Một số trao đổi về tiêu chuẩn TCVN 9362- 2012 khi tính toán nền công trình
TCVN 9362:2012 được chuyển đổi từ
TCXD 45:1978 theo quy định tại khoản 1
Điều 69 của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ
thuật và điểm a khoản 1 Điều 7 Nghị định số
127/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật.
TCVN 9362:2012 là văn bản có bố cục trình
bày rất chặt chẽ về mặt pháp lý đã góp phần
nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động
xây dựng ở Việt Nam. Nhưng trong quá trình
áp dụng TCVN 9362:2012 vào thực tế hiện
nay, nhận thấy có một số điểm của tiêu chuẩn
cần tường minh để tiêu chuẩn thật sự đi vào
thực tế công việc của người thiết kế, khuyến
khích phát huy tính sáng tạo. Tuy nhiên, trong
khuôn khổ của bài báo, ở đây chỉ thảo luận
một số vấn đề có tính khả thi trong việc điều
chỉnh, gồm: bố cục trình bày; một số giới hạn;
phân loại nền. Trong đó, bố cục một số mục
gây khó với người sử dụng; một số giới hạn
quy định chưa chú ý tới đặc điểm sai số trong
kết quả tính; phân loại nền chưa chưa chú ý
đến mục đích xây dựng. Đặc biệt hiện nay,
trong bối cảnh phát triển của công nghệ tin
học, điện tử tự động hóa, cho phép thực hiện
các phép tính của tính toán nền móng nhanh
chóng, nên có điều kiện so sánh kết quả giữa
các phương pháp tính khác nhau, giữa kết quả
tính sử dụng các số liệu đất nền thu được từ
các phương pháp thí nghiệm khác nhau, trong
đó có các phương pháp ngày càng hiện đại của
thế giới. Do đó, trong bối cảnh mới TCVN
9362 cần được diễn giải lại để nâng cao hiệu
quả công tác quản lý nhà nước về xây dựng
đồng thời thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu của
nhiều đối tượng.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số trao đổi về tiêu chuẩn TCVN 9362- 2012 khi tính toán nền công trình
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1+2 - 2019 80 MỘT SỐ TRAO ĐỔI VỀ TIÊU CHUẨN TCVN 9362- 2012 KHI TÍNH TOÁN NỀN CÔNG TRÌNH VÕ THỊ THƯ HƯỜNG* Some exchange to standard TCVN 9362- 2012 for foundtion calculation Abstract: The paper presents some shortcomings when applying the TCVN 9362-2012 standard to foundations design within the conditions of many advances in information technology. TCVN 9362-2012 1. ĐẶT VẤN ĐỀ * TCVN 9362:2012 được chuyển đổi từ TCXD 45:1978 theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật và điểm a khoản 1 Điều 7 Nghị định số 127/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật. TCVN 9362:2012 là văn bản có bố cục trình bày rất chặt chẽ về mặt pháp lý đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động xây dựng ở Việt Nam. Nhưng trong quá trình áp dụng TCVN 9362:2012 vào thực tế hiện nay, nhận thấy có một số điểm của tiêu chuẩn cần tường minh để tiêu chuẩn thật sự đi vào thực tế công việc của người thiết kế, khuyến khích phát huy tính sáng tạo. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của bài báo, ở đây chỉ thảo luận một số vấn đề có tính khả thi trong việc điều chỉnh, gồm: bố cục trình bày; một số giới hạn; phân loại nền. Trong đó, bố cục một số mục gây khó với người sử dụng; một số giới hạn quy định chưa chú ý tới đặc điểm sai số trong kết quả tính; phân loại nền chưa chưa chú ý * Đại học Kiến trúc Hà Nội DĐ: 0912774874 Email: vothaohuong@gmail.com đến mục đích xây dựng. Đặc biệt hiện nay, trong bối cảnh phát triển của công nghệ tin học, điện tử tự động hóa, cho phép thực hiện các phép tính của tính toán nền móng nhanh chóng, nên có điều kiện so sánh kết quả giữa các phương pháp tính khác nhau, giữa kết quả tính sử dụng các số liệu đất nền thu được từ các phương pháp thí nghiệm khác nhau, trong đó có các phương pháp ngày càng hiện đại của thế giới. Do đó, trong bối cảnh mới TCVN 9362 cần được diễn giải lại để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về xây dựng đồng thời thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu của nhiều đối tượng. 