Nghiên cứu xây dựng mô hình thống kê để tối ưu quá trình agglomerat hóa ứng dụng trong hòa tách đống quặng urani

Tóm tắt:

Hòa tách đống đã được ứng dụng phổ biến để xử lý các loại quặng hàm lượng thấp do chi phi đầu tư và vận hành thấp. Quá trình agglomerat hóa thông thường được áp dụng như một giai đoạn trung gian giữa giai đoạn đập quặng và giai đoạn tạo đống quặng trước khi tiến hành hòa tách. Các hạt mịn được gắn với các hạt thô hơn hoặc tự liên kết với nhau thành các hạt có kích thước lớn hơn trong quá trình agglomerat hóa. Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu là xây dựng được mô hình thống kê quá trình agglomerat hóa ứng dụng trong hòa tách đống quặng urani bán phong hóa vùng Pà Lừa - Pà Rồng nhằm tối ưu hóa giai đoạn agglomerat. Từ kết quả nghiên cứu, các tác giả đã lựa chọn được các thông số thích hợp có ảnh hưởng đến quá trình agglomerat hóa đối với quặng bán phong hóa: chi phí 20 kg H2SO4/tấn quặng, nồng độ H2SO4 250 g/l, độ ẩm khối quặng 8%

pdf 5 trang yennguyen 5440
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu xây dựng mô hình thống kê để tối ưu quá trình agglomerat hóa ứng dụng trong hòa tách đống quặng urani", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu xây dựng mô hình thống kê để tối ưu quá trình agglomerat hóa ứng dụng trong hòa tách đống quặng urani

Nghiên cứu xây dựng mô hình thống kê để tối ưu quá trình agglomerat hóa ứng dụng trong hòa tách đống quặng urani
4861(3) 3.2019
Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ
Đặt vấn đề
Thời gian đầu khi đưa phương pháp hòa tách đống vào 
vận hành thương mại, tính thấm của dung dịch hòa tách qua 
đống quặng đã trở thành vấn đề chính khi quặng chứa một 
lượng đáng kể các hạt có kích thước nhỏ. Các hạt có kích 
thước nhỏ có thể chuyển động xuống phía dưới cùng với 
dung dịch hòa tách hoặc có thể bít kín các lỗ trong quá trình 
hòa tách đống, từ đó dẫn tới tính thấm không tốt và làm cho 
hiệu suất hòa tách đống không cao. Quá trình agglomerat 
được áp dụng như là một quá trình trung gian giữa công 
đoạn nghiền và công đoạn xếp đống, để xử lý hiện tượng 
thấm nêu trên. Trong quá trình agglomerat, các hạt nhỏ 
được tập hợp lại với nhau hoặc các hạt nhỏ bám vào các hạt 
lớn hơn qua một quá trình xử lý để tạo ra các hạt có kích 
thước lớn hơn, đồng đều hơn, chịu được lực nén ép nhưng 
có độ thấm tốt [1-4].
Theo nghiên cứu của Adirek Janwong [4] thì agglomerat 
hóa là một trong những giải pháp có hiệu quả để nâng cao 
tính thấm của khối quặng, tăng cường phản ứng hòa tách 
xảy ra trong phương pháp hòa tách đống để xử lý các loại 
quặng nghèo chứa đồng, vàng hay urani... 
Đối tượng nghiên cứu cho quá trình agglomerat chủ yếu 
là các loại quặng có cấu trúc tơi xốp dễ gây tắc, quá trình gia 
công sinh hạt mịn... Quá trình này cũng tạo ra nhiều khoảng 
trống hơn trong hạt quặng sau khi được agglomerat hóa, cho 
phép tác nhân hòa tách di chuyển dễ dàng tới từng nơi trong 
hạt quặng, trong đống quặng [5]. 
