Một số yếu tố cần xem xét khi tiến hành đánh giá kĩ năng nói tiếng Anh trong các học phần tiếng Anh cơ bản cho sinh viên trường Đại học Giao thông Vận tải

Abstract: In foreign language learning, speaking is always considered the focal point to assess the

ability to use a language and proficiency in this skill requires a lot of effort and time. To help

learners to achieve the goal, assessing is always a useful tool. However, assessing speaking reliably

is often considered very difficult because it is quite subjective. So, what should be done to do it

well? This article will mention some considerations when assessing English speaking skill in basic

English modules for students of University of Transport and Communications.

pdf 6 trang yennguyen 5560
Bạn đang xem tài liệu "Một số yếu tố cần xem xét khi tiến hành đánh giá kĩ năng nói tiếng Anh trong các học phần tiếng Anh cơ bản cho sinh viên trường Đại học Giao thông Vận tải", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số yếu tố cần xem xét khi tiến hành đánh giá kĩ năng nói tiếng Anh trong các học phần tiếng Anh cơ bản cho sinh viên trường Đại học Giao thông Vận tải

Một số yếu tố cần xem xét khi tiến hành đánh giá kĩ năng nói tiếng Anh trong các học phần tiếng Anh cơ bản cho sinh viên trường Đại học Giao thông Vận tải
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 449 (Kì 1 - 3/2019), tr 36-41 
36 
MỘT SỐ YẾU TỐ CẦN XEM XÉT KHI TIẾN HÀNH ĐÁNH GIÁ 
KĨ NĂNG NÓI TIẾNG ANH TRONG CÁC HỌC PHẦN TIẾNG ANH CƠ BẢN 
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI 
Bạch Thị Thanh - Trường Đại học Giao thông Vận tải 
Ngày nhận bài: 29/12/2018; ngày sửa chữa: 10/01/2019; ngày duyệt đăng: 25/01/2019. 
Abstract: In foreign language learning, speaking is always considered the focal point to assess the 
ability to use a language and proficiency in this skill requires a lot of effort and time. To help 
learners to achieve the goal, assessing is always a useful tool. However, assessing speaking reliably 
is often considered very difficult because it is quite subjective. So, what should be done to do it 
well? This article will mention some considerations when assessing English speaking skill in basic 
English modules for students of University of Transport and Communications. 
Keywords: Assessing, speaking skill, English, basic English module, student. 
1. Mở đầu 
Theo Đề án ngoại ngữ 2020, các trường phổ thông 
và đại học nói chung, trong đó có Trường Đại học Giao 
thông Vận tải nói riêng phải đào tạo ngoại ngữ có chuẩn 
đầu ra theo khung năng lực với các bài thi có cả 4 kĩ năng 
(KN): nghe, nói, đọc và viết. Tuy nhiên, đánh giá (ĐG) 
KN nói vẫn luôn được cho là khó khăn nhất đúng như 
Sari Luoma (2009) đã nhận định: “ĐG KN nói đạt độ tin 
cậy là khó nhất” [1]. Khó khăn này cũng được nêu trong 
cuốn A practical guide to Assessing English Language 
Learners: “Nói là một KN rất khó ĐG vì nó quá phức 
tạp để có được các phân tích đảm bảo tính khách quan 
và độ tin cậy” [2; tr 112]. Vậy, làm thế nào để ĐG KN 
nói thực sự hiệu quả, phản ánh đúng trình độ của người 
học góp phần thực hiện chuẩn đầu ra được chính xác? Để 
trả lời câu hỏi này, bài viết đề cập quy trình và các bước 
cần tuân thủ trong quá trình ĐG KN nói tiếng Anh, từ đó 
đưa ra nhận xét và đề xuất một số thay đổi đối với việc 
ĐG KN nói trong các học phần tiếng Anh cơ bản cho 
sinh viên (SV) Trường Đại học Giao thông Vận tải. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Quy trình thiết kế và thực hiện việc kiểm tra, đánh 
giá kĩ năng nói 
Để đảm bảo được các yếu tố chung của quá trình 
kiểm tra, ĐG là tính hữu dụng - thỏa mãn được đúng mục 
đích sử dụng (usefulness), ĐG đúng những gì đang cần 
được ĐG (validity), phản ánh đúng trình độ của người 
học (reliability), dễ sử dụng trong thực tiễn (practicality), 
có khả năng tác động đến quá trình dạy và học 
(washback), bám sát với tình huống thực của người học 
(authenticity), tính minh bạch về dạng bài, thang điểm 
(transparency) và tính bảo mật (security), việc thiết kế và 
thực hiện quy trình kiểm tra, ĐG KN nói cho SV cần 
được thực hiện theo các bước sau: 
2.1.1. Viết một bản mô tả chi tiết đặc điểm và liệt kê các 
yêu cầu cần đáp ứng cho một kì thi nói cụ thể (Test 
specifications) 
Bước này bao gồm thông tin về mục đích kiểm tra 
nói (thi cuối kì, thi tuyển vào trường hay ĐG năng lực...), 
đối tượng thí sinh, giám khảo, người sử dụng kết quả và 
sử dụng để làm gì, kì thi sẽ được thực hiện như thế nào 
(phỏng vấn từng thí sinh, theo cặp hay theo nhóm,...), tiêu 
chí ĐG như thế nào. 