2. KHÁI QUÁT NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TIÊU CHUẨN TCXD 9362-2012 TCVN 9362:2012 là tiêu chuẩn được chuyển đổi từ TCXD 45:1978, trong đó TCXD 45:1978 thực chất là văn bản được dịch từ снuп II-15-74 của Liên xô, trong đó lược bỏ các vấn đề nền không có ở Việt Nam. TCVN 9362:2012, ngoài phần phụ lục, có 15 mục, trong đó từ mục 1 đến mục 4 là các vần đề chung của tính toán nền, từ mục 5 đến mục 15 là đặc điểm thiết kế của các nền đặc biệt và nền của các công trình đặc biệt. Sau đây để tường minh, tạm gọi 15 mục là 15 điều để phân biệt với các mục trong các điều và phần ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1+2 - 2019 81 trong ngoặc kép dưới đây là trích nguyên văn các câu trong tiêu chuẩn TCVN 9362:2012. Nhìn sâu vào các nội dung của tiêu chuẩn, nhận thấy lời giải bài toán Boussinesq trong lý thuyết đàn hồi, sau đó là các áp dụng của lời giải bài toán phân bố ứng suất dưới các diện chịu tải, trong bán không gian vô hạn đối xứng trục, đồng nhất và đàn hồi tuyến tính gọi chung là các bài toán lý thuyết đàn hồi cho đối tương đất, chính là cở sở lý thuyết của tiêu chuẩn. Tuy nhiên, các tính chất của đất nền khác xa với các mô hình lý tưởng của bài toán nên còn thấy, trong tiêu chuẩn còn có các cơ sở lý thuyết khác như: lý thuyết hệ thống, lý thuyết bền, lý thuyết về trạng thái giới hạn, nguyên lý tiền định của thiết kế công trình để giải quyết vấn đề sai khác. Từ các cơ sở lý thuyết của tiêu chuẩn, thông qua nội dung của các điều các mục trong tiêu chuẩn đã đưa ra cách giải quyết các vấn đề sai khác giữa lý thuyết với thực tiễn, giữa tính hữu hạn của các lời giải bài toán với tính phong phú đa dạng của đất nền trên vỏ trái đất. Cách giải quyết chia ra làm 3 dạng: Dạng các vấn đề chưa thống đã được thống nhất thành quy định bắt buộc mặc dù còn rất nhiều tranh luận chưa ngã ngũ, cụ thể có một số vấn đề như: Tính toán sức chịu tải vẫn còn nhiều quan điểm liên quan đến chiều sâu vùng biến dạng dẻo hoặc sự hình thành nhân nén chặt Tính toán biến dạng là bài toán mà các thông số tải trọng và đất nền giá trị của nó không phải là hằng số thì tiêu chuẩn cũng đã đưa ra các quy định bắt buộc về cách xác định tải trọng và cách xác định các thông số nền, mặc dù nhìn vào sẽ thấy không đúng trong nhiều trường hợp. Dạng đưa vào tiêu chuẩn các quy định để giải quyết các vấn đề chưa thống nhất giữa lý thuyết với thực tiễn nhưng rất thuyết phục, như: Quy định về tính toán nền theo trạng thái là cách giải quyết hiệu quả nhất các vấn đề còn sai, bằng sự kết hợp tính logic của bài toán lý thuyết với tính thực dụng của mục đich tính toán. Đây là tiền đề cho thiết kế nền móng theo nguyên tắc tiền định hay thiết kế theo quy trình: trước hết là luận chứng lựa chọn phương án, sau đó tính toán kiểm tra chọn phương án hợp lý nhất theo các điều kiện yêu cầu Quy định riêng về các tính toán cho các trường hợp đặc biệt, cụ thể như: đối với các dạng nền đặc biệt và các công trình đặc biệt. Đây là cách bao quát mọi vấn đề