Ổn định của nền đất yếu dưới công trình đắp theo các sức chống cắt khác nhau

Abstract: Shear strengths of soft soil are various according to different

testing methods. Based on various values of shear strength, the stability

analysis of soft soil under embankment is carried out using circle

method, degree of approaching to limit state and factor of safety. The

calculating and analyzing results show that using the corrected

undrained shear strength of in-situ vane shear test allows to obtain the

more reasonable results in comparison with using the shear strength of

the other tests. Using undrained shear strength of vane shear test shows

that the sliding and plastic area exists under the talus and independent

from stress state.

pdf 7 trang yennguyen 6360
Bạn đang xem tài liệu "Ổn định của nền đất yếu dưới công trình đắp theo các sức chống cắt khác nhau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ổn định của nền đất yếu dưới công trình đắp theo các sức chống cắt khác nhau

Ổn định của nền đất yếu dưới công trình đắp theo các sức chống cắt khác nhau
 ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 8 
ỔN ĐỊNH CỦA NỀN ĐẤT YẾU DƯỚI CÔNG TRÌNH ĐẮP 
THEO CÁC SỨC CHỐNG CẮT KHÁC NHAU 
BÙI TRƢỜNG SƠN, VÕ PHÁN, LÊ HOÀNG VIỆT
*
Stability of soft soil under embankment based on various shear 
strength 
Abstract: Shear strengths of soft soil are various according to different 
testing methods. Based on various values of shear strength, the stability 
analysis of soft soil under embankment is carried out using circle 
method, degree of approaching to limit state and factor of safety. The 
calculating and analyzing results show that using the corrected 
undrained shear strength of in-situ vane shear test allows to obtain the 
more reasonable results in comparison with using the shear strength of 
the other tests. Using undrained shear strength of vane shear test shows 
that the sliding and plastic area exists under the talus and independent 
from stress state. 
1. CÁC PHƢƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ 
KHẢ NĂNG CHỊU TẢI CỦ ĐẤT NỀN* 
Trong thiết kế nền móng công trình, việc xác 
định sức chịu tải an toàn và chính xác của nền 
đất được quan tâm đầu tiên. Tồn tại một số 
phương pháp đánh giá sức chịu tải của nền đất 
dưới đáy móng và hầu hết các phương pháp đều 
căn cứ trên cơ sở trạng thái cân bằng giới hạn. 
Có thể phân chia các phương pháp này theo các 
khuynh hướng chính sau: phương pháp dựa trên 
mức độ phát triển của vùng biến dạng dẻo trong 
nền, phương pháp dựa trên giả thuyết cân bằng 
giới hạn và xác định giá trị tải trọng tới hạn, 
phương pháp dựa trên giả thuyết mặt trượt và 
các phương pháp bán kinh nghiệm trên cơ sở 
các thí nghiệm hiện trường 
Phương pháp căn cứ mức độ phát triển của 
vùng biến dạng dẻo chủ yếu được trình bày bởi 
các nhà nghiên cứu ở Liên Xô cũ. Tải trọng ban 
*
 Trường Đại học Bách Khoa, ĐHQG-HCM 
 268 Lý Thường Kiệt, quận 10, TP. HCM 
 btruongson@yahoo.com; ĐT:0907159518 
 vphan54@yahoo.com; ĐT: 0913 867008 
 lehoangviet2008@gmail.com; ĐT:0979853988 
đầu p* tương ứng với trường hợp khi chỉ có một 
điểm duy nhất trong nền dưới mép móng băng 
xuất hiện trạng thái giới hạn được đề nghị bởi 
N.P. Puzưrevski. Theo quan điểm của N.N. 
Maslov, tải trọng tính theo N.P. Puzưrevski là 
quá thiên về an toàn và ông đề nghị lấy phạm vi 
độ sâu vùng dẻo zmax = b.tan để vùng biến 
dạng dẻo không lan vào phạm vi giữa hai đường 
thẳng đứng đi qua mép móng. Theo I.V. 