2.1.2. Soạn đề thi (Developing speaking tasks) 
Sau khi đã biết rõ các yêu cầu cụ thể, việc lựa chọn 
và viết đề thi bắt đầu. Có khá nhiều dạng bài đã và đang 
được sử dụng trong ĐG KN nói tiếng Anh. Sari Luoma 
(2009) đã liệt kê một số dạng bài thi nói gồm mô tả 
(description tasks), kể chuyện (narrative tasks), so sánh 
đối chiếu (comparing and contrasting tasks), thảo luận và 
đưa ra quyết định (decision), đóng vai (role-plays and 
simulations),... [1]. Theo Coombe Christine và cộng sự 
(2007), nên chọn dạng bài thi nói có tác động tích cực đối 
với quá trình dạy và học đồng thời sát với tình huống thực 
của người học. Sau khi đã quyết định được dạng bài, các 
yêu cầu cụ thể cần được đưa ra cho dạng bài đó (Task 
specifications) [2]. 
2.1.3. Thiết kế thang điểm (Developing scales) 
Đây là khâu rất quan trọng, cần phải được đưa ra càng 
chi tiết càng tốt để việc ĐG được công bằng và có độ tin 
cậy cao, đúng như quan điểm của Arthur Hughes: “Việc 
chấm điểm chỉ đạt được độ tin cậy và tính giá trị khi cách 
ĐG và thang điểm cụ thể cho từng trình độ và từng tiêu 
chí được đưa ra rõ ràng và phù hợp, đồng thời người 
chấm phải được tập huấn sử dụng chúng” [3; tr 110]. 
Thông thường, có hai loại thang điểm được sử dụng: 
- Thang điểm ĐG dựa trên cảm nhận tổng thể bài nói rồi 
đưa ra một điểm kết luận duy nhất với thang điểm chẵn 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 449 (Kì 1 - 3/2019), tr 36-41 
37 
hoặc kết luận về bậc năng lực ngôn ngữ (holistic 
scoring). Một ví dụ điển hình của loại này là thang điểm 
chấm bài thi nói The Finish National Certificate scale 
với thang điểm chẵn từ 1 đến 6 (xem bảng 1); - ĐG theo 
nhiều khía cạnh nhỏ của bài nói như ngữ pháp 
(grammar), từ vựng (vocabulary), độ trôi chảy (fluency) 
và phát âm (pronunciation) (xem bảng 2). Mỗi cách ĐG 
đều có ưu và nhược điểm riêng như Coombe Christine 
và cộng sự đã phân tích: “Loại ĐG tổng thể sẽ tiết kiệm 
thời gian hơn và thí sinh sẽ không bị mất điểm vì những 
lỗi nhỏ nhưng lại có nhược điểm là sẽ không đáng tin cậy 
khi bài thi được chấm bởi những giám khảo ít kinh 
nghiệm và việc trừ 1 điểm chẵn sẽ làm giảm tính chính 
xác của kết quả, ngoài ra cách chấm như vậy sẽ khó cung 
cấp được sự phản hồi cho quá trình dạy và học, không 
cung cấp được tiến trình về khả năng nói của người học. 
Cách chấm theo các tiêu chí nhỏ có nhiều ưu điểm nổi 
trội là giúp giảng viên (GV) biết được điểm mạnh, điểm 
yếu của SV, dễ chấm đối với những giám khảo ít kinh 
nghiệm, việc huấn luyện giám khảo sẽ dễ thực hiện hơn 
do thang điểm rất rõ ràng và chi tiết, nhưng cách chấm 
này lại rất mất thời gian do phải chấm nhiều chi tiết nhỏ” 
[2; tr 81-83]. 
