Nghiên cứu ảnh hưởng của truyền thông xã hội tới hiệu quả hoạt động kinh doanh trực tuyến của các doanh nghiệp Việt Nam
Trrong khoảng một thập kỷ gần đây, các mạng xã hội đang có sự phát triển nhanh chóng cả về loại hình và số lượng người dùng. Người dùng mạng xã hội nói chung thường có thói quen học tập, nghe ngóng, thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm từ bạn bè dưới tác động qua lại lẫn nhau. Các doanh nghiệp đã nhìn thấy cơ hội rất lớn và hòa nhập cùng với xu hướng này, trong khi đó khách hàng đang giữ vai trò trung tâm trong hoạt động kinh doanh thông qua truyền thông xã hội. Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra truyền thông xã hội đang hỗ trợ cho các doanh nghiệp cải thiện và nâng cao vị trí trong sự chuyển đổi. Hơn lúc nào hết, sự tác động mạnh mẽ của truyền thông xã hội đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu cũng như các doanh nghiệp kinh doanh trực tuyến cả trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Mặc dù vậy, cho đến nay các nghiên cứu về tác động của truyền thông xã hội đối với khách hàng và doanh nghiệp tại Việt Nam vẫn còn khá hạn chế. Đặc biệt nghiên cứu về sự ảnh hưởng của truyền thông xã hội tới hiệu quả hoạt động kinh doanh trực tuyến thì chưa có tiền lệ tại Việt Nam. Bài viết của tác giả đã đề xuất mô hình đo lường ảnh hưởng của truyền thông xã hội tới hiệu quả hoạt động kinh doanh trực tuyến của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh mạng xã hội đang có sự phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết và những thông tin lan tỏa trên cộng đồng mạng xã hội có sức ảnh hưởng tới quyết định của những người tham gia
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu ảnh hưởng của truyền thông xã hội tới hiệu quả hoạt động kinh doanh trực tuyến của các doanh nghiệp Việt Nam
Mở đầu Ngày nay, nhiều doanh nghiệp sử dụng truyền thông xã hội như là một phần của marketing mix, được xem là các ứng dụng dựa trên mạng Internet cho phép các đối tượng như doanh nghiệp, khách hàng tạo lập và trao đổi thông tin, nội dung. Hơn thế nữa, truyền thông xã hội mang đặc điểm người sử dụng kết nối thông qua các hệ thống mạng và các doanh nghiệp sử dụng mạng xã hội không chỉ liên kết với khách hàng, mà còn tạo sự thân thiết, tăng cường quan hệ giữa họ với khách hàng. Với việc đầu tư vào truyền thông xã hội, các doanh nghiệp mong đợi khách hàng sẽ tham gia và gắn kết với các hoạt động liên quan đến hình ảnh, thương hiệu của doanh nghiệp thông qua các mạng xã hội, ví dụ như tải các video, hình ảnh, viết các blog và tham gia vào các cộng đồng truyền thông, thảo luận hay bình luận về nội dung trên công cụ truyền thông xã hội. Hầu hết các nhà nghiên cứu và doanh nghiệp đều nhận thấy vai trò quan trọng của truyền thông xã hội đối với kinh doanh trực tuyến và họ đã sử dụng trong các hoạt động kinh doanh của mình (Proefschrift, 2015). 1. Cơ sở lý thuyết 1.1. Truyền thông xã hội Hiểu một cách chung nhất, truyền thông xã hội là thuật ngữ chỉ cách thức truyền thông sử dụng nền 31 Sè 128/2019 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI TỚI HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TRỰC TUYẾN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM Nguyễn Trần Hưng Trường Đại học Thương mại Email: hung.tmdt@gmail.com Vũ Thị Thúy Hằng Trường Đại học Thương mại Email: hangtmdt@tmu.edu.vn Ngày nhận: 01/04/2019 Ngày nhận lại: 15/04/2019 Ngày duyêt đăng: 19/04/2019 T rrong khoảng một thập kỷ gần đây, các mạng xã hội đang có sự phát triển nhanh chóng cả về loại hình và số lượng người dùng. Người dùng mạng xã hội nói chung thường có thói quen học tập, nghe ngóng, thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm từ bạn bè dưới tác động qua lại lẫn nhau. Các doanh nghiệp đã nhìn thấy cơ hội rất lớn và hòa nhập cùng với xu hướng này, trong khi đó khách hàng đang giữ vai trò trung tâm trong hoạt động kinh doanh thông qua truyền thông xã hội. Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra truyền thông xã hội đang hỗ trợ cho các doanh nghiệp cải thiện và nâng cao vị trí trong sự chuyển đổi. Hơn lúc nào hết, sự tác động mạnh mẽ của truyền thông xã hội đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu cũng như các doanh nghiệp kinh doanh trực tuyến cả trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Mặc dù vậy, cho đến nay các nghiên cứu về tác động của truyền thông xã hội đối với khách hàng và doanh nghiệp tại Việt Nam vẫn còn khá hạn chế. Đặc biệt nghiên cứu về sự ảnh hưởng của truyền thông xã hội tới hiệu quả hoạt động kinh doanh trực tuyến thì chưa có tiền lệ tại Việt Nam. Bài viết của tác giả đã đề xuất mô hình đo lường ảnh hưởng của truyền thông xã hội tới hiệu quả hoạt động kinh doanh trực tuyến của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh mạng xã hội đang có sự phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết và những thông tin lan tỏa trên cộng đồng mạng xã hội có sức ảnh hưởng tới quyết định của những người tham gia. Từ khóa: truyền thông xã hội; mạng xã hội; kinh doanh trực tuyến; cộng đồng mạng; hiệu quả hoạt động. 31 tảng các dịch vụ trực tuyến, có thể là dưới hình thức của các website mạng xã hội giao lưu chia sẻ thông tin cá nhân (MySpace, Facebook, Twitter, Google+.) hay các mạng xã hội chia sẻ những tài nguyên cụ thể (tài liệu - Scribd, ảnh - Flickr, video - YouTube). Do có tính chất đối thoại, loại hình truyền thông này cho phép người dùng bình luận, trao đổi ý kiến. Từ đó, các tin tức có thể được chia sẻ và lan truyền nhanh chóng trong cộng đồng người dùng mạng xã hội. Bởi vì truyền thông là công cụ để giao tiếp, nên truyền thông xã hội vẫn duy trì vai trò là phương tiện giao tiếp có yếu tố xã hội. Không chỉ cung cấp thông tin, mà còn cung cấp diễn đàn cho cá nhân tương tác với nhau - truyền thông xã hội mở ra một thế giới giao tiếp mới, trong đó con người là trung tâm. 1.2. Hoạt động kinh doanh trực tuyến và hiệu quả hoạt động kinh doanh trực tuyến Hoạt động kinh doanh nói chung được hiểu là việc thực hiện một phần hoặc toàn bộ các công đoạn của quá trình từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm nhằm mục tiêu lợi nhuận. Với sự phát triển mạnh mẽ của Internet và Web, hoạt động kinh doanh có sự chuyển dịch một phần từ kinh doanh truyền thống sang kinh doanh trực tuyến. Hiểu một cách đơn giản, hoạt động kinh doanh trực tuyến là việc thực hiện bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào trên mạng Internet. Với nghĩa rộng hơn, hoạt động kinh doanh trực tuyến là việc sử dụng Web, Internet, mạng nội bộ, extranet hoặc một số kết hợp của chúng để tiến hành kinh doanh. Hoạt động kinh doanh trực tuyến tương tự như các hoạt động thương mại điện tử, nhưng có nội hàm rộng hơn nhiều so với việc mua và bán các sản phẩm và dịch vụ trực tuyến. Ngoài mua bán trực tuyến, hoạt động kinh doanh trực tuyến bao gồm việc thực hiện một loạt các quy trình kinh doanh chẳng hạn như quản lý chuỗi cung ứng, xử lý đơn hàng điện tử và đặc biệt là quản lý quan hệ khách hàng. Trong kinh doanh trực tuyến, có nhiều mô hình kinh doanh khác nhau mà doanh nghiệp có thể áp dụng tùy theo điều kiện thực tế và sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp. Mạng xã hội cũng là một trong những mô hình kinh doanh trực tuyến dựa trên việc tạo lập nền tảng kết nối, chia sẻ, lan tỏa để tiến hành thu tiền từ hoạt động bán quảng cáo cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia truyền thông. Hiệu quả hoạt động kinh doanh trực tuyến của doanh nghiệp Trong kinh doanh nói chung, tính hiệu quả liên quan đến chất lượng của các kết quả bắt nguồn từ các nhiệm vụ được hoàn thành bởi cả nhân viên và người quản lý của doanh nghiệp. Để tạo hiệu quả tại nơi làm việc, một nhân viên hoặc người quản lý cần cung cấp kết quả nhất quán. Chẳng hạn: nếu ai đó là người quản lý hoạt động truyền thông và các chiến dịch truyền thông của họ mang lại số lượng lớn khách hàng tiềm năng, thì hoạt động truyền thông đó được coi là hiệu quả. Tuy