Trong hòa tách đống quặng urani, quá trình agglomerat 
hóa gồm các bước sau: quặng urani đầu tiên được gia công 
tới cỡ hạt thích hợp, sau đó agglomerat hóa (phần hạt mịn 
hoặc toàn bộ) trong thiết bị trống quay bằng cách bổ sung 
nước, tác nhân hòa tách, nếu cần thiết thì thêm chất kết dính. 
Quặng sau khi agglomerat hóa xong, được tạo đống và tiến 
hành theo phương pháp hòa tách đống [6, 7]. 
Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các 
yếu tố chi phí axit H2SO4, nồng độ axit H2SO4 và độ ẩm 
của khối quặng đến giai đoạn agglomerat đối với quặng bán 
phong hóa (BPH) và tính toán phương trình hồi quy mô tả 
hiệu suất thu hồi urani trong quá trình hòa tách đống phụ 
thuộc vào các yếu tố trên.
Nội dung nghiên cứu
Đối tượng 
Quặng urani dạng BPH vùng Pà Lừa - Pà Rồng (Quảng 
Nam) có hàm lượng urani là 0,0905% U. Quặng được lấy, 
gia công sơ bộ theo đúng quy trình hướng dẫn của IAEA 
Nghiên cứu xây dựng mô hình thống kê 
để tối ưu quá trình agglomerat hóa 
ứng dụng trong hòa tách đống quặng urani
Trần Thế Định1*, Thân Văn Liên1, Phạm Văn Thiêm2
1Viện Công nghệ xạ hiếm, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam
2 Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Ngày nhận bài 4/6/2018; ngày chuyển phản biện 6/6/2018; ngày nhận phản biện 9/7/2018; ngày chấp nhận đăng 16/7/2018
*Tác giả liên hệ: tranthedinh0802@gmail.com
Tóm tắt: 
Hòa tách đống đã được ứng dụng phổ biến để xử lý các loại quặng hàm lượng thấp do chi phi đầu tư và vận hành 
thấp. Quá trình agglomerat hóa thông thường được áp dụng như một giai đoạn trung gian giữa giai đoạn đập quặng 
và giai đoạn tạo đống quặng trước khi tiến hành hòa tách. Các hạt mịn được gắn với các hạt thô hơn hoặc tự liên kết 
với nhau thành các hạt có kích thước lớn hơn trong quá trình agglomerat hóa. Nghiên cứu này được thực hiện với 
mục tiêu là xây dựng được mô hình thống kê quá trình agglomerat hóa ứng dụng trong hòa tách đống quặng urani 
bán phong hóa vùng Pà Lừa - Pà Rồng nhằm tối ưu hóa giai đoạn agglomerat. Từ kết quả nghiên cứu, các tác giả 
đã lựa chọn được các thông số thích hợp có ảnh hưởng đến quá trình agglomerat hóa đối với quặng bán phong hóa: 
chi phí 20 kg H
2
SO
4
/tấn quặng, nồng độ H
2
SO
4 
250 g/l, độ ẩm khối quặng 8%. 
Từ khóa: hòa tách đống, mô hình thống kê, quá trình agglomerat.
Chỉ số phân loại: 2.4
4961(3) 3.2019
Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ 
đến kích thước thích hợp cho quá trình xử lý bằng phương 
pháp hòa tách đống (xem bảng 1). 
Bảng 1. Tỷ lệ các cấp hạt quặng nguyên liệu sau khi gia công.
TT
Cấp hạt 
(mm)
Tỷ lệ khối 
lượng (%)
TT
Cấp hạt 
(mm)
Tỷ lệ khối 
lượng (%)
1 +10 47,3 4 +1,18 - 2,36 8,2
2 +5 - 10 12,8 5 +0,6 - 1,18 8,0
3 +2,36 - 5 5,7 6 -0,6 18,0
Cộng 100
Thiết bị, dụng cụ 
Hệ thiết bị agglomerat hóa, máy đập hàm Hòa Phát (Việt 
Nam), máy nghiền, máy trộn mẫu (Mỹ). Các thùng chứa, 
ống dẫn, bơm Cole-Parmer (Mỹ) Model No. 7553-75, máy 
đo pH 540 GLP (WTW) của Đức, máy đo thế oxy hóa khử
Quá trình hòa tách đống quặng và kiểm chứng thực 
nghiệm các thông số công nghệ được thực hiện trên hệ các 
thiết bị dạng cột nhựa PVC: D_cột=0,105 m, H=1,0 m; D_
cột=0,2 m, H=2,0 m. 