Yaropolski, khi tăng tải trọng, vùng biến dạng 
dẻo phát triển đến độ sâu lớn nhất và nối liền 
với nhau, tương ứng với trạng thái của nền lúc 
bắt đầu mất ổn định. Tiêu chuẩn Việt Nam tham 
khảo cơ sở tiêu chuẩn Liên bang Nga xem giá 
trị tải trọng hình băng ứng với phạm vi vùng 
dẻo đến độ sâu bằng 1/4 bề rộng móng b thì nền 
còn ứng xử trong phạm vi đàn hồi [1], [2], [3]. 
 Việc tính toán sức chịu tải của nền với giả 
thiết về kích thước, hình dạng nêm nén chặt và 
hàm số các đường phá hoại trượt gắn liền với 
các tên tuổi như: V.V. Sokolovski, L. Prandltl, 
K. Terzaghi, V.G. Berezantsev,... Các kết quả 
nghiên cứu này cho phép xác định giá trị ứng 
suất giới hạn của tải trọng hình băng lên đất nền 
[3], [4]. 
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 9 
Prandtl là người đầu tiên quan sát trực tiếp 
các mặt trượt đất nền bên dưới mô hình móng 
và đưa ra dạng phương trình giải tích của các 
mặt trượt dưới đáy móng gồm các đoạn thẳng nối 
với nhau bởi đoạn cong xoắn ốc. Áp lực cực hạn ở 
đáy móng qu được Prandtl giới thiệu gồm hai thành 
phần: do lực dính c.Nc và do phụ tải hông qo.Nq. 
Sau đó, Terzaghi, Buisman, Caquot, Sokolovski, 
Meyerhof, Hansen và nhiều tác giả khác bổ sung 
thành phần ma sát vào công thức sức chịu tải của 
đất nền. Năm 1942, V.V. Sokolovski ứng dụng 
phương pháp số để giải phương trình vi phân của F. 
Kotter cho bài toán phẳng có xét đến trọng lượng 
bản thân đất ( 0). Điều này góp phần quan trọng 
trong phát triển lý thuyết cân bằng giới hạn để đánh 
giá ổn định của nền đất, của mái dốc và tính toán 
áp lực đất lên tường chắn. V.G. Berezantsev áp 
dụng phương pháp của V.V.Sokolovski để xác 
định tải trọng giới hạn phân bố đều khi lực tác dụng 
đúng tâm có xét đến sự hình thành nêm đất và sau 
này đưa ra lời giải áp dụng xác định tải trọng giới 
hạn của nền đất cho cả bài toán phẳng và bài toán 
không gian. 
Sơ đồ tính toán của K. Terzaghi vẫn sử dụng 
những đường trượt như trong phương pháp của 
Prandtl xem nền không trọng lượng ( = 0). K. 
Terzaghi giả thiết nêm đất là hình tam giác cân 
với góc ở đáy bằng cho phù hợp với các kết 
quả của thí nghiệm nén. Phương pháp có xét 
đến ảnh hưởng của hình dạng móng, chiều sâu 
chôn móng và độ nghiêng của tải trọng tác động 
được Meyerhof khởi xướng và được đề cập 
trong các nghiên cứu của các tác giả như: De 
Beer, Vesic, Hansen, Hanna. 
Sức chịu tải của đất nền còn có thể được 
đánh giá thông qua các công thức kinh nghiệm 
trên cơ sở kết quả thí nghiệm hiện trường như 
xuyên tiêu chuẩn, xuyên tĩnh, bàn nén hay nén 
trong hố khoan. 
Đối với công trình đất đắp (đường, đê và 
đập) ngoài việc xác định tải trọng giới hạn lên 
đất nền, cần thiết phải đánh giá khả năng trượt 
và phá hoại qua bản thân công trình bằng vật 
liệu đắp [5], [6]. Theo các kết quả đo đạt và 
quan sát các mặt trượt trong thực tế, nhiều mặt 
trượt thường có dạng mặt trượt trụ tròn hoặc gần 
với dạng này. Theo khuynh hướng này, phổ biến 
có phương pháp phân mảnh cổ điển Fellenius, 
phương pháp Bishop có xét sự tương tác của các 
mảnh và các phương pháp khác. 