tính toán, để luôn đảm bảo rằng mọi vấn đề tính toán đều được kiểm soát. Dạng các quy định mang tính quy ước không có tranh luận đó là các quy định về điều kiện áp dụng. Ngoài ra, còn nhiều thể hiện khác về bắt buộc và thuyết phục nằm rải rác ở các điều các mục trong tiêu chuẩn. Đánh giá chung có thể khẳng định: TCVN 9362:2012 đã bao quát mọi nội dung trong tính toán nền. Đây là một văn bản pháp quy dưới luật nên TCVN 9362:2012 có bố cục chung và bố cục ở các điều, các mục cũng như nội dụng của các mục, các điều trong tiêu chuẩn, rất thuận lợi cho lĩnh vực quản lý nhà nước về hoạt động xây dựng, cho các chủ đầu tư để kiểm soát hiệu quả đầu tư. 3. MỘT SỐ TRAO ĐỔI Tiêu chuẩn TCVN 9362 mà trước đây là TCXD 45-78 một văn bản được áp dụng sớm nhất vào trong lĩnh vực hoạt động xây dựng ở Việt Nam đã góp phần quan trọng vào quản lý hoạt động xây dựng. Tuy nhiên, để áp dụng tốt TCVN 9362-2012 vào trong công việc thiết kế đòi hỏi kỹ sư phải mất nhiều năm học hỏi kinh ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1+2 - 2019 82 nghiệm, mặt khác với công nghệ tin học phát triển như hiện nay cho phép tinh toán nhanh, có thể thực hiện khối lượng tính toán lớn nên tiêu chuẩn bộc lộ một số bất cập. Nhằm hoàn thiện TCVN 9362-2012 có một số trao đổi xung quanh chủ đề của bài báo như sau: 3.1. Một số trao đổi của điều 3 - Tại mục 3.2.1 nêu “đá gồm có phún xuất, biến chất, trầm tich có liên kết cứng giữa các hạt ”đó là câu thừa và còn gây hiểu lầm rằng, ngoài 3 loại đá trên còn có loại đá khác -Tại mục 3.3.2 khi đưa ra tiêu chuẩn phân loại đã nêu đất cát có chỉ số dẻo Ip<0.01 và đất sét có chỉ số dẻo Ip> 0,17. Tại sao không dùng đơn vị % cho độ ẩm mà dùng thập phân để gây hiểu lầm và tại sao không đưa ra tiêu chuẩn phân loại cho sét pha và cát pha mà để đên mục 3.8 mới đưa ra bảng phân loại - Tại mục 3.3 Phân loại đá theo cả 3 tiêu chí cường độ kháng nén, hệ số hóa mềm hệ số phong hóa, vậy tiêu chí được ưu tiên theo thứ tự như thế nào? Bởi vì, không có sự ưu tiến phân loại sẽ không có mục đich. - Tại muc 3.4 Định nghĩa đất hòn lớn bằng tỷ số không đều hạt d60/d10 là không phản ánh tính chất hòn lớn. Bởi vì, đất cát pha không phải là đất hòn lớn nhưng vẫn sử dụng tỷ số không đều hạt d60/d10 để đánh giá. Đáng chú ý nhất mục 3.5 lại đưa ra bảng phân loại đất hòn lớn mà tiêu chí phân loại không đề cập đến d60/d10 mà d60/d10 chỉ là thông tin bổ sung thêm cho bảng phân loại. Như thế việc đưa khái niệm d60/d10 không đúng chỗ đã gây hiểu lầm, làm phức tạp hóa vấn đề. - Tại mục 3.12 Khi đưa ra khái niệm bùn đã viết: ((Bùn là đất sét ở giai đoạn đầu thành hình, được tạo bởi trầm tích cấu trúc trong nước có các quá trình vi sinh vật)). Với khái niệm như trình bày thì đất sét pha, cát pha không có bùn, trong khi bảng 9 của mục này lại đưa ra hệ số rỗng của bùn sét pha và bùn cát pha. -Tại mục 3.18 Khái niệm về đất than bùn được trình bày chưa nêu đủ các nội hàm của đất than bùn mà chỉ là các tiêu chuẩn phân loại Tóm lại, ở điều 3 phân loại đất nền, các tồn tại là trình bày phức tạp không cần thiết, thiếu tường minh và có mục sai với lý thuyết, hậu quả gây hiểu lầm cho người thiết kế và khó áp dụng. Về những bất cập này có đề xuất như sau: đối với các sai sót ở các khái niệm được trích dẫn nên chỉnh sửa như sau: tại mục 3.2.1 được sửa là ‘Đá là các thành tạo địa chất có liên kết giũa các hạt là liên kết cứng’; tại mục 3.3 đât dính được gọi tên theo chỉ số dẻo là sét khi