nhiên, để xác định hiệu quả hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp cần tiến hành đánh giá các tiêu chí khác như doanh thu, lợi nhuận thu được và chi phí sử dụng (Drucker, 1963). Thực chất khái niệm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh là biểu hiện mặt chất lượng của các hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (nguyên vật liệu, thiết bị máy móc, lao động và đồng vốn) để đạt được mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Như vậy, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực đầu vào, do đó xét trên phương diện lý luận và thực tiễn, phạm trù hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá, so sánh, phân tích kinh tế nhằm tìm ra một giải pháp tối ưu nhất để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Nó thể hiện mối quan hệ tương quan giữa giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Thông thường hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung thường được thể hiện bằng mối quan hệ giữa 3 chỉ tiêu quan trọng là doanh thu, lợi nhuận thu được trên doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện sản xuất kinh doanh hoặc mức độ tăng trưởng của doanh thu thị phần so với mục tiêu chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Với các tiếp cận như trên về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung, đối với kinh doanh trực tuyến việc đo lường hiệu quả cũng sẽ được đo lường chủ yếu bằng 3 chỉ tiêu là doanh thu, lợi nhuận và chi phí. Từ những giả thuyết nghiên cứu trên cho phép xác lập mô hình và bộ thang đo nghiên cứu lý thuyết ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hiệu quả hoạt động kinh doanh trực tuyến (xem Hình 1 và Bảng 1). Sè 128/201932 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học 1.3. Ảnh hưởng của truyền thông xã hội tới hoạt động kinh doanh trực tuyến P. Mikalef(2012) cho rằng với sự phát triển nhanh chóng của truyền thông xã hội trong vài năm gần đây, các doanh nghiệp đã triển khai nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau nhằm đạt được lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực này và tạo cơ hội để quảng bá sản phẩm và dịch vụ của mình tới người tiêu dùng hiệu quả hơn. Theo H. Paquette (2013), trong thế giới công nghệ hiện nay, các trang mạng xã hội đã trở thành một đại lộ giúp các nhà bán lẻ có thể mở rộng các chiến dịch tiếp thị của họ cho một phạm vi rộng lớn hơn của người tiêu dùng. Các công cụ và phương pháp để giao tiếp với khách hàng đã thay đổi rất nhiều từ khi xuất hiện các phương tiện truyền thông xã hội. Do đó, các doanh nghiệp phải tìm hiểu làm thế nào để sử dụng phương tiện truyền thông xã hội một cách phù hợp và hiệu quả. Các quyết định mua hàng luôn được ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các khách hàng có sự hiểu hiết. Hơn thế nữa, người mua hàng trực tuyến thường có xu hướng cân nhắc và thông qua các ý kiến, bình luận của người mua hàng trước đó để ra các quyết định mua sắm nhằm giảm thiểu các rủi ro khi mua sản phẩm mới. Các cộng đồng xã hội trên Internet thúc đẩy doanh nghiệp cho phép các khách hàng chia sẻ kinh nghiệm cá nhân bằng cách viết các ý kiến, đánh giá và trò chuyện với các thành viên đáng tin cậy khác. Các doanh nghiệp kinh doanh trực tuyến hiện nay đang nắm bắt các dữ liệu dựa trên mối tương tác xã hội của khách hàng trên các website với mục tiêu để thấu hiểu và thúc đẩy sự ảnh hưởng của xã hội đối với quyết định mua sản phẩm của khách hàng, thông qua đó cải thiện mối quan hệ khách hàng và gia tăng doanh thu (Obiedat et al, 2013). Với các tiếp cận như trên, có thể hiểu ảnh hưởng của truyền thông xã hội là sự tác động của thông điệp, phương tiện và người dùng trên mạng xã hội gây ra những biến đổi nhất định trong tư tưởng, hành vi hoặc quá trình phát triển ở người, tổ chức hoặc sự vật nào đó. Đối với các cơ sở kinh doanh, ảnh hưởng của truyền thông xã hội sẽ có thể tác động tích cực và tiêu cực tới quá trình kinh doanh, cung cấp dịch vụ, xây dựng uy