Phương pháp 
- Khảo sát quá trình agglomerat: số lượng mỗi mẻ thí 
nghiệm là 10 kg quặng đã được gia công tới cỡ hạt ≤1 cm 
(95%) và 92 g MnO2 85% (4 kg/tấn). Quặng và chất oxy 
hóa MnO2 được trộn đều và cho vào thùng quay. Các thông 
số khảo sát là chi phí axit, nồng độ axit và độ ẩm của khối 
quặng. Khi khảo sát một yếu tố thì các yếu tố còn lại của quá 
trình agglomerat được cố định. 
- Thực nghiệm: xử lý quặng urani đã agglomerat bằng 
phương pháp hòa tách đống với các thông số tổng chi phí 
axit là 40 kg H2SO4/tấn quặng, trong đó chi phí axit cho giai 
đoạn agglomerat chiếm khoảng 1/2 tổng chi phí axit; độ ẩm 
của khối quặng sau khi agglomerat là 8%, hòa tách đống 
được tiến hành với nồng độ axit 50 g/l, chi phí MnO2 4 kg/
tấn quặng, tốc độ tưới 30 l/m2/h và khối lượng quặng cho 
một mẻ hòa tách là 10 kg. 
Hàm lượng urani trong quặng, trong dung dịch và trong 
bã quặng sau hòa tách được phân tích bằng phương pháp 
ICP-MS Agilent USA 7500a tại Phòng thí nghiệm VILAS 
524 thuộc Trung tâm Phân tích, Viện Công nghệ xạ hiếm.
Hiệu suất thu hồi urani được xác định theo công thức: 
H = (m1/m0) x 100%.
Trong đó: m0 là khối lượng urani có trong quặng đem 
hòa tách, m1 là khối lượng urani thu được trong dung dịch 
hòa tách.
Kết quả và thảo luận
Kết quả nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quá 
trình agglomerat hóa quặng urani vùng Pà Lừa - Pà Rồng 
bằng phương pháp hòa tách đống
Ảnh hưởng của chi phí axit dùng cho quá trình 
agglomerat hóa đến hiệu suất thu hồi urani bằng phương 
pháp hòa tách đống:
Thí nghiệm được tiến hành như sau: cân 10 kg quặng đã 
được gia công + 46 g MnO2 85% (4 kg/tấn), sau đó trộn đều. 
Tiến hành khảo sát với lượng axit thay đổi: 10, 15, 20 kg 
H2SO4/tấn quặng; nồng độ axit 250 g/l; độ ẩm là 8%.
Sau khi agglomerat hóa xong toàn bộ, tiến hành hòa tách 
đống trên cột. Kết quả cho thấy với chi phí axit là 20 kg/tấn 
quặng (chỉ dùng cho giai đoạn agglomerat hóa) cho hiệu 
suất thu hồi urani cao 90,58%. Kết quả cụ thể được minh 
họa ở hình 1.
Study on statistical model 
building to optimise the 
agglomeration for applications 
in heap leaching of uranium ore
The Dinh Tran1*, Van Lien Than1, Van Thiem Pham2
1Institute for Technology of Radioactive and Rare Elements, 
Vietnam Atomic Energy Institute
2Hanoi University of Science and Technology
Received 4 June 2018; accepted 16 July 2018
Abstract: 
Heap leaching has been commonly used to treat 
low ores due to its low capital and operating costs. 
The agglomeration process is generally used as the 
intermediate process between crushing and stacking. 