Việc lựa chọn cách chấm nào phải tùy thuộc vào điều 
kiện cụ thể về thời gian, số lượng giám khảo, mục đích 
của kì thi... Sau đây là ví dụ về hai loại thang điểm: 
Bảng 1. Thang chấm điểm xét trên tổng thể bài nói 
(Holistic scoring) [1] 
6 
Nói trôi chảy, thậm chí có khả năng diễn đạt các 
ý tinh tế với độ chính xác cao, biết sử dụng các 
cách diễn đạt mang tính thành ngữ, có khả năng 
nói về một chủ đề phức tạp, biết phát triển ý, biết 
trình bày và kết thúc một vấn đề nào đó 
5 
Nói trôi chảy và hiếm khi bị bí từ, bài nói tự nhiên, 
có sử dụng các từ kết nối, có khả năng trình bày 
một vấn đề phức tạp một cách rõ ràng và chi tiết, 
biết sử dụng các cách diễn đạt mang tính thành 
ngữ 
4 
Xử lí khá tốt các tình huống, biết trình bày và giải 
thích ý kiến, biết trò chuyện, mô tả quang cảnh, 
âm thanh và trải nghiệm 
3 
Xử lí được các tình huống lời nói quen thuộc, tốc 
độ nói có thể hơi chậm nhưng không bị dừng. Mặc 
dù cách diễn đạt bị ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ và 
phát âm không chuẩn nhưng người nghe vẫn có 
thể hiểu người nói đang nói gì 
2 Có thể trao đổi những thông tin đơn giản, khả 
năng ngôn ngữ hạn chế nên khó diễn đạt được các 
tình huống phức tạp, phát âm không chuẩn dẫn 
đến người nghe phải nỗ lực mới hiểu được 
1 
Có thể hỏi đáp các câu đơn giản, khả năng giao 
tiếp chậm, để người nghe hiểu được người nói 
phải sử dụng thêm ngôn ngữ cơ thể 
Bảng 2. Thang điểm chấm theo từng khía cạnh nhỏ 
(Analytic scales) [4] 
Phiếu ĐG KN nói 
Ngày:............ 
Tên thí sinh:...................... 
Tiêu 
chí 
Điểm Hướng dẫn chi tiết 
Ngữ 
pháp 
(25 
điểm) 
24-25: Xuất sắc. Hầu như không 
mắc lỗi, các ý được truyền đạt rõ 
ràng 
22-23: Rất tốt. Chỉ mắc một hoặc hai 
lỗi, hầu hết các ý được truyền đạt rõ 
ràng 
20-21: Tốt. Có mắc một số lỗi ngữ 
pháp nhưng hầu hết các ý chính được 
truyền đạt rõ ràng 
18-19: Trung bình. Mắc các lỗi ngữ 
pháp có thể ảnh hưởng đến nghĩa của 
câu 
12-17: Kém. Ngôn ngữ sử dụng hầu 
như mắc lỗi và người nghe có thể 
phát hiện dễ dàng, nghĩa của câu 
không rõ hoặc không truyền tải được 
0-11: Không đạt. Mắc quá nhiều lỗi, 
không truyền tải được thông tin 
Từ 
vựng 
(20 
điểm) 
20: Xuất sắc. Có khả năng lựa chọn 
và sử dụng từ hoặc cụm từ chuẩn và 
đa dạng 
18-19: Rất tốt. Có khả năng lựa chọn 
và sử dụng từ hoặc cụm từ đúng và 
khá đa dạng 
16-17: Tốt. Hầu hết các từ sử dụng 
được lựa chọn phù hợp, nghĩa diễn 
đạt rõ ràng 
14-15: Trung bình. Mắc một số lỗi 
dễ nhận thấy, đôi khi ảnh hưởng đến 
nghĩa. Chỉ sử dụng được những từ 
đơn giản trong giao tiếp 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 449 (Kì 1 - 3/2019), tr 36-41 
38 
12-13: Kém. Mắc nhiều lỗi từ vựng 
và người nghe có thể phát hiện dễ 
dàng, nghĩa của câu không rõ hoặc 
không truyền tải được 
0-11: Không đạt. Mắc quá nhiều lỗi, 
không truyền tải được thông tin 
Độ 
trôi 
chảy 
(30 
điểm) 
29-30: Xuất sắc. Không hề bị ngắc 
ngứ 
27-28: Rất tốt. Có ngắc ngứ một chút 
nhưng tiếp tục nói được ngay 
24-26: Tốt. Thỉnh thoảng có ngắc 
ngứ nhưng sau đó đã linh hoạt tìm 
được cách khắc phục 
21-23: Trung bình. Có những đoạn 
bị ngừng nghỉ mà người nghe có thể 
thấy rõ ràng nhưng sau đó lại tiếp tục 
nói được 
12-20: Kém. Có một số khoảng im 
lặng, có một số đoạn ngắt nghỉ ảnh 
hưởng đến luồng thông tin và ảnh 
hưởng đến độ tập trung của người nghe 
0-11: Không đạt. Có nhiều khoảng 
im lặng, nhiều đoạn ngắt nghỉ không 
tiếp tục được 
Phát 
âm 
(25 
điểm) 
24-25: Xuất sắc. Hầu như không 
mắc lỗi, phát âm giống người bản 
ngữ 
22-23: Rất tốt. Chỉ mắc một hoặc hai 
lỗi, hầu hết thông tin được truyền tải 
rõ ràng 
20-21: Tốt. Mắc một số lỗi phát âm 
nhưng hầu hết các ý chính được 
truyền đạt không hề gây khó khăn 
cho người nghe 
18-19: Trung bình. Có thể thấy rõ lỗi 
phát âm, gây ảnh hưởng đến nghĩa 
12-17: Kém. Mắc nhiều lỗi phát âm 
gây sự chú ý cho người nghe, ảnh 
hưởng đến nghĩa diễn đạt 
Tổng điểm:.......... 