tín, lan tỏa thương hiệu và giá trị của doanh nghiệp hay tổ chức kinh doanh đó. Trong bối cảnh sự phát triển nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu của các mạng xã hội, truyền thông xã hội có tác động mạnh mẽ trong cả đời sống, hành vi mua của khách hàng và hoạt động kinh doanh trực tuyến của các doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp nói chung, nội dung ảnh hưởng của truyền thông xã hội tới hoạt động kinh doanh trực tuyến của doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở khả năng tương tác của các thông điệp truyền thông tác động tới khách hàng trực tuyến, ở khả năng tiếp cận khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp mà còn là mức độ lan tỏa thương hiệu, tầm ảnh hưởng và xây dựng cộng đồng khách hàng trung thành của doanh nghiệp. Với các tiếp cận như trên, ảnh hưởng của truyền thông xã hội tới hoạt động kinh doanh trực tuyến của doanh nghiệp được hiểu là tổng hòa tác động của các hoạt động truyền thông, trao đổi, chia sẻ, phản hồi trên mạng xã hội của cả doanh nghiệp và những người dùng làm thay đổi cách thức tiếp cận tương tác với khách hàng trực tuyến, lan tỏa thương hiệu, quảng cáo, bán hàng của doanh nghiệp. 2. Xây dựng các giả thuyết, mô hình và bộ thang đo nghiên cứu lý thuyết về ảnh hưởng của truyền thông xã hội tới hoạt động kinh doanh trực tuyến của doanh nghiệp Có rất nhiều lý thuyết về ý định lựa chọn sử dụng công nghệ mới để ứng dụng vào hoạt động truyền thông marketing nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên dưới đây là những lý thuyết mang tính phổ quát và áp dụng nhiều nhất trong việc nghiên cứu về việc ứng dụng truyền thông marketing trên mạng xã hội đối với các doanh nghiệp. Các lý thuyết này đã được chấp nhận và ứng dụng rộng rãi trong các nghiên cứu về hành vi, ý định lựa chọn sử dụng công nghệ trong hoạt động truyền thông marketing của các doanh nghiệp kinh doanh trực tuyến ở hầu hết quốc gia trên thế giới. Khung khái niệm các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh khi sử dụng marketing truyền thông xã hội của các doanh nghiệp tại Việt Nam được xây dựng dựa trên nền tảng lý thuyết gồm Thuyết hành động hợp lý (Theory of Reasoned Action – TRA) của Fishbein và Ajzen (1975, 1980), Thuyết hành vi dự định (Theory Plannet Behavioir – TPB) của Fishbein và Ajzen (1975), Mô hình chấp nhận công nghệ (Technology Acceptance Model – 33 Sè 128/2019 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học TAM) của Fred Davis và cộng sự (1989, 1993), Mô hình chấp nhận công nghệ TAM2 của Venkatesh và Davis (2000), Nghiên cứu về sự chấp nhận thương mại điện tử (Pavlou, 2003), Nghiên cứu ứng dụng mở rộng mô hình TAM của Hasslinger và cộng sự (2007), Quan điểm sự đa dạng dịch vụ của Chong & cộng sự (2012) và Nguyễn Minh Phát (2015), Ảnh hưởng của sự tin tưởng và nhận thức rủi ro đối với các nền tảng truyền thông xã hội của Wang và cộng sự (2016). Những yếu tố được đưa ra dưới đây chỉ là những yếu tố cơ bản của truyền thông xã hội và có ảnh hưởng lớn nhất đến hiệu quả hoạt động kinh doanh trực tuyến của các doanh nghiệp. - Sự chấp nhận sử dụng truyền thông xã hội Thang đo này được xây dựng dựa trên thuyết ý định hành vi của Fishbein và Ajzen (1975) và mô hình TAM của Davis (1989). Ý định phản ánh quyết định có thực hiện hành vi hay không. Khái niệm về ý định được đưa ra dựa trên mô hình TAM, ý định dùng để biểu đạt một trạng thái về sự sẵn sàng để thực hiện một hành vi cụ thể. Sự chấp nhận sử dụng truyền thông xã hội là đại diện cho sự tự nguyện và sự sẵn sàng trong nhận thức của người/nhóm người muốn sử dụng truyền thông xã hội trong hoạt động marketing của doanh nghiệp mình. Sự chấp nhận sử dụng truyền thông xã hội của các doanh nghiệp Việt Nam bị tác động bởi nhiều yếu tố, tựu trung lại trong ba nhóm yếu tố chính là nhận thức sự hữu ích, nhận thức sự dễ sử dụng và chi phí sử dụng truyền thông xã hội. H1+: Sự chấp nhận sử dụng truyền thông xã hội có ảnh hưởng trực tiếp và cùng chiều đến