Fine particles are attached to the coarser particles or 
bonded together to form bigger particles during the 
agglomeration. This research was conducted to build a 
statistical model of the agglomeration for applications in 
heap leaching of semi-weathered uranium ores in Pa Lua 
- Pa Rong area, aiming at optimising the agglomeration 
stage. Based on the results obtained, we has selected 
the suitable parameters which affect the agglomeration 
process of semi-weathered ores as follows: consumption 
of 20 kg H
2
SO
4
 per a tonne of uranium ore, concentration 
of 250 g H
2
SO
4 
per litre, ore moisture of 8%. 
Keywords: agglomeration process, heap leaching, 
statistical model.
Classification number: 2.4
5061(3) 3.2019
Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ
Hình 1. Sự phụ thuộc hiệu suất thu hồi vào chi phí axit với quặng 
BPH.
Ảnh hưởng của nồng độ axit dùng cho quá trình 
agglomerat hóa đến hiệu suất thu hồi urani bằng phương 
pháp hòa tách đống:
Thí nghiệm được tiến hành như sau: cân 10 kg quặng 
đã được gia công + 46 g MnO2 85% (4 kg/tấn). Tiến hành 
khảo sát với nồng độ axit thay đổi: 200, 250, 300 g/l; chi 
phí axit 20 kg/tấn quặng (cho giai đoạn agglomerat hóa); 
độ ẩm là 8%.
Sau khi agglomerat hóa xong, tiến hành hòa tách đống 
trên cột. Kết quả cho thấy với nồng độ axit là 250 g/l cho 
hiệu suất thu hồi urani cao nhất (đạt 90,58%). Kết quả cụ thể 
được minh họa trên hình 2.
Hình 2. Sự phụ thuộc hiệu suất thu hồi vào nồng độ axit với 
quặng BPH. 
Ảnh hưởng của độ ẩm quặng dùng cho quá trình 
agglomerat hóa đến hiệu suất thu hồi urani bằng phương 
pháp hòa tách đống:
Mục tiêu của việc xác định độ ẩm thích hợp khi tiến 
hành trộn khối quặng với tác nhân kết dính là axit sunfuric 
làm cho có kích cỡ đồng đều hơn, không có hiện tượng bị 
nhão, khối quặng trở nên xốp nhằm giảm thiểu sự nén ép 
quặng trong quá trình hòa tách đống, làm tăng khả năng liên 
kết giữa các hạt mịn với nhau hoặc giữa các hạt mịn và hạt 
thô, tăng hiệu quả quá trình hòa tách quặng.
Thí nghiệm được tiến hành như sau: cân 10 kg quặng đã 
được gia công + 46 g MnO2 85% (4 kg/tấn). Tiến hành khảo 
sát với độ ẩm thay đổi: 6, 8, 10%; chi phí axit 20 kg/tấn 
quặng (cho giai đoạn agglomerat hóa); nồng độ axit 250 g/l.
Sau khi agglomerat hóa xong toàn bộ, đem hòa tách 
đống trên cột. Kết quả ở hình 3 cho thấy, với độ ẩm của khối 
quặng là 8% cho hiệu suất thu hồi urani đạt 90,58%.
Hình 3. Sự phụ thuộc hiệu suất thu hồi vào độ ẩm với quặng 
BPH. 
Ưu, nhược điểm của quá trình hòa tách quặng khi không 
agglomerat hóa và có agglomerat hóa về chế độ công nghệ, 
chất lượng dung dịch hòa tách: 
Chúng tôi đã tiến hành thí nghiệm hoà tách quặng urani 
theo hai phương án: không agglomerat hóa quặng và có 
agglomerat hóa quặng bằng phương pháp hòa tách đống. 
Quy mô mỗi cột là 10 kg/cột quặng urani (cột nhựa PVC 
có đường kính 0,105 m và chiều cao 1,0 m). Cả 2 phương 
án trên đều được tiến hành về cơ bản như nhau, chỉ có khác 
nhau ở chỗ: đối với quặng đã agglomerat hóa (sau khi trộn 
với MnO2) được tưới đều với axit H2SO4 đặc, sau đó nạp 
vào cột và tưới gián đoạn thêm một lượng dung dịch axit 
nhất định, cuối cùng là rửa quặng bằng dung dịch axit loãng 
và thu dung dịch chứa urani; còn đối với quặng không 
agglomerat (sau khi trộn với MnO2) được nạp vào cột và 
tưới gián đoạn dung dịch axit H2SO4 loãng qua cột quặng. 
