chủng chỉ thị là Bacillus 1.1. Bacteriocin từ 2 chủng này đều bền với điều kiện nhiệt độ khử trùng, với khoảng pH rộng từ 4-10 và với enzym proteinase K nhưng bị bất hoạt hoàn toàn bởi enzym α-chymotrypsin. Những tính chất này chứng tỏ tiềm năng ứng dụng của bacteriocin trong bảo quản thực phẩm nói chung và nguyên liệu thủy sản nói riêng ở Việt Nam
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số tính chất của dịch Bacteriocin từ hai chủng vi khuẩn lactic chứng tỏ tiềm năng ứng dụng của chúng trong bảo quản nguyên liệu thủy sản ở Việt Nam
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2012 88 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG MỘT SỐ TÍNH CHẤT CỦA DỊCH BACTERIOCIN TỪ HAI CHỦNG VI KHUẨN LACTIC CHỨNG TỎ TIỀM NĂNG ỨNG DỤNG CỦA CHÚNG TRONG BẢO QUẢN NGUYÊN LIỆU THỦY SẢN Ở VIỆT NAM SOME CHARACTERISTICS OF BACTERIOCIN EXTRACTS FROM TWO STRAINS OF LACTIC ACID BACTERIA REVEAL THEIR POTENTIAL APPLICATION FOR SEAFOOD PRESERVATION IN VIETNAM TS. Nguyễn Văn Duy1, ThS. Nguyễn Thị Hải Thanh2 TÓM TẮT Việc sử dụng bacteriocin - peptide kháng khuẩn từ vi khuẩn lactic để ức chế sự phát triển của các vi sinh vật nhằm kéo dài thời gian bảo quản và nâng cao mức độ an toàn thực phẩm là một hướng nghiên cứu có nhiều triển vọng. Mục tiêu của nghiên cứu này là khảo sát hiệu suất tách chiết bacteriocin thô từ dịch canh trường của hai chủng vi khuẩn lactic T8 và T13, đồng thời xác định độ bền của dịch bacteriocin với nhiệt độ, pH và enzyme. Kết quả chỉ ra rằng qui trình tách bacteriocin thô từ canh trường vi khuẩn lactic đạt hiệu suất 92,1% đối với chủng T8 và 77,2% với T13. Hoạt độ bacteriocin thô từ chủng T8 là 6000 AU/ml và từ chủng T13 là 8000 AU/ml khi sử dụng chủng chỉ thị là Bacillus 1.1. Bacteriocin từ 2 chủng này đều bền với điều kiện nhiệt độ khử trùng, với khoảng pH rộng từ 4-10 và với enzym proteinase K nhưng bị bất hoạt hoàn toàn bởi enzym α-chymotrypsin. Những tính chất này chứng tỏ tiềm năng ứng dụng của bacteriocin trong bảo quản thực phẩm nói chung và nguyên liệu thủy sản nói riêng ở Việt Nam. Từ khóa: bacteriocin, bảo quản thực phẩm, nguyên liệu thủy sản, vi khuẩn lactic ABSTRACT Bacteriocins - antimicrobial peptides from lactic acid bacteria are expected to be popularly used for expanding the preservation time and enhancing the safety of foods. The present study aims to investigate the effi ciency of bacteriocin extraction from cell cutlture of two lactic acid bacteria strains T8 and T13, and to defi ne the stability of bacteriocins to heat, pH and enzyme. Results have shown that the effi ciency of bacteriocin extraction from the strains T13 and T8 approaches 92.1% and 77.2%, respectively. The activity of bacteriocin from the strain T8 is determined as 6000 AU/ml and from the strain T13 as 8000 AU/ml against with the indicator strain Bacillus 1.1. Bacteriocins from both strains are stable in autoclave condition, to a broad pH range of 4-10 and to enzyme proteinase K but completely inactivated by α-chymotrypsin. These characteristics of bacteriocins reveal their potential application for preservation of seafoods in Vietnam. Keywords: bacteriocin, food preservation, lactic acid bacteria, seafood 1, 2 Viện Công nghệ Sinh học & Môi trường – Trường Đại học Nha Trang THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC I. ĐẶT