hiệu quả hoạt động kinh doanh trực tuyến của doanh nghiệp. - Sự rủi ro trong quá trình sử dụng truyền thông xã hội Sự xuất hiện của truyền thông xã hội mang đến các rủi ro cho các doanh nghiệp. Điều đáng chú ý trong các nghiên cứu gần đây, mọi người có thể dễ dàng tạo, chỉnh sửa và chia sẻ các nội dụng đến số lượng lớn mọi người. Các tương tác và các nội dụng của khách hàng này có thể dễ dàng trở thành mối đe dọa đối với các tổ chức khi các khách hàng thực hiện vai trò tích cực của đối tượng tham gia thị trường thông qua các trang truyền thông xã hội. Vì thế, sức mạnh của các cá nhân trong việc lan truyền các tin đồn và giải thích về doanh nghiệp trong thời gian ngắn được tăng lên và điều này có nghĩa là các doanh nghiệp sẽ có ít thời gian để phản ứng lại sự tấn công đó. Các đe dọa khác như sự tồn tại của Sè 128/201934 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học (Nguồn: Tổng hợp của nhóm nghiên cứu) ... nh khách quan, trung thực của thông tin cung cấp về doanh nghiệp và hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần phải cơ chế hỗ trợ cho các khách hàng trung thành của mình để các khách hàng này xây dựng uy tín trong cộng đồng. Doanh nghiệp có thể áp dụng các hình thức như: giảm giá hoặc cộng điểm (tích điểm thưởng) trong mua sắm, sử dụng hàng hóa và dịch vụ của doanh nghiệp cho những khách hàng này hoặc tặng quà, thưởng tiền mặt cho những khách hàng thân thiết. Bên cạnh đó, tạo điều kiện để những khách hàng thân thiết luôn là những người đầu tiên được trải nghiệm các tiện ích hay các sản phẩm, dịch vụ mới của doanh nghiệp, hỗ trợ họ xây dựng các đoạn video, những câu chuyện về trải nghiệm có thật của khách hàng trong quá trình mua sắm, sử dụng hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp để tạo sức ảnh hưởng tới cộng đồng khách hàng tiềm năng. + Các doanh nghiệp Việt Nam cần khơi nguồn ý tưởng mới về hàng hóa, dịch vụ cung cấp thông qua trí tuệ của khách hàng. Doanh nghiệp có thể sử dụng mạng truyền thông xã hội như một công cụ nghiên cứu thị trường hàng hóa, dịch vụ. Mạng xã hội cho phép mọi người đến với nhau, theo dõi và giữ kết nối với nhau.Ở vị trí của mình, các doanh nghiệp cũng nên làm điều đó với các khách hàng tham gia mua bán, thanh toán, sử dụng hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp vì truyền thông xã hội là một xa lộ hai chiều. Chẳng hạn, khi đang chuẩn bị tung ra một loại hình sản phẩm, dịch vụ mới hoặc một tiện ích mới của dịch vụ để làm khác biệt hóa sản phẩm, doanh nghiệp có thể thăm dò các khách hàng theo dõi, để biết những gì họ suy nghĩ về các chi tiết cụ thể như: mức giá, tiện ích nào họ muốn có thêm, tốc độ giao dịch, sự thuận tiện... Qua đó, các doanh nghiệp không chỉ đạt đến một kết quả nghiên cứu thị trường có giá trị về hàng hóa, dịch vụ đang cung cấp với chi phí thực sự tiết kiệm, mà còn thâm nhập được vào giới tiêu dùng trực tiếp để tìm hiểu quyết định mua hàng của họ. Ngoài ra, việc hỏi thăm ý kiến của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ cung cấp còn cho thấy rằng các doanh nghiệp thực sự coi trọng khách hàng. Một khi khách hàng cảm thấy những ý tưởng của họ sẽ trở thành hiện thực thì cũng có nghĩa là các doanh nghiệp đã tạo nên được loại hàng hóa, dịch vụ mới chưa có đối thủ cạnh tranh. Thứ hai, sử dụng những người có ảnh hưởng trong lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp trên mạng xã hội để thu hút và tạo quy mô khách hàng tiềm năng lớn hơn. Người có ảnh hưởng là người có thể tiếp cận đối tượng mục tiêu của doanh nghiệp, xây dựng niềm tin và thúc đẩy sự tương tác của khách hàng tiềm năng với doanh nghiệp. Họ sẽ tạo nội dung gốc, hấp dẫn phù hợp với thương hiệu của riêng họ thay vì bó buộc theo mẫu quảng cáo do doanh nghiệp cung cấp. Để có thể sử dụng những người có ảnh hưởng truyền thông xã hội, có tầm nhìn sáng tạo và phù hợp trong lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp trên mạng xã hội nhằm tác động 43 Sè 128/2019 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học