Kết quả so sánh các thông số của quá trình được trình bày 
ở bảng 2.
5161(3) 3.2019
Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ 
Bảng 2. So sánh các thông số của quá trình hoà tách quặng khi 
không agglomerat hóa và có agglomerat hóa bằng phương pháp 
hòa tách đống.
Các thông số 
Không 
agglomerat
Có 
agglomerat
Kích thước quặng ban đầu, mm ≤10 (95%) ≤10 (95%)
Tiêu hao axit H2SO4, kg/tấn quặng 45-50 40,0
Tiêu hao chất ô xy hoá MnO2, kg/
tấn quặng
4 4
Thời gian hoà tách, ngày 14 11
Nồng độ urani trong dung dịch hòa 
tách, g/l
0,7-1,1 0,8-1,4
Nồng độ Fe trong dung dịch hòa 
tách, g/l
8-11 8-10
Hiệu suất thu hồi urani, % 85,2 90,58
Qua kết quả thí nghiệm cho thấy, các thông số của quá 
trình hoà tách quặng urani đã agglomerat so với quặng urani 
không agglomerat hóa bằng phương pháp hòa tách đống có 
ưu điểm là thời gian, hiệu suất tăng hơn, tiêu hao axit thấp 
hơn, không bị tắc dòng, hạn chế bụi khi không tiến hành 
nạp quặng khô trực tiếp vào cột và bể; trong khi đó chất 
lượng dung dịch sau khi hòa tách không thay đổi nhiều so 
với quặng không được agglomerat. Tuy nhiên, quá trình này 
cũng làm tăng chi phí khi vận hành hệ thiết bị agglomerat, 
tốn thời gian chuẩn bị trước khi tiến hành hòa tách quặng.
Xây dựng mô hình thống kê quá trình agglomerat hóa 
quặng urani vùng Pà Lừa - Pà Rồng
Bài toán: nghiên cứu hiệu suất thu hồi urani trong quá 
trình hòa tách đống quặng urani BPH phụ thuộc vào các yếu 
tố: Z1 - nồng độ axit, g/l; Z2 - chi phí axit, kg/tấn quặng; Z3 
- độ ẩm, % trong giai đoạn agglomerat. Kết quả mã hóa các 
yếu tố được thể hiện ở bảng 3.
Bảng 3. Mã hóa các yếu tố trong quá trình hòa tách đống quặng 
urani đã agglomerat hóa.
Các nhân tố theo tỷ lệ xích tự nhiên Các nhân tố trong hệ mã hóa
Số thứ tự thí 
nghiệm
Z
1
Z
2
Z
3
X
1
X
2
X
3
Y
1 200 20 6 - + - 84,5
2 200 10 6 - - - 76,4
3 300 10 6 + - - 79,8
4 300 20 6 + + - 86,2
5 200 10 10 - - + 77,8
6 300 10 10 + - + 80,1
7 200 20 10 - + + 87,9
8 300 20 10 + + + 87,5
Xác định phương trình hồi quy bậc 1 đầy đủ mô tả thực 
nghiệm, với độ tin cậy P=95%. 
Các bước tiến hành: phương trình hồi quy bậc một ba 
nhân tố đầy đủ có dạng như sau: y = b0x0 + b1x1 + b2x2 + b3x3 
+ b12x1x2 + b13x1x3 + b23x2x3 + b123x1x2x3
Để thuận tiện cho việc tính toán, ma trận kế hoạch hóa 
thực nghiệm được mở rộng thể hiện ở bảng 4.
Bảng 4. Kết quả tính toán, ma trận kế hoạch hóa thực nghiệm.