VẤN ĐỀ Một trong những ứng dụng của công nghệ sinh học trong chế biến thực phẩm là tuyển chọn và cải thiện các chủng vi sinh vật và các sản phẩm từ chúng, với mục tiêu hướng tới là tối ưu các qui trình sản xuất cũng như chất lượng, độ an toàn và ổn định của các sản phẩm thực phẩm. Trong nhiều thập kỷ qua, việc sử dụng ồ ạt các chất phụ gia trong bảo quản và chế biến thực phẩm đã trở thành một vấn đề đáng lo ngại với sức khỏe người tiêu Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2012 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG 89 dùng. Nhiều nghiên cứu, vì thế, đã tập trung vào các hợp chất kháng khuẩn tự nhiên được tiết ra từ các loài vi khuẩn lên men thực phẩm nhằm ức chế các vi sinh vật không mong muốn. Bacteriocin là một hợp chất kháng khuẩn được sản sinh từ các vi sinh vật. Chúng có thể được dùng trong bảo quản thực phẩm vì có bản chất peptide/protein, nên dễ dàng bị thủy phân bởi các protease trong đường ruột của người, và vì thế mà không gây dị ứng cho con người (Vuyst, Leroy, 2007; Zhang et al., 2010). Các vi khuẩn lactic và các sản phẩm chuyển hóa của chúng từ lâu đã được sử dụng trong các loại thực phẩm lên men truyền thống và không hề có tác dụng phụ. Do đó bacteriocin từ nhóm vi khuẩn này thường được sử dụng trong thực phẩm. Hiện nay, sử dụng bacteriocin trong bảo quản thực phẩm đang được quan tâm nghiên cứu vì chúng có thể kéo dài thời gian bảo quản, tăng cường bảo vệ thực phẩm trong các điều kiện nhiệt độ bất thường, làm giảm nguy cơ truyền bệnh qua chuỗi thức ăn, giảm thiệt hại kinh tế do hư hỏng thực phẩm, và giảm tỷ lệ sử dụng chất bảo quản hóa học (Deegan et al., 2006; Gálvez et al., 2010). Trong những năm qua, ngành thuỷ sản đã phát triển và vươn lên thành một trong những ngành kinh tế hàng đầu trong sản xuất thực phẩm xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Nhưng thực tế cho thấy việc bảo quản nguyên liệu sau đánh bắt của nhiều loại nguyên liệu thủy sản như cá, tôm, mực... còn nhiều hạn chế. Hiện các loại nguyên liệu thủy sản chủ yếu được bảo quản theo phương pháp ướp đá nhưng thường không có đủ lượng đá để giữ nhiệt độ của nguyên liệu ≤ 40C. Mặt khác bảo quản nguyên liệu theo phương pháp ướp đá thường đòi hỏi phải có dụng cụ chứa đựng lớn, nên giá thành cao. Do đó người dân thường lạm dụng các loại phụ gia độc hại như kháng sinh, hàn the, ure... trong bảo quản nguyên liệu thủy sản, gây nên tình trạng mất an toàn thực phẩm. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm kiếm các phương pháp bảo quản nguyên liệu an toàn với người sử dụng là yêu cầu rất cấp thiết. Hướng sử dụng bacteriocin - tác nhân sinh học từ vi khuẩn lactic để ức chế sự phát triển của các vi sinh vật nhằm kéo dài thời gian bảo quản thực phẩm nói chung và nguyên liệu thủy sản nói riêng là một hướng nghiên cứu được cho là có nhiều triển vọng. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành khảo sát hiệu suất tách chiết bacteriocin thô từ dịch canh trường của 2 chủng vi khuẩn lactic, đồng thời xác định độ bền của dịch bacteriocin với nhiệt độ, pH và enzym (protease) làm cơ sở cho việc sản xuất bacteriocin ứng dụng trong bảo quản các loại nguyên liệu thủy sản. Đây là thông báo đầu tiên ở Việt Nam về tính chất của dịch bacteriocin thuộc lớp I (lantibiotic) từ vi khuẩn lactic. II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Chủng vi sinh vật Các chủng vi khuẩn lactic T8 và T13 sinh bacteriocin phân lập từ nước dưa lên men truyền thống và chủng vi khuẩn gây thối thực phẩm (Bacillus sp. 1.1) được lấy từ bộ sưu tập chủng của nhóm nghiên cứu chúng tôi tại Phòng thí nghiệm Công nghệ sinh học, Trường Đại học Nha Trang (Nguyễn Văn Duy, Lưu Thị Thúy, 2011). Chủng Bacillus 1.1 được sử dụng làm chủng chỉ thị để đánh giá khả năng kháng khuẩn của dịch bacteriocin. Các chủng vi khuẩn lactic và Bacillus được nuôi trên các môi trường tương ứng lần lượt là MRS và TSB theo mô tả của Trần Linh Thước (2007), và được bảo quản trong glycerol 20% ở nhiệt độ -70oC. 2. Thu nhận bacteriocin thô từ canh trường nuôi vi khuẩn lactic Hai chủng vi khuẩn lactic được nuôi cấy trong môi trường MRS lỏng ở pH 6,2 - 6,8 và nhiệt độ 370C trong 18-20 giờ. Dịch nuôi cấy được ly tâm ở 5000 vòng/phút ở 40C trong 30 phút. Thu dịch nổi và loại cặn. Sau đó dịch nổi được điều chỉnh pH đến 7 bằng NaOH 1N để loại bỏ ảnh hưởng của các acid hữu cơ do vi khuẩn sinh ra. Cuối cùng, dịch này được sử dụng trực tiếp cho các thử nghiệm xác định hoạt độ bacteriocin thô. Hiệu suất của qui trình tính bằng tỉ lệ giữa khối lượng dịch nổi thu được với khối Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2012 90 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG lượng của dịch bacteriocin ban đầu. 3. Xác định hoạt độ của bacteriocin thô Chủng chỉ thị Bacillus 1.1 được nuôi trong môi trường TSB thạch mềm (0,75% agar) có bổ sung chất nhuộm màu methylene blue 0,4% ở 370C trong 24 giờ. Thạch được đục lỗ với đường kính 5 mm, lấp đầy lỗ với 50-100 µl dịch vi khuẩn lactic và ủ ở nhiệt độ 370C trong 12-24h. Hoạt tính bacteriocin của mẫu thí nghiệm được xác định theo đường kính vòng ức chế d (mm) và theo đơn vị hoạt độ AU/ml. Hoạt tính của bacteriocin (AU/ml) là nghịch đảo của nồng độ pha loãng cao nhất (D), tại đó bacteriocin vẫn thể hiện vòng kháng rõ ràng với chủng chỉ thị (d ≥ 6 mm). Công thức tính như sau: AU/ml = (1000/V)*D trong đó V (ml) là thể tích dịch nhỏ vào giếng trên đĩa thạch (Deraz et al., 2005; Gao et al., 2010). 4. Xác định độ bền với nhiệt độ, pH và enzym Dịch bacteriocin được xử lí với nhiệt độ, enzym và pH khác nhau. Hoạt tính bacteriocin còn lại được xác định bằng phương pháp khuếch tán trên thạch như mô tả ở trên. Để xác định độ bền nhiệt, dịch bacteriocin được xử lý ở nhiệt độ 60oC, 100oC trong 60 phút và 121oC trong 15 phút. Để xác định độ bền với enzym, dịch bacteriocin được trộn với proteinase K hoặc α-chymotrypsin (Promega) ở nồng độ cuối cùng đạt 1 mg/ml, ủ ở 50oC trong 3h, sau đó bất hoạt enzym tại 80oC trong 20 phút. Để xác định độ bền pH, dịch nổi được điều chỉnh đến các giá trị pH trong khoảng từ 2-12 bằng cách sử dụng dung dịch HCl 1N hoặc NaOH 1N, và ủ trong 30 phút ở nhiệt độ 37oC. Sau đó các mẫu được trung hòa tới pH 7 trước khi xác định hoạt tính còn lại của bacteriocin (Lee et al., 2007). III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN Sau khi ly tâm ở tốc độ 5000 vòng/phút trong 30 phút, hiệu suất thu nhận bacteriocin của các chủng T8 và T13 đạt lần lượt là 92,1% và 77,2% và hoạt độ bacteriocin được xác định lần lượt là 6000 AU/ml và 8000 AU/ml. Kết quả về độ bền của dịch bacteriocin thô từ 2 chủng T13 và T8 với nhiệt độ, pH và enzym được chỉ ra ở Bảng 1 và Hình 1. Bảng 