Với sự trợ giúp của các công cụ tính toán hiện 
nay, việc đánh giá khả năng chịu tải của đất nền 
cũng có thể thực hiện được thông qua các phần 
mềm trên cơ sở phương pháp phần tử hữu hạn 
[7]. Ở đây, tùy theo mô hình vật liệu mà các tiêu 
chuẩn bền khác nhau có thể được áp dụng. Ngoài 
ra, cũng có thể căn cứ vào phạm vi vùng nguy 
hiểm theo mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn để 
đánh giá khả năng ổn định của đất nền. Phương 
pháp này chẳng những cho phép xét đến trọng 
lượng bản thân đất mà còn cho phép sử dụng các 
đại lượng độ bền như là một hàm số theo trạng 
thái ứng suất ở điểm bất kỳ trong nền [8]. 
Đối với nền đất yếu, nhiều hồ sơ khảo sát 
cho thấy giá trị độ bền khác nhau theo các 
phương pháp thí nghiệm [9]. Do đó, việc sử 
dụng các phương pháp tính toán khác nhau với 
các đại lượng độ bền khác nhau sẽ cho phép 
phân tích so sánh kết quả nhằm rút ra các nhận 
định có ích trong việc chọn lựa phương pháp 
tính cũng như giá trị độ bền hợp lý trong tính 
toán thiết kế. Ở đây, việc phân tích chủ yếu tập 
trung vào nền đất yếu dưới công trình đất đắp, là 
loại hình công trình phổ biến có tải trọng tác 
dụng trực tiếp lên đất nền. 
2. KHẢ NĂNG ỔN ĐỊNH CỦ NỀN ĐẤT 
YẾU DƢỚI CÔNG TRÌNH ĐẮP THEO 
CÁC Đ I LƢỢNG ĐỘ BỀN KHÁC NH U 
Các dữ liệu về đặc trưng cơ lý của đất yếu ở 
khu vực Nhà Bè, Tp. HCM cho thấy giá trị sức 
chống cắt khác nhau theo các phương pháp thí 
nghiệm khác nhau (bảng 1). Đối với công trình 
đắp, phương pháp đánh giá khả năng ổn định 
bao gồm phương pháp cung trượt lăng trụ tròn, 
bằng phần mềm Plaxis và mức độ tiếp cận trạng 
thái giới hạn. 
 ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 10 
Bảng 1. Độ bền của nền đất yếu khu vực Nhà Bè từ các kết quả thí nghiệm khác nhau 
Phương pháp thí nghiệm Giá trị độ bền 
Cắt trực tiếp c = 8,83 kN/m2; = 4,3 độ 
Nén đơn qu= 35,7 kN/m
2
Nén ba trục theo sơ đồ UU c = 18,64 kN/m2; = 0,8 độ 
Nén ba trục theo sơ đồ CU c’ = 10,79 kN/m2; = 23,9 độ 
Cắt cánh hiện trường có hiệu chỉnh Su = 8,081 + 1,386.z (kN/m
2
). Với: z (m) – độ sâu. 
Sơ đồ bài toán đặc trưng chọn lựa là công 
trình đường đắp trên đất yếu với chiều cao đắp là 
1,5m, với bề rộng mặt đường là 20m (2a = 20m), 
độ dốc mái taluy 1: 1,5. Do đó, bề rộng đáy khối 
đắp 2b = 24,5m. Trọng lượng riêng của vật liệu 
đắp trung bình γ = 19,0KN/m3, lực dính c = 31 
kPa, = 9,8 độ. Do việc tính toán khả năng chịu 
tải cần thiết xét đến hoạt tải, nên xem khối đắp 
chịu tải trọng phân bố đều p = 25,3 KN/m2. 
Bề dày lớp đất yếu của khu vực có giá trị trung 
bình 20m với dung trọng tự nhiên γ=15,2KN/m3, 
mực nước ngầm nằm ngang mặt đất. 