tới cộng đồng khách hàng tiềm năng, doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện các công việc sau đây: + Xác định người có ảnh hưởng trên phương tiện truyền thông xã hội phù hợp với thương hiệu của doanh nghiệp. Sử dụng những người nổi tiếng là hình thức truyền thông xã hội có ảnh hưởng ban đầu. Nhưng trong thế giới kỹ thuật số ngày nay, những người tạo nội dung thường xuyên với khán giả thích hợp thường có thể mang lại nhiều giá trị hơn cho thương hiệu của doanh nghiệp. + Tìm kiếm sự tương tác và tin tưởng với đúng đối tượng. Khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp phải tin tưởng và tôn trọng ý kiến của những người có ảnh hưởng mà doanh nghiệp hợp tác. Nếu không có thành phần tin cậy, bất kỳ kết quả nào cũng sẽ hời hợt và doanh nghiệp sẽ rất khó khăn để xem xét tác động kinh doanh hữu hình từ những nỗ lực của mình. + Theo dõi những gì mà những người có ảnh hưởng tiềm năng của doanh nghiệp đang đăng, cụ thể là: tần suất những người này chia sẻ các nội dung được tài trợ. Nếu những người này đã cố thu hút người theo dõi của họ với một loạt các bài đăng trả tiền, tỷ lệ tương tác của họ có thể không theo kịp so với chi phí quảng cáo. Cái doanh nghiệp cần tìm là những người có ảnh hưởng với nhiều nội dung đăng không phải trả tiền mà vẫn giữ chân những người theo dõi quan tâm, nhiệt tình và tham gia vào các bài đăng này. + Ngoài những người có ảnh hưởng trên mạng xã hội trong lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp cũng cần kết hợp với các chuyên gia trong việc quảng cáo sản phẩm, dịch vụ hoặc thậm chí cộng tác như một tư vấn viên cho doanh nghiệp. Việc cộng tác với chuyên gia giúp đánh bóng thương hiệu và tăng sự thu hút, tin tưởng của người theo dõi. Đặc biệt, khi những ý kiến chuyên gia được chia sẻ qua mạng xã hội sẽ trở thành tâm điểm thu hút cả khách hàng cũng như những người đang theo dõi chuyên gia. Việc mời các chuyên gia quảng cáo cho sản phẩm của doanh nghiệp, hay kết hợp đưa lời khuyên, nhận định tùy thuộc vào từng chiến dịch truyền thông xã hội của doanh nghiệp. + Doanh nghiệp cần phải lưu ý khi yêu cầu người có ảnh hưởng đăng bài. Việc yêu cầu quá nhiều bài đăng trong một khung thời gian ngắn sẽ làm cho đề nghị của doanh nghiệp trở nên rất khó khăn cho người có ảnh hưởng để chấp nhận, ngay cả khi người đó được trả công lớn. Bởi vì, trong thời gian ngắn để có thể ảnh hưởng thu hút sự chú ý tới các khách hàng khác, người có ảnh hưởng đôi khi sẽ phải dùng thủ thuật như quảng cáo tài trợ hoặc mua lượt theo dõi, những điều này sẽ chẳng mang lại bất kỳ một giá trị chuyển đổi nào cho doanh nghiệp. Thứ ba, gia tăng trải nghiệm của khách hàng trực tuyến trên các trang mạng xã hội của doanh nghiệp để tạo dựng sự tin cậy và uy tín với khách hàng tiềm năng. Để làm được điều này, các doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện các công việc sau: + Tích hợp truyền thông xã hội vào toàn bộ trải nghiệm khách hàng. Sự kết hợp những phương tiện truyền thông mang đến cho khách hàng trải nghiệm mang tính cá nhân. Sự phản hồi của khách hàng ở nhiều độ tuổi với truyền thông xã hội sẽ khác nhau, dẫn đến việc đa dạng hóa sự lựa chọn và kênh tiếp cận. Do đó doanh nghiệp cần tích hợp các kênh bán hàng vào truyền thông xã hội. Sau đó, doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng trải nghiệm trọn vẹn và thuyết phục họ mua hàng bất cứ lúc nào họ đang trải nghiệm trên các phương tiện truyền thông xã hội. Lưu ý, khi tích hợp truyền thông xã hội vào toàn bộ trải nghiệm khách hàng, doanh nghiệp nên quan tâm tới chi phí và phân bổ nguồn lực để thực hiện. Nếu biết tận dụng tối ưu thì lợi nhuận cao, ngược lại thì có thể đơn hàng tăng nhưng lợi nhuận vẫn thấp. Lý do là bởi chi phí quảng cáo, chi phí theo dõi, thời gian quản lý, thuê thêm nhân viên đều tăng lên. Nếu không tối ưu được chi phí thì bắt buộc phải tăng giá bán thì lợi nhuận mới đảm bảo. Truyền thông xã hội không chỉ đóng vai trò phục vụ marketing hoặc quan