Nhận xét:............. 
Theo Sari Luoma (2009), trong một kì thi nói, chúng 
ta có thể sử dụng một thang điểm có sẵn đã được sử dụng 
chính thức bởi các tổ chức có uy tín nhưng phải phù hợp 
với mục đích sử dụng cụ thể của mình. Bên cạnh đó, chúng 
ta cũng có thể thay đổi một chút nếu cần để áp dụng tốt 
hơn cho việc ĐG trong một kì thi nào đó [1; tr 82]. 
2.1.4. Chuẩn bị cơ sở vật chất và nhân lực 
Cách tổ chức thi có thể ảnh hưởng tới tâm lí của thí 
sinh; vì vậy, để đảm bảo công bằng, công việc này phải 
được chuẩn bị kĩ lưỡng trước buổi thi, tất cả thí sinh, 
giám khảo và những người có trách nhiệm khác đều phải 
được biết trước những gì và khi nào họ phải làm. Mọi thứ 
phục vụ kì thi phải được sẵn sàng bao gồm phòng thi, 
phòng chờ, phòng máy (nếu có dạng thi nói kết hợp với 
nghe), máy ghi âm, nhân lực hỗ trợ như kĩ thuật viên, 
giám sát, trợ lí,... 
2.2. Các yếu tố cần lưu ý để đảm bảo độ tin cậy và tính 
giá trị của quá trình đánh giá kĩ năng nói 
Theo Arthur Hughes (1997), việc ĐG chính xác khả 
năng nói không hề dễ dàng, việc này đòi hỏi rất nhiều 
công sức và thời gian. Tuy nhiên, nếu chúng ta cần một 
kết quả công bằng để đưa ra một quyết định quan trọng 
thì việc đầu tư thời gian và công sức vẫn là việc phải làm 
[3; tr 114]. Sau đây là một số điều cần lưu ý để có được 
một kết quả ĐG tốt: 
2.2.1. Một số đặc điểm khác biệt giữa ngôn ngữ nói và 
ngôn ngữ viết 
Theo tổng kết của một số nhà ngôn ngữ như Sari 
Luoma (2009) hay Coombe Christine (2007), ngôn ngữ 
nói có các đặc điểm khác biệt chính cần phải lưu ý khi 
ĐG so với KN viết như sau: 
- KN nói có liên quan đến sự đa dạng về phát âm 
(pronunciation). Phát âm thường được xem là một trong 
các tiêu chí ĐG KN nói, tuy nhiên rất khó đưa ra khái 
niệm chuẩn trong phát âm vì tiếng Anh cũng như các 
ngôn ngữ khác đều có sự đa dạng về vùng miền. Hơn 
nữa, thực tế cho thấy, hầu hết học viên có được dạy về 
phát âm nhưng rất ít người có thể nói chuẩn như người 
bản ngữ. Bên cạnh phát âm, việc sử dụng đa dạng về âm 
lượng, ngữ điệu, tốc độ nói, ngắt nghỉ... cũng giúp người 
nói diễn đạt tốt hơn những gì muốn nói. Vì vậy, theo các 
nhà ngôn ngữ khi đưa ra tiêu chí ĐG có thể kết hợp linh 
hoạt giữa khả năng phát âm và hiệu quả giao tiếp chứ 
không nên chú trọng quá vào một khía cạnh. Còn nếu 
phát âm là một tiêu chí ĐG quan trọng thì GV phải được 
biết để có các ĐG cụ thể hơn về khía cạnh này. 