Việc đánh giá khả năng ổn định công trình 
đắp trên nền đất yếu thường được thực hiện 
thông qua giá trị hệ số ổn định K hay hệ số an 
toàn FoS. Trong trường hợp này, phần mềm 
Geoslope và Plaxis được sử dụng để phân tích. 
Trong đó, hệ số ổn định được xác định theo 
phương pháp Bishop và phương pháp phân 
mảnh cổ điển. 
Bảng 2. Giá trị hệ số ổn định theo các phƣơng pháp cung trƣợt lăng trụ tròn 
Phương pháp thí nghiệm 
Hệ số ổn định 
Phương pháp 
Bishop 
Phương pháp phân 
mảnh cổ điển 
Cắt trực tiếp 1,619 1,570 
Nén một trục 2,029 2,025 
Nén ba trục the sơ đồ UU 2,217 2,196 
Sức chống cắt hữu hiệu từ CU với các thành 
phần ứng suất hữu hiệu 
2,783 2,566 
Cắt cánh hiện trường có hiệu chỉnh 1,642 1,646 
Từ kết quả tính toán có thể thấy rằng giá trị 
hệ số ổn định theo phương pháp Bishop đều lớn 
hơn so với kết quả tính toán theo phương pháp 
phân mảnh cổ điển, ngoại trừ trường hợp sử 
dụng kết quả thí nghiệm cắt cánh hiện trường thì 
giá trị hệ số ổn định của hai phương pháp là xấp 
xỉ như nhau. Ở đây cũng cần nói thêm rằng khi 
sử dụng giá trị sức chống cắt không thoát nước 
thì ứng suất do trọng lượng bản thân là giá trị 
tổng ứng suất phụ thuộc dung trọng tự nhiên 
nếu đất có độ bão hòa cao hay dung trọng bão 
hòa trong trường hợp đất nằm dưới mực nước 
ngầm. Trong trường hợp sử dụng sức chống cắt 
hữu hiệu, ứng suất do trọng lượng bản thân có 
xét vai trò của áp lực do cột nước nên có giá trị 
là ứng suất hữu hiệu. 
Trong các trường hợp tính toán, giá trị hệ số 
ổn định theo sức chống cắt hữu hiệu là lớn nhất. 
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 11 
Trong thí nghiệm theo sơ đồ CU, mẫu đất được 
cố kết trước khi nén lệch trục. Các giá trị áp lực 
buồng chọn lựa khá lớn so với thực tế áp lực 
theo phương ngang nhỏ hơn đáng kể nên đất bị 
nén chặt nhiều hơn so với thực tế trong nền. 
Nên sử dụng sức chống cắt hữu hiệu có thể 
không an toàn mà trong các khuyến cáo sử dụng 
phương pháp cung trượt cũng được đề cập. 
Kết quả tính toán sử dụng sức chống cắt 
không thoát nước từ thí nghiệm nén ba trục UU 
và nén một trục cho thấy hệ số ổn định khá lớn 
và tương tự nhau. Kết quả đó không những thể 
hiện thông qua giá trị hệ số ổn định mà còn ở 
phạm vi cung trượt. Các cung trượt sử dụng giá 
trị sức chống cắt này đạt đến độ sâu khá lớn 
(xấp xỉ 6m). 
Kết quả tính toán theo thí nghiệm cắt trực 
tiếp và cắt cánh có giá trị hệ số ổn định gần như 
nhau cũng như phạm vi cung trượt. Ở đây, có 
thể thấy rằng thí nghiệm cắt cánh hiện trường có 
hiệu chỉnh cho phép đánh giá sức chống cắt 
không thoát nước ứng với trạng thái tự nhiên 
nên phù hợp với ứng xử thực tế nhất. Trong khi 
đó, thí nghiệm cắt trực tiếp được thực hiện 
trong thời gian ngắn trong điều kiện khí quyển 
nên mẫu đất ở trong trạng thái chưa được nén 
chặt, do đó, sức chống cắt được xem là phù 
hợp đối với khu vực có độ sâu nhỏ (giá trị này 
sẽ nhỏ hơn thực tế đối với khu vực ở độ sâu 
lớn). Do phạm vi cung trượt ở gần bề mặt nên 
sức chống cắt chọn lựa trong trường hợp này 
trở thành phù hợp. 