Stt x0 x1 x2 x3 x1x2 x1x3 x2x3 x1x2x3 y, %
1 1 -1 -1 -1 1 1 1 -1 76,4
2 1 1 -1 -1 -1 -1 1 1 79,8
3 1 -1 1 -1 -1 1 -1 1 84,5
4 1 1 1 -1 1 -1 -1 -1 86,2
5 1 -1 -1 1 1 -1 -1 1 77,8
6 1 1 -1 1 -1 1 -1 -1 80,1
7 1 -1 1 1 -1 -1 1 -1 87,9
8 1 1 1 1 1 1 1 1 87,5
* Bước 1 - Xác định các hệ số hồi quy.
- Xác định các hệ số b0, b1, b2, b3:
Áp dụng công thức:
(tử số là
phép toán tính tổng của các giá trị khi gán dấu cột xi vào cột 
y tương ứng theo hàng). Lần lượt thay số vào, ta tính được 
các kết quả sau (N=8): b0=82,525; b1=0,875; b2=4; b3=0,8.
(N được tính theo công thức: N = 2n. Trong đó, N là số 
số hạng của phương trình hồi quy bậc 1 - chính là số thực 
nghiệm phải làm; n là số nhân tố ảnh hưởng đến kết quả 
thực nghiệm, ở đây n=3).
- Xác định các hệ số b12, b23, b13:
Áp dụng công thức:
(tử số là phép 
toán tính tổng của các giá trị khi gán dấu cột xixj vào cột y 
tương ứng theo hàng). Lần lượt thay số vào, ta tính được các 
kết quả sau (N=8): b12=-0,55; b23=0,375; b13=-0,4.
- Xác định các hệ số b
123
:
Áp dụng công thức:
(tử số
là phép toán tính tổng của các giá trị khi gán dấu cột xixj xk 
vào cột y tương ứng theo hàng). Lần lượt thay số vào, ta tính 
được các kết quả sau (N=8): b
123
=-0,125.
* Bước 2 - Đánh giá tính có nghĩa của các hệ số hồi quy.
Tính có nghĩa của các hệ số hồi quy được kiểm định theo 
tiêu chuẩn t:
5261(3) 3.2019
Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ
Trong đó: hay: 
Do vậy, ta tiến hành các bước sau:
- Xác định giá trị S
0
: thực hiện 3 thí nghiệm lặp ở tâm, 
nhận được 3 giá trị y1
0=85,4; y2
0=86,1; y
3
0=85,0. Áp dụng 
công thức:
(với m là số thí nghiệm lặp ở
tâm = 3), ta tính được =85,5.
Tiếp theo áp dụng công thức:
ta tính được =0,31.
- Xác định Sbi: 
Áp dụng công thức: Sbi ta tính được Sbi=0,197.
- Xác định t
i tính
: 
Theo công thức: ta tính được t0=418,91; 
t1=4,44; t2=20,3; t3=4,06; t12=2,79; t13=2,03; t23=1,90; t123= 
0,63.
- Xác định t tra bảng:
Với P=95%, f=m-1=3-1=2, tra bảng 2 chiều ta có: 
t
0,95
(2)=4,30.
Như vậy, t12, t13, t23 và t123 đều nhỏ hơn tp(f), do đó các hệ 
số b12, b13, b23 và b123 cũng đều bị loại ra khỏi phương trình 
hồi quy. Phương trình với các hệ số hồi quy còn lại có dạng: 
 = 82,525+0,875*x1+4,0*x2 +0,8*x3. 
* Bước 3 - Đánh giá tính phù hợp của phương trình hồi 
quy thu được.
Kết quả đánh giá tính phù hợp của phương trình hồi quy 
được trình bày ở bảng 5.
Bảng 5. Kết quả tính toán tính phù hợp của phương trình hồi 
quy thu được.