- Ngữ pháp trong văn nói (spoken grammar) nên 
được ĐG khác với ngữ pháp trong văn viết. Các câu 
trong văn viết thường là câu phức có kết cấu chặt chẽ và 
sử dụng từ nối liên kết văn bản vì bài viết sẽ được đọc 
sau đó mà không có mặt người viết để có thể giải thích 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 449 (Kì 1 - 3/2019), tr 36-41 
39 
hay giảng giải thêm, còn trong văn nói người nói chủ yếu 
tập trung vào truyền tải các ý cần nói (idea units), các câu 
được sử dụng thường là câu đơn kèm các từ nối như và, 
hoặc, nhưng thậm chí chỉ là các cụm từ ngắn như cụm 
danh từ, cụm động từ hay cụm giới từ và trong câu không 
hề có động từ nhưng cuộc trò chuyện vẫn thành công vì 
đây là hình thức giao tiếp trực tiếp và người nói có thể sử 
dụng thêm ngữ điệu, thái độ, nét mặt,... để hỗ trợ giao 
tiếp. Với đặc điểm như vậy nên khía cạnh ngữ pháp trong 
kiểm tra, ĐG KN nói cũng nên có đặc thù riêng. 
- Từ vựng trong văn nói (spoken words). Khi viết, 
người viết thường có thời gian để trau chuốt, lựa chọn từ 
vựng độc đáo, còn khi nói để làm được việc đó người nói 
thường phải chèn các từ hoặc cụm từ để lấp chỗ trống 
(fillers), các từ chỉ sự lưỡng lự (hesitation markers), hô 
ngữ hoặc nhắc lại,... để có thời gian nghĩ về những gì sắp 
nói tiếp, ví dụ: That’s a good question (thật là một câu 
hỏi thú vị), let me see (để tôi xem nào), you see (như bạn 
biết đấy), well, oh, yes,... Khả năng sử dụng thành thạo 
những từ này sẽ góp phần tạo được độ trôi chảy của bài 
nói. Một điều cần lưu ý nữa là nhiều thang điểm nói đưa 
ra tiêu chí về cách sử dụng từ độc đáo (less common 
words). Tuy nhiên, trong văn nói thông thường thì các từ 
thông dụng đơn giản cũng không kém phần thú vị, miễn 
là chúng được sử dụng tự nhiên và đúng ngữ cảnh. Vì 
vậy, việc sử dụng thành công những từ này cũng phải 
được ĐG xứng đáng. 
Việc biết được những khác biệt giữa KN viết và nói 
sẽ giúp việc ĐG được linh hoạt và công bằng hơn. 
2.2.2. Tập huấn đội ngũ giảng viên chấm thi 
Theo các chuyên gia, bước quan trọng nhất trong quy 
trình kiểm tra, ĐG là tập huấn đội ngũ GV chấm thi. Các 
khóa huấn luyện này có thể diễn ra trong vài ngày. Cuối 
khóa, học viên phải được kiểm tra để đảm bảo rằng khả 
năng chấm của họ đã đạt trình độ ngang với những giám 
khảo có kinh nghiệm. Trong quá trình chấm, nếu giám 
khảo nào chưa vững sẽ phải được huấn luyện lại [1; tr 
177-178]. Điều này cũng được Arthur Hughes (1997) 
nhấn mạnh: “... tính hiệu quả của các tiêu chí và thang 
điểm chấm phụ thuộc vào việc tập huấn đội ngũ giám 
khảo” [3; tr 113]. Sau khi đã được tập huấn, giám khảo 
phải tuân thủ đúng các bước, thời gian hỏi cho mỗi thí 
sinh, bám sát các tiêu chí, thang điểm đã được đưa ra. 
2.2.3. Tuân thủ đúng các quy định khi chấm 
- Một yếu tố then chốt để đảm bảo độ tin cậy của việc 
ĐG KN nói đó là một thí sinh phải được ĐG bởi ít nhất 
hai giám khảo. Điều này đã được các tác giả Coombe 
Christine và cộng sự (2007) khẳng định: “Vì yếu tố chủ 
quan là vấn đề lớn trong ĐG KN nói nên một giải pháp 
được đưa ra là nhiều GV cùng ĐG một thí sinh. Càng 
nhiều GV chấm thì độ tin cậy của kết quả càng cao. 
Thông thường, sẽ có hai GV ĐG và mỗi người có một vai 
trò khác nhau. Một người sẽ tương tác với SV dựa trên 
những câu hỏi, nội dung đã có sẵn để đảm bảo công bằng 
cho các SV, còn người kia sẽ tập trung chấm dựa trên 
các tiêu chí ĐG và thang điểm đã có sẵn đồng thời ghi 
chép những điều cần lưu ý để nếu cần có thể phản hồi lại 
cho SV rút kinh nghiệm. Sau khi thí sinh đã rời khỏi 
phòng hai GV sẽ thảo luận để có kết luận điểm cuối 
cùng” [2; tr 116]. 