2.196
20 m
+0.00
+1.50
16 m
ỔN ĐỊNH CHO TRƢỜNG HỢP THÍ NGHIỆM UU
1:1.5 1:1.5
q = 25.3 kPa
Name: Đất Nền 
Unit Weight: 15.2 kN/m³
Cohesion: 18.64 kPa
Phi: 0.82 °
Name: Đất Đắp 
Unit Weight: 19 kN/m³
Cohesion: 31 kPa
Phi: 9.8 °
Khoaûng caùch (m)
-5 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 50 55 60 65
C
ao
 ñ
oä 
(m
)
-22
-20
-18
-16
-14
-12
-10
-8
-6
-4
-2
0
2
4
6
8
1.64220 m
+0.00
+1.50
16 m
ỔN ĐỊNH CHO TRƢỜNG HỢP THÍ NGHIỆM VST
1:1.5 1:1.5
q = 25.3 kPa
Name: Đất Nền 
Unit Weight: 15.2 kN/m³
C-Top of Layer: 10.62 kPa
C-Rate of Increase: 1.32 
Limiting C: 37.02 kPa
Name: Đất Đắp 
Unit Weight: 19 kN/m³
Cohesion: 31 kPa
Phi: 9.8 °
Khoaûng caùch (m)
-5 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 50 55 60 65
C
ao
 ñ
oä 
(m
)
-22
-20
-18
-16
-14
-12
-10
-8
-6
-4
-2
0
2
4
6
8
10
Hình 1 và hình 2. Ổn định theo phương pháp phân mảnh cổ điển sử dụng sức chống cắt 
không thoát nước từ thí nghiệm UU và thí nghiệm cắt cánh có xét sự thay đổi Su theo độ sâu 
Khả năng ổn định của công trình cũng có 
thể được đánh giá thông qua hệ số an toàn từ 
sự suy giảm sức chống cắt của đất bằng phần 
mềm Plaxis. Khi sử dụng sức chống cắt từ thí 
nghiệm cắt trực tiếp, ứng suất do trọng lượng 
bản thân chọn tính là tổng ứng suất nên không 
xét vai trò mực nước. Nếu sử dụng sức chống 
cắt hữu hiệu thì nhất thiết phải xét hiện tượng 
đẩy nổi nên dưới mực nước ngầm thì ứng suất 
chịu tác dụng của cột nước thủy tĩnh hay áp 
lực nước lỗ rỗng thặng dư hình thành do tác 
dụng của tải trọng ngoài. Lưu ý rằng việc sử 
dụng lực dính thuần túy khi giá trị góc ma sát 
trong φ = 0 không thực hiện được trong phần 
mềm Plaxis. 
Kết quả tính toán sử dụng kết quả thí nghiệm 
cắt trực tiếp cho giá trị hệ số an toàn theo sự suy 
giảm độ bền FoS = 1,31 và sử dụng sức chống 
cắt hữu hiệu cho FoS = 1,81Việc tính toán theo 
phần mềm Plaxis khó có thể cho phép xác định 
chính xác giá trị hệ số ổn định hay khả năng 
chịu tải nhưng xu thế chuyển vị và phạm vi 
vùng nguy hiểm có thể dễ dàng phân biệt (hình 
2). Ở đây, trong phạm vi nền có khả năng phá 
hoại do trượt theo thí nghiệm cắt trực tiếp xảy ra 
ở dưới mái taluy phù hợp với thực tế hơn so với 
 ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 12 
dưới tâm theo kết quả tính toán sử dụng sức 
chống cắt hữu hiệu. 
Mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn có thể 
thể hiện thông qua phạm vi vùng biến dạng 
dẻo, tức là vùng có giá trị ≥1. Khi vùng 
biến dạng dẻo giao nhau hoặc trồi lên đến bề 
mặt thì đất nền xem như phá hoại. Đất trong 
nền không những chịu tác dụng của tải trọng 
ngoài mà còn chịu ứng suất do trọng lượng 
bản thân. Để đánh giá hợp lý hơn, nhất thiết 
phải xét đến trọng lượng bản thân trong quá 
trình tính toán. 