Stt x0 x1 x2 x3 yu u (yu- u)
2
1 1 -1 -1 -1 76,4 76,85 0,2025
2 1 1 -1 -1 79,8 78,6 1,44
3 1 -1 1 -1 84,5 84,85 0,1225
4 1 1 1 -1 86,2 86,6 0,16
5 1 -1 -1 1 77,8 78,45 0,4225
6 1 1 -1 1 80,1 80,2 0,01
7 1 -1 1 1 87,9 86,45 2,1025
8 1 1 1 1 87,5 88,2 0,49
Với 
u
: kết quả thực nghiệm thứ u tính theo phương 
trình hồi quy sau khi đã loại bỏ các hệ số không có nghĩa; 
y
u
: kết quả thực nghiệm thứ u.
- Xác định S
phù hợp
 theo phương trình: 
Với N=8, L=4 (số hệ số của phương trình hồi quy tìm 
được), thay số vào ta có S2
phù hợp
=1,2375.
- Xác định F
tính
 theo phương trình: 
Thay số vào ta được F
tính
=3,99.
- Xác định F
tra bảng
Với P=95%, α=0,05; f1=N-L=8-4=4; f2=m-1=3-1=2
tra bảng ta xác định được F
0,95
(4,2)=19,25.
- Kiểm định:
Do F
tính
=3,99<19,25=F
tra bảng
 nên phương trình hồi 
quy tìm được mô tả đúng thực nghiệm: = 
82,525+0,875*x1+4,0*x2 +0,8*x3. 
Kết luận
Đã nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố đến quá trình 
agglomerat quặng urani BPH vùng Pà Lừa - Pà Rồng và lựa 
chọn được các yếu tố thích hợp: chi phí axit H2SO4 20 kg/tấn 
quặng, nồng độ axit H2SO4 250 g/l, độ ẩm khối quặng 8%. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy, quặng urani được agglomerat 
cho hiệu suất thu hồi urani cao hơn (90,58%) so với quặng 
urani chưa agglomerat (85,2%). 
Đã tìm được phương trình hồi quy mô tả đúng thực 
nghiệm quá trình agglomerat hóa biểu diễn hiệu suất thu 
hồi urani trong quá trình hòa tách đống quặng urani BPH 
phụ thuộc vào các yếu tố: nồng độ axit, chi phí axit và 
độ ẩm khối quặng trong giai đoạn agglomerat hóa: = 
82,525+0,875*x1+4,0*x2 +0,8*x3. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Thân Văn Liên (2013), Xử lý mẫu công nghệ thu nhận urani, Báo cáo 
nhiệm vụ KHCN cấp nhà nước, Viện Công nghệ xạ hiếm (Viện Năng lượng 
nguyên tử Việt Nam).
[2] Thân Văn Liên (2016), Nghiên cứu cải tiến công nghệ xử lý quặng 
urani nghèo bằng phương pháp hòa tách thấm sử dụng quá trình agglomerat 
hóa quặng đầu vào, Báo cáo đề tài KHCN cấp bộ, Viện Công nghệ xạ hiếm 
(Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam).
[3] Jacques Thiry, et al. (2010), Heap leaching of low grade uranium ore 
in Somair, Technical Meeting on Low grade Uranium Ore, IAEA.
[4] Adirek Janwong (2012), The agglomeration of nickel laterite ore, 
Department of Metallurgical Engineering - The University of Utah.
[5] S.C. Bouffard (2005), “Review of agglomeration practice and 
fundamentals in heap leaching”, Mineral Processing & Extractive Metallurgy 
Review, 26, pp.233-294.
[6] S.C. Bouffard (2008), “Agglomeration for heap leaching: Equipment 
design, agglomerate quality control, and impact on the heap leaching process”, 
Minerals Engineering, 21, pp.1115-1125. 
[7] K.A. Lewandowski, S. Komar Kowatra (2009), “Binders for heap 
leaching agglomeration”, Minerals Metallurgical Processing, 26(1), pp.1-24. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_xay_dung_mo_hinh_thong_ke_de_toi_uu_qua_trinh_agg.pdf