- Việc ĐG phải tập trung vào khả năng ngôn ngữ chứ 
không nên bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố khác như hình 
thức, trang phục,... của thí sinh. 
- Thời gian tiến hành kiểm tra cần đủ dài để có thể 
đánh giá chính xác trình độ SV (theo Arthur Hughes 
(1997) nên tối thiểu là 15 phút, còn lí tưởng là 30 phút. 
Tuy nhiên, nếu là kiểm tra với mục đích xếp lớp thì chỉ 
cần 5-10 phút là đủ). 
- Việc phỏng vấn cần được tiến hành trong phòng yên 
tĩnh có độ cách âm tốt, đặc biệt là khi cần ghi âm lại phần 
nói của SV. 
- GV cần tạo cho SV tinh thần thoải mái khi bước vào 
phần thi, họ có thể mở đầu bằng những câu hỏi đời 
thường như thời tiết, sức khỏe, sở thích... GV không nên 
để SV nhìn thấy việc đánh giá của mình trong quá trình 
SV thực hiện phần thi vì nó sẽ làm phân tán sự tập trung 
của SV. 
- GV có thể khéo léo dừng phần thi của SV trước thời 
gian quy định nếu thấy SV quá kém vì việc hỏi thêm 
cũng không đem lại kết quả gì. Mặt khác, đối với những 
SV cần thêm thông tin để đánh giá chính xác trình độ của 
họ thì GV có thể hỏi nhiều hơn. 
- GV khi hỏi thi không nên nói hoặc giải thích quá 
nhiều vì việc này sẽ giảm bớt thời gian nói của SV. 
- Nên sử dụng nhiều dạng bài và nhiều câu hỏi, chủ 
đề đa dạng để tạo sự hứng thú cho thí sinh và có được kết 
quả ĐG chính xác hơn. 
2.2.4. Kết hợp việc đánh giá quá trình với đánh giá cuối kì 
Theo Coombe Christine và cộng sự (2007), KN nói 
của SV có thể được tiến hành theo hai cách: ĐG nói trên 
lớp (Classroom Speaking Assessment) và ĐG KN nói 
trong các kì thi chính thức (Formal Speaking 
Asessment). ĐG trên lớp có thể thực hiện thông qua một 
số dạng như trình bày (Oral Presentations) - đây là một 
KN thường được sử dụng vì nó rất thiết thực với SV 
trong môi trường học thuật, việc ĐG này không chỉ chú 
trọng vào độ chính xác và trôi chảy của ngôn ngữ mà còn 
bao gồm cả ngôn ngữ cơ thể, biểu hiện nét mặt, ánh mắt, 
cử chỉ,... tranh luận về một chủ đề (Debate on a 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 449 (Kì 1 - 3/2019), tr 36-41 
40 
Controversial Topic), đọc to (Reading Aloud), kể chuyện 
(Retelling Stories), nói về một chủ đề đã được chuẩn bị 
trước (Verbal Essays), nói về một chủ đề chưa được 
chuẩn bị trước (Extemporaneous Speaking). 
Trên đây là những điều cần phải lưu ý và tuân thủ khi 
tiến hành ĐG KN nói tiếng Anh đã được các chuyên gia 
nghiên cứu và đề xuất. 
2.3. Một số nhận xét và đề xuất đối với các phần thi nói 
thuộc các học phần tiếng Anh cơ bản của Bộ môn Anh 
văn Trường Đại học Giao thông Vận tải 
Từ khi thực hiện Đề án ngoại ngữ 2020, tất cả các học 
phần thi tiếng Anh tại Trường Đại học Giao thông Vận 
tải đều có ĐG KN nói của SV. Sau đây là bảng thống kê 
đề thi nói của các học phần tiếng Anh cơ bản được Bộ 
môn Anh văn biên soạn (phần nói của tiếng Anh chuyên 
ngành sẽ không được đề cập và bàn luận do chúng có đặc 
thù riêng). 