hệ công chúng. Để tối ưu hóa kết quả sử dụng truyền thông xã hội, doanh nghiệp cần thấu hiểu hành vi khách hàng và gợi ý đúng thời điểm. + Với sự phát triển và cải tiến liên tục của các mạng xã hội như hiện nay, việc cần thiết của doanh nghiệp là tận dụng những cải tiến đó để làm cho Sè 128/201944 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học khách hàng cảm thấy mình được phục vụ theo cách đặc biệt với các dịch vụ được cá nhân hóa, chẳng hạn như: tính năng trò chuyện trong thời gian thực, video livestream của nhân viên bán hàng với khách hàng theo thời gian thực để được cung cấp và giải đáp các thông tin về sản phẩm, dịch vụ, về quá trình và trải nghiệm mua sắm theo yêu cầu của khách hàng. + Tổ chức và tập hợp các đánh giá tích cực về sản phẩm, doanh nghiệp trên mạng xã hội. Trước khi mua bất kỳ sản phẩm nào hoặc mua thứ gì đó từ một doanh nghiệp kinh doanh trực tuyến, thông thường người mua sẽ thực hiện tìm hiểu về sản phẩm dịch vụ và các đánh giá, nhận xét về sự uy tín của doanh nghiệp đó trên mạng xã hội. Đặc biệt khi bán sản phẩm chất lượng cao, các đánh giá tích cực trên mạng xã hội có tác dụng rất lớn trong việc tạo niềm tin của khách hàng vào uy tín thương hiệu của doanh nghiệp. Thực tế đã cho thấy, khách hàng sẵn sàng đầu tư nhiều tiền hơn vào các trải nghiệm mua hàng và sản phẩm tốt hơn với các đánh giá tốt. + Tổ chức tốt một đội ngũ chuyên trách về bán hàng và chăm sóc khách hàng trên trang mạng xã hội của doanh nghiệp để lắng nghe, thu hút, cung cấp thông tin và giải đáp thắc mắc, khiếu nại của khách hàng trong quá trình giao dịch. Thứ tư, thúc đẩy và gây cảm hứng cho các hành động tích cực của khách hàng để giảm thiểu rủi ro của truyền thông xã hội. Để làm được điều này, doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện các công việc sau đây: + Cung cấp cho khách hàng nhiều thông tin hơn về sản phẩm, dịch vụ và doanh nghiệp. Trên thực tế, chia sẻ những điều thú vị đằng sau sự ra đời của sản phẩm, về người đứng đầu công ty hay về những nhân viên thân thiện là bước đầu tiên khuyến khích khách hàng tham gia và chia sẻ thông điệp truyền thông của doanh nghiệp. + Tạo động lực cho các hành động tích cực của khách hàng với doanh nghiệp bằng việc hỗ trợ khách hàng. Doanh nghiệp có thể đưa ra các chính sách hỗ trợ việc kinh doanh hoặc vị trí trong cộng đồng mạng xã hội của một khách hàng với điều kiện họ đem lại một phản hồi tích cực. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thể mời những khách hàng thân thiết nhất tới dự buổi chia sẻ với CEO của công ty hay dành tặng phần thưởng cho khách hàng vì những chia sẻ mang tính xã hội tích cực. Những hoạt động này sẽ giúp doanh nghiệp tạo ảnh hưởng và động lực cho các hành động tích cực của khách hàng trên mạng xã hội. + Kỷ niệm thành công cùng với khách hàng. Khi khách hàng thành công trong việc tạo ra các tác động tích cực được lan truyền trên cộng đồng khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp cũng có nghĩa là doanh nghiệp đang thành công. Doanh nghiệp hãy để khách hàng đó thấy được những đóng góp trong thành công chung lớn tới mức nào, chẳng hạn như: Những khách hàng này thu hút được thêm bao nhiêu bạn bè của họ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp? Doanh thu của doanh nghiệp đã có cải thiện như thế nào nhờ vào những chia sẻ hay phản hồi của khách hàng?. Khi đạt được một cột mốc quan trọng trong sự nghiệp, doanh nghiệp nên chia sẻ cùng khách hàng của mình, đặc biệt là các khách hàng trung thành và có ảnh hưởng tích cực trên trang mạng xã hội. Điều này sẽ thúc đẩy và tạo động lực để khách hàng sẵn lòng đồng hành cùng doanh nghiệp trong các hoạt động kinh doanh tiếp theo. Tài liệu tham khảo: 1. P. Bharati et al (2015), Better knowledge with social media? Exploring the roles of social capital and organizational knowledge management, Journal of Knowledge Management, Vol. 19 Issue 3, pp. 456-475. 