1. Độ bền của dịch bacteriocin thô với nhiệt độ, pH và enzym Điều kiện xử lý Hoạt tính còn lại (AU/ml) Chủng T8 Chủng T13 Đối chứng 6000 8000 Xử lý nhiệt độ: 60oC, 60 phút 5200 7200 100oC, 60 phút 3600 6400 121oC, 15 phút 4800 7000 Xử lý pH: pH 2, 30 phút 2200 3200 pH 4, 30 phút 5600 7400 pH 6, 30 phút 5800 7800 pH 8, 30 phút 5900 8000 pH 10, 30 phút 5800 7200 pH 12, 30 phút 0 0 Xử lý enzym: proteinase K 6000 7800 α-chymotrypsin 0 0 Kết quả từ Bảng 1 cho thấy dịch bacteriocin thô từ 2 chủng vi khuẩn lactic này rất bền nhiệt, hoạt tính chỉ giảm 10-13% khi xử lý ở nhiệt độ 60oC trong 60 phút, giảm 13-20% ở điều kiện khử trùng 121oC trong 15 phút và 20-40% ở 100oC trong 60 phút (Hình 1A-B). Kết quả này phù hợp với một nghiên cứu khác về các chủng Lactobacillus phân lập từ phế liệu rau quả tại các chợ địa phương ở Ấn Độ. Theo nghiên cứu này, các chủng vi khuẩn lactic có thể sinh tổng hợp các loại bacteriocin bền nhiệt ở 100°C hoặc 121°C trong 10 phút (Lade et al., 2006). Thêm vào đó, bacteriocin từ các chủng vi khuẩn lactic T8 và T13 có thể được xếp vào các bacteriocin lớp I (lớp lantibiotic) bao gồm các peptide có khối lượng phân tử thấp và bền nhiệt (Chen, Hoover, 2003). Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2012 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG 91 Hơn nữa, dịch bacteriocin thô từ 2 chủng T8 và T13 có độ bền rất tốt trong dải pH rộng 4-10. Khi xử lý ở những giá trị pH trên trong 30 phút, hoạt tính đối kháng còn lại của bacteriocin vẫn được duy trì hoặc chỉ bị giảm ít hơn 10% (Hình 1C-D). Kết quả này có ý nghĩa thực tiễn rất lớn bởi phần lớn các bacteriocin từ vi khuẩn lactic có khoảng hoạt động pH rất hẹp, và chủ yếu hoạt động tốt ở pH acid do sản sinh ra acid lactic và acid acetic trong quá trình lên men. Chẳng hạn, mặc dù là một bacteriocin đã được thương mại hóa và được biết đến rộng rãi nhất trong số các protein có hoạt tính kháng vi sinh vật, nisin chỉ thể hiện độ bền cao trong điều kiện acid. Khi tăng pH từ 3 tới 7, nisin trở nên không bền với ảnh hưởng của nhiệt độ, hoạt tính giảm từ 100% xuống còn 50% khi xử lí ở nhiệt độ 121oC trong 15 phút. Nisin là một polypeptide thuộc lớp lantibiotic, trong mạch có 34 amino acid được tạo ra nhờ quá trình lên men của Lactococcus lactis (Kojic et al., 1991). Do khả năng kháng lại các vi sinh vật Gram dương gây ngộ độc thực phẩm chính như Staphylococcus aureus và Listeria monocytogenes, nisin trở thành chất phụ gia trong công nghiệp thực phẩm được hơn 50 nước sử dụng trên toàn thế giới (Hata et al., 2010). Cuối cùng, kết quả nghiên cứu về độ bền khi xử lý với các enzym protease khác nhau cho thấy dịch bacteriocin từ 2 chủng T8 và T13 vẫn giữ được hoạt Hình 1. A-B) Độ bền của dịch bacteriocin từ chủng T13 với nhiệt độ và enzym (T13 ĐC: mẫu đối chứng, T13 100: xử lý ở nhiệt độ 100oC, T13 121: xử lý ở nhiệt độ 121oC, proK: xử lý với proteinase K, α-chymotrypsin: xử lý với α-chymotrypsin). C-D) Độ bền pH của dịch bacteriocin từ chủng T8 (Các giá trị pH xử lý tại 2, 4, 6, 7, 8 và 10 được chỉ ra). Chủng Bacillus 1.1 được sử dụng làm chủng chỉ thị. Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2012 92 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG tính với proteinase K nhưng bị bất hoạt hoàn toàn với α-chymotrypsin (Hình 1A-B). Điều này xác nhận bản chất protein của bacteriocin từ 2 chủng nghiên cứu, đồng thời phù hợp với một số nghiên cứu trước đây. Chẳng hạn, plantaricin C, một peptide có khối lượng 3,5 kDa, có nguồn gốc từ Lactobacillus plantarum LL441 là một bacteriocin rất bền nhiệt (bền trong điều kiện xử lý nhiệt 100oC trong 60 phút, 121oC trong 15 phút), bền với các dung môi hữu cơ (methanol, chloroform, acetonitrile) và các enzym pepsin, proteinase K, α-amylase và lipase, nhưng bị bất hoạt bởi pronase, trypsin, và α-chymotrypsin (1 mg/ml) (Gonzalez et al., 1994). Những kết quả trên chỉ ra rằng bacteriocin từ 2 chủng T8 và T13 có thể thuộc vào lớp lantibiotic bền nhiệt, bền pH, có trọng lượng phân tử thấp (<5 kDa). Chúng bền với proteinase K, nhưng bị bất hoạt bởi α-chymotrypsin có thể là do chúng mang một số amino acid bất thường như lanthionine (Lan), α-methyllanthionine (MeLan), dehydroalanine, và dehydrobutyrine (Chen, Hoover, 2003). Những tính chất nói trên của dịch bacteriocin từ các chủng T8 và T13 phân lập từ nước dưa lên mên truyền thống ở Việt Nam có nhiều đặc điểm tương tự với sakacin C2 từ chủng Lactobacillus sake C2 phân lập từ bắp cải lên men truyền thống ở Trung Quốc. Chúng đều có độ bền nhiệt cao và bền trong dải pH rộng (Gao et al., 2010). Tuy nhiên, trong khi dịch bacteriocin từ các chủng T8 và T13 bền với proteinase K nhưng bị bất hoạt bởi α-chymotrypsin thì sakacin C2 bị bất hoạt với tất cả 3 enzym protease là proteinase K, pepsin và trypsin. Vì vậy, bacteriocin từ hai chủng của chúng tôi có thể thuộc vào lớp I (Lantibiotic) trong khi sakacin C2 được xếp vào lớp II. Hiện nay nhóm nghiên cứu chúng tôi đang thử nghiệm sử dụng dịch bacteriocin từ chủng T8 trong bảo quản cá giò nguyên liệu tươi. Kết quả ban đầu cho thấy, sau 7 ngày bảo quản lạnh ở 40C, mẫu cá giò có nhúng dịch bacteriocin có điểm cảm quan cao hơn mẫu đối chứng 37%, trong đó các chỉ tiêu màu và mùi cho điểm cảm quan khác biệt rõ nhất giữa hai mẫu (Nguyễn Văn Duy, Phạm Ngọc Minh Quỳnh, 2011). Hơn nữa, hàm lượng protein tương đối của mẫu cá thí nghiệm lớn hơn mẫu đối chứng 27,4% nhưng hàm lượng NH3 tương đối thấp hơn 18,9%. Cuối cùng, sau khi lây nhiễm với vi khuẩn Salmonella và Vibrio cholerae, các mẫu cá giò có nhúng dịch bacteriocin giảm được tương ứng 4 lần và 3 lần sự gia tăng mật độ tế bào của 2 loại vi khuẩn này so với mẫu đối chứng. Những kết quả trên cho thấy chất lượng cảm quan, hóa học và vi sinh của cá giò vẫn được duy trì sau 7 ngày bảo quản bằng dịch bacteriocin từ vi khuẩn lactic chủng T8. Điều này chứng tỏ khả năng ứng dụng rất tốt của dịch bacteriocin từ vi khuẩn này trong bảo quản thực phẩm nói chung và nguyên liệu thủy sản nói riêng. IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Quy trình tách bacteriocin thô từ canh trường vi khuẩn lactic đạt hiệu suất tương đối cao với 92,1% đối với chủng T8 và 77,2% với chủng T13. Hoạt độ bacteriocin thô từ chủng T8 là 6000 AU/ml và chủng T13 là 8000 AU/ml khi sử dụng chủng chỉ thị là Bacillus 1.1. Bacteriocin từ các chủng T8 và T13 đều bền với điều kiện nhiệt độ khử trùng, với khoảng pH rộng từ 4-10 và với enzym proteinase K, nhưng bị bất hoạt hoàn toàn với α-chymotrypsin ở nồng độ 1 mg/ml. Vì vậy, các chủng T8 và T13 có thể đã sản sinh ra một loại bacteriocin mới thuộc nhóm lantibiotic nên cần được định danh vi khuẩn đến loài cũng như tinh chế và nghiên cứu sâu hơn về các đặc điểm cấu trúc và cơ chế hoạt động của bacteriocin từ hai chủng này. Đồng thời, chúng có triển vọng ứng dụng cao, nhất là có thể làm chất phụ gia bổ sung vào thực phẩm không có tính acid như thực phẩm đóng hộp hay bổ sung trong giai đoạn làm chín thực phẩm. Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2012 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG 93 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chen H, Hoover DG (2003). Bacteriocins and their food applications. Compr Rev Food Sci F, 2: 82-100. 2. De Vuyst L, Leroy F (2007). Bacteriocins from lactic acid bacteria: production, purifi cation, and food applications. J Mol Microbiol Biotechnol, 13(4):194-9. 3. Deegan LH, Cotter PD, Hill C, Ross P (2006). Bacteriocins: biological tools for bio-preservation and shelf-life extension. Int Dairy J, 16:1058–1071. 4. Deraz SF, Karlsson EN, Hedström M, Andersson MM, Mattiasson B (2005). Purifi cation and characterisation of acidocin D20079, a bacteriocin produced by Lactobacillus acidophilus DSM 20079. J Biotechnol, 117(4):343-54. 5. Gálvez A, Abriouel H, Benomar N, Lucas R (2010). Microbial antagonists to food-borne pathogens and biocontrol. Curr Opin Biotechnol, 21(2):142-148. 6. Gao Y, Jia S, Gao Q, Tan Z (2010). A novel bacteriocin with a broad inhibitory spectrum produced by Lactobacillus sake C2 isolated from traditional Chinese fermented cabbage. Food Control, 21: 76-81. 7. González B, Arca P, Mayo B, Suárez JE (1994). Detection, purifi cation, and partial characterization of plantaricin C, a bacteriocin produced by a Lactobacillus plantarum strain of dairy origin. Appl Environ Microbiol, 60(6): 2158-63. 8. Hata T, Tanaka R, Ohmomo S (2010). Isolation and characterization of plantaricin ASM1: A new bacteriocin produced by Lactobacillus plantarum A-1. Int J Food Microbiol, 137, 94-99. 9. Kojic M, Svircevic J, Banina A, and Topisirovic L (1991). Bacteriocin- producing Strain of Lactococcus lactis subsp. diacitilactis S50. Appl Environ Microbiol, 57, 1835-1837. 10. Lade HS, Chitanand MP, Gyananath G, Kadam TA (2006). Studies on some properties of bacteriocins produced by Lactobacillus species isolated from agro-based waste. Internet J Microbiol, 2 (1). 11. Lee KH, Park JY, Jeong SJ, Kwon GH, Lee HJ, Chang HC, Chung DK, Lee JH, Kim JH (2007). Characterization of paraplantaricin C7, a novel bacteriocin produced by Lactobacillus paraplantarum C7 isolated from kimchi. J Microbiol Bio- technol, 17(2):287-96. 12. Nguyễn Văn Duy, Lưu Thị Thúy (2011). Phân lập và tuyển chọn các chủng vi khuẩn lactic sinh bacteriocin từ nước dưa lên men truyền thống nhằm bảo quản thực phẩm. Tạp chí Công nghệ sinh học (đã gửi đăng) 13. Nguyễn Văn Duy, Phạm Ngọc Minh Quỳnh (2011). Đánh giá chất lượng cá giò nguyên liệu tươi bảo quản bằng dịch bacteriocin từ vi khuẩn lactic. Tạp chí Công nghệ sinh học (đã gửi đăng) 14. Trần Linh Thước (2007). Phương pháp phân tích vi sinh vật trong nước, thực phẩm và mĩ phẩm. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 230 tr. 15. Zhang J, Liu G, Li P, Qu Y (2010). Pentocin 31-1, a novel meat-borne bacteriocin and its application as biopreservative in chill-stored tray-packaged pork meat. Food control, 21, 198-202.
File đính kèm:
- mot_so_tinh_chat_cua_dich_bacteriocin_tu_hai_chung_vi_khuan.pdf