Bảng 3. Sơ lược các bài thi nói của các học phần 
tiếng Anh cơ bản từ khi áp dụng chuẩn đầu ra đến nay 
Cấp 
độ 
Số lượng và 
dạng bài 
Cách 
thức 
thi 
Điểm 
nói/ 
tổng 
điểm 
bài thi 
Hướng 
dẫn chấm 
A1 
Gồm 2 phần: 
- Phần 1: Hỏi 
đáp giữa GV 
và SV về chủ 
đề quen thuộc 
(7 câu - 10 
điểm) 
- Phần 2: 
Miêu tả tranh 
(10 điểm) 
Từng 
thí 
sinh 
vào 
thi 
20/100 
- Có câu 
hỏi gợi ý 
cho phần 
một, có 
đưa ra 
một số 
tiêu chí 
chấm cho 
phần mô 
tả tranh 
- Không 
có thang 
điểm 
chấm 
cụ thể 
- Không 
có quy 
định thời 
gian 
A2 
Gồm 2 phần 
theo đề KET: 
- Phần 1: Hỏi 
đáp giữa GV 
và SV về chủ 
Thi 
theo 
cặp 
25/100 
- Có câu 
hỏi gợi ý 
cho phần 
một 
đề quen thuộc 
(5-8 câu trong 
5-6 phút, 10 
điểm) 
- Phần 2: Thí 
sinh hỏi đáp 
dựa trên các 
gợi ý đã được 
in sẵn trong 
phiếu thi (3-4 
phút, 10 điểm) 
- Có quy 
định thời 
gian tổng 
và thời 
gian cho 
từng 
phần. 
- Không 
có thang 
điểm 
chấm 
cụ thể. 
B1, 
B1* 
Gồm 3 phần: 
- Phần 1: Hỏi 
đáp giữa GV 
và SV về chủ 
đề quen thuộc 
( 2-3 phút, 5 
điểm) 
- Phần 2: 
Miêu tả tranh 
(3 phút, 10 
điểm) 
- Phần 3: Hai 
SV thảo luận 
về chủ đề liên 
quan tới bức 
tranh (3 phút, 
10 điểm) 
Thi 
theo 
cặp 
25/100 
- Có câu 
hỏi gợi ý 
cho phần 
một 
- Có quy 
định thời 
gian tổng 
và thời 
gian cho 
từng phần 
- Không 
có thang 
điểm 
chấm 
cụ thể 
B2, 
B2*, 
C1, 
C1* 
Dạng đề thi 
IELTS 
Từng 
thí 
sinh 
vào 
thi 
Theo 
thang 
IELTS 
Theo 
hướng 
dẫn chấm 
của 
IELTS 
Dựa trên bảng thống kê trên và thực trạng việc ra 
đề thi, coi thi, chấm thi các phần nói của SV tại Bộ môn 
Anh văn, đồng thời so với các quy trình chuẩn cũng 
như những lưu ý đề cập ở trên, chúng tôi xin đưa ra một 
số nhận xét và đề xuất thay đổi cho việc ĐG KN nói 
như sau: 
2.3.1. Về đề thi và hướng dẫn chấm 
Đề thi nói của bộ môn có các dạng giống với đề thi 
nói được các chuyên gia đề cập đó là phỏng vấn, mô tả 
tranh, thảo luận và đặc biệt là các đề nói của học phần 
A2, B1, B1*, B2, B2*, C1, C1* lấy dạng chuẩn của đề 
thi quốc tế khung châu Âu và IELTS nên nhìn chung là 
ổn. Vấn đề cần rút kinh nghiệm ở đây là phần hướng dẫn 
chấm. Đối với các bài thi dạng IELTS thì bộ môn có cung 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 449 (Kì 1 - 3/2019), tr 36-41 
41 
cấp cho GV phần mô tả thang điểm theo thang điểm 9 
của quốc tế, còn các học phần còn lại thì chưa có, vì vậy 
GV chấm sẽ chỉ chấm vo là chủ yếu và việc chênh điểm 
giữa các GV sẽ dễ xảy ra. Vì vậy, trong thời gian tới, khi 
tiến hành rút kinh nghiệm, các nhóm sẽ rà soát lại và bổ 
sung thêm thang điểm chi tiết. Nên sử dụng loại thang 
điểm chia nhỏ (Analytic scales) để dễ chấm và độ chính 
xác cao hơn. Riêng đề nói A1 cần cho thêm quy định thời 
gian thi của mỗi phần cũng như tổng thời gian thi của 
mỗi lượt SV. 
2.3.2. Về cách tổ chức thi 
Phần thi nói được tiến hành ngay sau khi SV làm bài 
viết sẽ giúp tiết kiệm được thời gian, tuy nhiên nếu số SV 
của phòng thi đông thì nên hỗ trợ thêm GV hỏi thi để 
đảm bảo tổng thời gian cho mỗi lượt thi vì như đã đề cập 
ở trên thời gian cần có cho mỗi thí sinh hoặc một cặp thí 
sinh ít nhất là 10-15 phút mới đảm bảo có được kết quả 
ĐG chính xác. Một lưu ý nữa là khi các em đợi ở ngoài 
phòng thi chờ đến lượt thường hay gây ồn ào, ảnh hưởng 
đến độ tập trung của cả thí sinh và giám khảo trong phòng 
thi nên nếu có thể thì nên bố trí cho các em ngồi vào một 
phòng gần đó, không đứng ngoài hành lang. Trước khi 
hỏi thi, GV cần kiểm tra kĩ thẻ SV để hạn chế tình trạng 
thi hộ và yêu cầu SV kí vào bảng điểm. Việc này GV bộ 
môn đã thực hiện khá tốt và đã nhiều lần phát hiện được 
các trường hợp nhờ thi hộ. 