Từ kết quả tính toán sử dụng sức chống cắt 
từ thí nghiệm cắt trực tiếp, có thể thấy rằng 
phạm vi vùng nguy hiểm khác nhau đáng kể khi 
không xét và xét trọng lượng bản thân đất nền 
(hình 3 và 4). Ở đây, khi xét trọng lượng bản 
thân đất nền, vùng dẻo thu hẹp đáng kể và tập 
trung ở khu vực dưới mái taluy, trùng hợp với 
phạm vi cung trượt nguy hiểm và không phát 
triển đến các độ sâu lớn như khuynh hướng khi 
sử dụng sức chống cắt theo kết quả thí nghiệm 
nén đơn (cu=qu/2), UU hay CU. Ngoài ra, việc 
sử dụng các giá trị sức chống cắt theo các 
phương pháp thí nghiệm khác có xét đến trọng 
lượng bản thân đất nền đều cho thấy khả năng 
ổn định lớn hơn so với trường hợp không xét 
căn cứ giá trị và phạm vi mức độ tiếp cận trạng 
thái giới hạn nhỏ hơn (hình 5). 
Sử dụng sức chống cắt có giá trị góc ma sát 
trong thì sự khác biệt về phạm vi vùng nguy 
hiểm khi có và không xét trọng lượng bản thân 
khác nhau đáng kể do thành phần ma sát phụ 
thuộc ứng suất tác dụng. Việc sử dụng sức 
chống cắt không thoát nước theo kết quả cắt 
cánh chỉ xét sức chống cắt không thoát nước Su 
cho kết quả gần như nhau khi xét trọng lượng 
bản thân mặc dù các thành phần ứng suất có ảnh 
hưởng lên mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn. 
Điều này không những thể hiện thông qua giá trị 
hệ số ổn định (bảng 1) mà còn thể hiện ở phạm 
vi vùng dẻo (hình 6 và 7). Hơn nữa, trong các 
trường hợp tính toán, kết quả sử dụng sức chống 
cắt không thoát nước từ cắt cánh cho phạm vi 
vùng biến dạng dẻo phù hợp với phạm vi mà đất 
có sự dịch chuyển theo phương ngang lớn và 
khá trùng hợp với phạm vi cung trượt đã tính 
trước đó cũng như xu hướng dịch chuyển theo 
phần mềm Plaxis. 
Các phương pháp phân tích bằng phần mềm 
Plaxis và Geoslope đều xét trọng lượng bản thân 
và điều này hợp lý với ứng xử thực tế của đất 
nền. Do đó, có thể xem việc đánh giá mức độ 
tiếp cận trạng thái giới hạn có xét trọng lượng 
bản thân là hợp lý hơn so với kết quả tính toán 
không xét. Các kết quả tính toán theo sức chống 
cắt từ thí nghiệm nén đơn, nén ba trục theo sơ 
đồ UU và CU đều cho thấy vùng dẻo không 
xuất hiện tương ứng với hệ số ổn định cao như 
đã tính toán trước đó. 
p
Hình 3. Mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn của đất nền dưới công trình đắp theo kết quả thí 
nghiệm cắt trực tiếp không xét trọng lượng bản thân đất nền 
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 13 
p
Hình 4. Mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn của đất nền dưới công trình đắp theo kết quả 
thí nghiệm cắt trực tiếp có xét trọng lượng bản thân đất nền 
p
Hình 5. Mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn của đất nền dưới công trình đắp theo kết quả 
thí nghiệm nén ba trục UU có xét trọng lượng bản thân đất nền 
p
Hình 6. Mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn của đất nền dưới công trình đắp theo kết quả 
thí nghiệm với sức chống cắt không thoát nước Su thay đổi theo độ sâu từ thí nghiệm cắt cánh 
hiện trường không xét trọng lượng bản thân đất nền. 
p
Hình 7. Mức độ tiếp cận trạng thái giới hạn của đất nền dưới công trình đắp theo kết quả 
 thí nghiệm với sức chống cắt không thoát nước Su thay đổi theo độ sâu từ thí nghiệm cắt cánh 
 hiện trường có xét trọng lượng bản thân đất nền. 