Ip>17%; sét pha khi 17%>Ip >7%, cát pha<7%; tại mục 3.4 chỉ đựa ra bảng phân loại trong đó có chú giải sử dụng hệ số không đều hạt để đánh giá và sau đó giải thích khái niệm về hệ số không đều hạt; tại mục 3.12 vì không có ý định xác định quy luật phân bố, vì thế nên định nghĩa bùn ngắn gọn như sau: bùn là đất yếu được đánh giá bằng tiêu chuẩn phân loại theo bảng; tại mục 3.18 đất than bùn cũng chỉ nêu ngắn gọn là đất được hình thành trong điều kiện đặc biệt và có những tính chất đặc biệt và được đánh giá phân loại theo bảng 3.2. Một số trao đổi của điều 4 - Tại mục 4.1.3 quy định: ((nền phải tính theo: a. trạng thái giới hạn thứ nhất dựa vào sức chịu tải. b. trạng thái giới hạn thứ hai dựa vào biến dạng)) Theo trình bày sẽ có 2 cách hiểu. Cách thứ nhất là :trạng thái thứ nhất và trạng thái thứ hai. Cách thứ 2 là: trạng thái thứ nhất hoặc trạng thái thứ hai. Đó là 2 cách hiểu trái ngược nhau, theo đó sẽ có áp dụng trái ngược nhau. ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1+2 - 2019 83 - Tại mục 4.1.4 Nêu: ((Nền tính theo sức chịu trong trường hợp tải trọng ngang đáng kể)) mà không có sự phân biệt đất đá’, rồi tại khoản d của mục này lại quy định tiếp: ((tính theo sức chịu tải trong trường hợp nền là đất sét no nước và than bùn)). Trong khi đó, mục 4.1.3 quy định: ((nền tính theo biến dạng khi nền không phải là đá)) tức là nền đất. Vậy, hiểu các quy định này như thế nào - Tại điểm d của 4.1.4 có quy định: ((cho phép không tính nền theo sức chịu tải trong các trường hợp nêu ở 4.1.4a và 4.1.4b nếu dùng giải pháp kết cấu đảm bảo rằng chuyển vị không vượt quá giới hạn cho phép)) câu này không sai nhưng quá dài dòng và gây hiểu lầm, bởi cho phép không tính nền theo sức chịu tải tức là cho phép tính nền theo biến dạng, mà tính nền theo biến dạng thì đương nhiên phải kiểm tra các điều kiện biến dạng cho phép tức là điều kiện chuyển vị không vượt quá giới hạn cho phép. - Tại mục 4.2.2 có 2 quy định như sau: ((tính nền theo biến dạng cần tiến hành trên cơ sở của tổ hợp cơ bản của tải trọng- tính nền theo sức chịu tải phải dựa trên cơ sở của tổ hợp cơ bản của tải trọng)) Vậy sự khác nhau của chúng là ở đâu? Phải chăng giữa một bên cần và một bên phải, tức là một bên tùy ý và một bên bắt buôc, nếu thế chỉ cần quy đinh bên bắt buộc. Tóm lại, chưa xét tới việc xắp xếp thứ tự các quy định đã nhận thấy rất rõ các bất cập, gây khó cho việc vận dụng các quy định vào trong tính toán. Về những bất cập này có những đề xuất như sau: phải đưa ra quy định tiêu chuẩn xác định trạng thái giới hạn trươc, sau đó mới có quy định về tính nền theo trạng thái. Bởi vì, chỉ khi có định nghĩa về trạng thái mới có cơ sở lựa chọn tính toán nền theo trạng thái nào. Thay vì đưa ra quy định về các trường hợp tính nền theo sức chịu tải hoặc biến dạng thì nên là các quy định cho tính nền theo trạng thái. Bởi vì, sử dụng điều kiện để phải tính toán theo sức chịu tải hoặc biến dạng đã làm mất đi sự tường minh khi phải tính toán áp lực tiêu chuẩn dưới đáy móng trong tình toán biến dạng mà thực chất áp lực tiêu chuẩn dưới đáy móng cũng là một giá trị của tải trọng. Riêng với 4.1.4 d nên viết gọn là: ((cho phép tính nền theo biến dạng khi nền là đất sét no nước, đất than bùn trong trường hợp quy định ở 4.1.4 a và 4.1.4 b)) 3.3 Một số trao đổi về bảng tra và bố cục Trong phụ lục và trong nội dung tiêu chuẩn có nhiều bảng tra, chia làm nhiều loại: các bảng phân loại; các bản là các hệ số của công thức thực nghiệm và các bảng vốn là hàm đại số. Trong đó, bảng kết quả tính sẵn từ các hàm đại số như bảng tra A,B,D cho áp lực tiêu chuẩn R. Sử dụng bảng tra kết qua tính sẵn, thường phải nội suy, và nội suy thường có giá trị sai lệch với kết quả tính từ công thức. Do đó, vấn đề bất cập của tiêu chuẩn chính là, không quy định công thức để tính mà đưa ra bảng tra, trong khi việc tính toán hoàn toàn đơn giản khi thực hiện trên máy tính. Bố cục của điều 3, điều 4 là một vấn đề đáng bàn luận nhất vì nó đã gây ra sự phức tạp không đáng có và hậu quả là gây ra sự khó hiểu và khó khăn cho người áp dụng vì để thực hiện quy định ở mục này phải quay lại quy định ở mục trước thậm chí cả điều trước rồi quay trở xuống quy định các mục sau đó và ngược lại, đồng thời vẫn còn có quá nhiều trùng lặp ở các mục, có một số dẫn chứng như sau: tại mục 4.7 chỉ nói về tính nền theo sức chịu tải, trong khi 4.1.4 cũng nói về điều kiện tính nền theo sức chịu tải. Tại điểm d của 4.1.4 có quy định :((nền đất sét no nước và than bùn nêu ở 4.6.8)), như thế phải tìm ở phía dưới, sau đó lại ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 1+2 - 2019 84 quy định tiếp: ((cho phép không tính nền theo sức chịu tải trong các trường hợp nêu ở 4.1.4a và 4.1.4b)), như thế lại phải tìm ngược lên trên. Với bố cục như thế không ảnh hưởng đến công tác quản lý hoạt động xây dựng, nhưng ảnh hưởng xấu với người thiết kế. Vì vậy, để thỏa mãn mọi đối tượng. ngoài điều 1 và điều 2 thì các điều 3 và điều 4 nên bố cục theo trình tự các nội dung thiết kế nền móng, cụ thể như sau: Bước 1 Xác định tải trọng tức là các nội dung của mục 4.2 Bước 2 Xác định các thông số nền tức là nội dung của điều 3 và mục 4.3, mục 4.4 Bước 3 luận chứng giải pháp móng, tức là các nội dung mục 4,5 và các nội dung liên quan đến tính toán theo trạng thái giới hạn như mục 4.1.3, mục 4.1.4, mục 4.1.5, mục 4.6 và mục 4.7 Các điều còn lại được bố cục như phần phụ lục bắt buộc và được chỉ dẫn áp dụng bởi điều 4. Theo đề xuất này sẽ làm tiêu chuẩn gọn hơn và những quy định khó thực hiện trong tiêu chuẩn sẽ trở thành những hướng dẫn dễ hiểu cho người thiết kế, nhất là với những kỹ sư mới tốt nghiệp. KẾT LUẬN Tiêu chuẩn Quốc gia nói chung và TCVN 9362-2012 là kết quả nghiên cứu không chỉ chuyên môn thuần túy mà luôn gắn liền với sự phát triển kinh tế xã hội và khoa học kỹ thuật của Quốc gia. Được chuyển đổi từ Tiêu chuẩn Xây dựng 45- 78, tức là đã trải quan hơn 40 năm với nhiều bước phát triển kinh tế xã hội và khoa học kỹ thuật, TCVN 9362-2012 có những chỉnh sửa là tất yếu. Vấn đề là chỉnh sửa như thế nào mới là điều đáng bàn. Do đó, những trao đổi được đưa ra trong bài báo này chỉ là một góc nhìn từ những người làm công tác giảng dạy chuyên ngành Địa kỹ thuật TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Tiêu chuẩn phân loại đất xây dựng TCVN 5747: 1993. 2. Tiêu chuẩn TCVN 9362 - 2012 thiết kế nền công trình dân dụng công nghiệp. 3. V.D. Lomtaze , ‘Địa chất công trình chuyên môn’ bản dịch tiếng Nga, NXB. KHKT 1985. 4. N.A Xưtovich. (1983), “Cơ học đất”, bản dịch tiếng Nga NXB Nông nghiệp. 5. R. Whitlow (1997), “Cơ học đất”, NXB Giáo dục. 6.K.Széchy, L. Varga (1978), “Foundation engineering”, Akadémiai Kiadó Budapest, 9. E.D Sukina (1985), “C¬ lý ho¸ hÖ ph©n t¸n tù nhiªn”, NXB Matxcova, Người phản biện: PGS,TS. ĐOÀN THẾ TƯỜNG
File đính kèm:
- mot_so_trao_doi_ve_tieu_chuan_tcvn_9362_2012_khi_tinh_toan_n.pdf