2.3.3. Về quy trình chấm thi 
So với các bước chuẩn khi tiến hành chấm thi đã nêu 
ở trên, Bộ môn Anh văn cũng cần rút kinh nghiệm ở một 
số khâu. Tập huấn GV là khâu tiên quyết để có được độ 
tin cậy trong chấm thi, đặc biệt là đối với KN nói, một 
KN bị ảnh hưởng chủ quan của người chấm rất lớn, 
nhưng bộ môn Anh văn chưa làm được. Trong thời gian 
tới, Bộ môn nên tổ chức các khóa học ngắn để hướng dẫn 
thêm về cách chấm nói và viết, đây là 2 KN rất dễ bị 
chấm chênh lệch điểm giữa hai giám khảo. Khâu tiếp 
theo là theo đúng quy định, thí sinh phải được ít nhất hai 
giám khảo chấm và thống nhất đưa ra điểm cuối cùng, 
nhưng do điều kiện SV đông nên Bộ môn thường chỉ 
phân công một giám khảo, vậy nên để hạn chế tối đa việc 
điểm chấm bị chênh thì các GV phải hội ý thống nhất 
trước khi chấm. Một chú ý nữa là GV cần tuân thủ đủ các 
phần và lượng thời gian nói của SV như quy định, trong 
thực tế vì lượng SV đông nên một số GV đã không làm 
được như vậy. Tiếp theo là việc ĐG KN nói của SV có 
thể được thực hiện kết hợp cả hai cách như đề cập ở trên 
là ĐG quá trình trên lớp và ĐG trong bài thi cuối kì để 
kết quả ĐG được chính xác hơn. 
3. Kết luận 
Kiểm tra, ĐG luôn là động lực để thúc đẩy quá trình 
học ngoại ngữ trong đó có KN nói. ĐG chính xác KN 
này là một việc làm khó do bị tác động bởi yếu tố chủ 
quan. Hi vọng bài viết sẽ là một tài liệu tham khảo hữu 
ích cho những ai quan tâm đến vấn đề ĐG KN nói tiếng 
Anh, đồng thời những nhận xét, đề xuất của chúng tôi đề 
cập trong đây cũng sẽ được Bộ môn Anh văn quan tâm 
và có những thay đổi cho phù hợp hơn trong thời gian tới 
để việc kiểm tra, ĐG môn Tiếng Anh nói chung và việc 
kiểm tra, ĐG KN nói tiếng Anh nói riêng trong các học 
phần tiếng Anh cơ bản cho SV Trường Đại học Giao 
thông Vận tải đạt được hiệu quả như mong muốn. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Luoma Sari (2009). Assessing Speaking. Cambridge 
University Press. 
[2] Coombe Christine - Keith Folse - Nancy Hubley 
(2007). A practical guide to Assessing English 
Language Learners. The University of Michigan 
Press. 
[3] Hughes Arthur (1997). Testing for Language 
Teachers. Cambridge University Press. 
[4] Folse, K. S. (2006). The art of teaching speaking: 
Research and pedagogy for ESL/EFL classroom. 
University of Michigan Press. 
[5] Bachman F. L. - Palmer S. (1996). Language 
Testing in Practice. Oxford University Press. 
[6] Heaton, J. B. (1990). Writing English Language 
Tests. Longman Handbooks for Language Teachers. 
[7] Weir Cyril (1993). Understanding & Developing 
Language Tests. Prentice Hall International. 
[8] Dương Thị Hoàng Oanh (2011). Kiểm tra, đánh giá 
kĩ năng nói tiếng Anh cấp đại học. NXB Đại học 
Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. 
[9] Lê Thị Minh Nguyệt (2017). Áp dụng đánh giá 
thay thế trong đánh giá kĩ năng nói tiếng Anh ở bậc 
đại học. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 7, 
tr 234-237. 
[10] Trương Trần Minh Nhật (2018). Thực trạng kĩ năng 
nói tiếng Anh và đề xuất một số hoạt động tự rèn 
luyện nói tiếng Anh ngoài lớp học cho sinh viên 
chuyên ngành Kĩ thuật Trường Đại học Công 
nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Giáo dục, 
số 435, tr 54-59.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_yeu_to_can_xem_xet_khi_tien_hanh_danh_gia_ki_nang_noi.pdf