2. J. Carlsson (2010), An Assessment of Social Media Business Models and Strategic Implications for Future Implementation, Diploma in Advanced Strategy, University of Oxford Business School, pp. 6 -25. 3. Peter F. Drucker (1963), Managing for Business Effectiveness, Havard Business Review, May 1963 issue. 45 Sè 128/2019 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học 4. F. D. Davis, R. Bagozzi & P. Warshaw (1989), User acceptance of computer technology: A com- parison of two theoretical models, Management Science, 35, pp.982-1003. 5. Fred D. Davis (1993), User acceptance of information technology: system characteristics, user perceptions and behavioral impacts, International Journal of Man-Machine Studies, Vol.38, No.3, pp.475-487. 6. M. Fishbein & I. Ajzen (1975), Belief, Attitude, Intention and Behavior: An Introduction to Theory and Research, Addison - Wesley Published, NY. 7. E. Ferrara & Z. Yang (2015), Measuring Emotional Contagion in Social Media, PLoS ONE, Vol.10, No.11: e0142390. 8. Ngô Đình Giao (1997), Giáo trình quản trị kinh doanh tổng hợp trong các doanh nghiệp, NXB Khoa học Kỹ thuật Hà Nội. 9. C. Haythornthwaite et al (1995), Work rela- tionships and media use: A social network analysis, Group Decision and Negotiation, Vol.4, pp. 193-211. 10. K. Y. Lin & H. P. Lu (2011), Intention to con- tinue using Facebook fan pages from the perspec- tive of social capital theory, CyberPsychology, Behavior & Social Networking, Vol.14, No.10, pp. 565-570. 11. T. Nekatibebe. (2012), Evaluating the impact of social media on traditional marketing, Barchelor’s thesis, Helsinki Metropolia university of Applied Sciences, pp. 4 - 28. 12. Paul A. Pavlou (2003), Consumer Acceptance of Electronic Commerce: Integrating Trust and Risk with the Technology Acceptance Model, International Journal of Electronic Commerce, Vol.59, No.4, pp. 69-103. 13. R. Rauniar et al (2012), Technology accept- ance model (TAM) and Social Media Usage: an empirical study on facebook, Journal of Enterprise Information Management, Vol.27, pp. 6 - 30. 14. Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS - tập 2, Nhà xuất bản Hồng Đức, 21 - 41. 15. Nguyễn Đình Thọ (2011), Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, 35 - 115. 16. M. Trusov, R. Bucklin & K. Pauwels (2009), Effects of word-of-mouth versus traditional market- ing: Findings from an Internet social networking site. Journal of Marketing, Vol.73, No.5, pp. 90-102. 17. V. Venkatesh & Fred D. Davis (2000), A Theoretical Extension of the Technology Acceptance Model: Four Longitudinal Field Studies, Management Science, Vol.46, No.2 (Feb, 2000), pp. 186-204. Summary In the last decade, social networks are experienc- ing rapid growth in both type and number of users. Social network users often have a habit of learning, listening, discussing, and sharing experiences from friends under mutual interaction. Businesses have seen huge opportunities and merged with this trend, while customers are playing a central role in busi- ness performance through social media. Many stud- ies have shown that social media is supporting busi- nesses to improve and enhance their positions in the transition. More than ever, the strong impact of social media has been attracting the attention of many researchers as well as online enterprises both in the world and in Vietnam. However, currently, studies on the impact of social media on customers and businesses in Vietnam are still quite limited. Especially, research on the influence of social media on the effectiveness of online business has no prece- dent in Vietnam. The authors’ paper proposes a model to measure the impact of social media on the performance of online businesses of Vietnamese enterprises in the context of the ever-growing social network and information spreading on the social networking community has an impact on the deci- sion of the participants. Sè 128/201946 QUẢN TRỊ KINH DOANH thương mại khoa học
File đính kèm:
- nghien_cuu_anh_huong_cua_truyen_thong_xa_hoi_toi_hieu_qua_ho.pdf