Sự phù hợp vùng
dẻo và cung trượt
 ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 4-2015 14 
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
Từ kết quả tổng hợp giá trị độ bền của sét 
mềm bão hòa nước theo các kết quả thí nghiệm 
khác nhau và tính toán ổn định theo phương 
pháp cung trượt lăng trụ tròn với hệ số an toàn 
và vùng biến dạng dẻo theo mức độ tiếp cận 
trạng thái giới hạn có thể rút ra các kết luận 
chính như sau: 
- Sử dụng kết quả thí nghiệm cắt cánh hiện 
trường cho phép đánh giá hợp lý khả năng ổn 
định của nền đất yếu dưới công trình đắp do phù 
hợp với ứng xử thực tế, phạm vi vùng trượt và 
vùng biến dạng dẻo. 
- Kết quả tính toán theo sức chống cắt không 
thoát nước chỉ với lực dính không thoát nước 
cho thấy khả năng ổn định trong trường hợp 
không xét và xét ứng suất do trọng lượng bản 
thân là không đáng kể. 
- Kết quả tính toán sử dụng sức chống cắt 
không thoát nước từ thí nghiệm cắt trực tiếp có 
thể phù hợp khi đánh giá ổn định nền ứng với 
trường hợp phạm vi vùng trượt và vùng dẻo ở 
gần bề mặt. 
- Khi sử dụng sức chống cắt có giá trị góc ma 
sát trong nhất thiết phải xét đến vai trò của ứng 
suất do trọng lượng bản thân đất nền. 
Từ các phân tích, có thể rút ra một số kiến 
nghị như sau: nên sử dụng kết quả thí nghiệm 
cắt cánh hiện trường hiệu chỉnh để đánh giá khả 
năng ổn định của nền đất yếu dưới công trình 
đắp do thí nghiệm này phù hợp với ứng xử thực 
tế và kết quả tính toán phù hợp với phạm vi 
phân bố vùng dẻo và vùng trượt gây phá hoại; 
khi tính toán khả năng ổn định có xét đến góc 
ma sát trong của đất cần lưu ý các phương pháp 
tính có xét trạng thái ứng suất khu vực phá hoại 
vì điều này ảnh hưởng đáng kể lên kết quả tính 
toán; có thể sử dụng kết quả thí nghiệm cắt trực 
tiếp để đánh giá khả năng ổn định của nền đất 
yếu dưới công trình đắp do độ chặt của mẫu 
trong thí nghiệm phù hợp ở khu vực vùng trượt 
có độ sâu bé. 
TÀI LIỆU TH M KHẢO 
1. N.A. Xưtôvich (1987). Cơ học đất (bản 
dịch). NXB Nông nghiệp, Hà nội. 
2. Lê Quý An, Nguyễn Công Mẫn, Nguyễn 
Văn Quỳ (1977). Cơ học đất. NXB đại học và 
Trung học chuyên nghiệp. 
3. Châu Ngọc Ẩn (2004). Cơ học đất. NXB 
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 
4. V.V. Sokolovski (1965). Statics of 
granular media. Bergamon Press. 
5. Nguyễn Thành Long, Lê Bá Lương, 
Nguyễn Quang Chiêu, Vũ Đức Lực (1989). 
Công trình trên đất yếu trong điều kiện Việt 
Nam. Trường Đại học Kỹ Thuật TP. HCM – Tổ 
Giáo trình. 
6. Quy trình khảo sát thiết kế nền đường ôtô 
đắp trên đất yếu - Tiêu chuẩn thiết kế 22TCN 
262-2000. 
7. Serge Leroueil, Jean-Pier Magnan, 
Francois Tavenas (1990). Embankments on soft 
clay. English Edittion, Ellis Horwood. 
8. Bùi Trường Sơn. Phương pháp phân chia 
vùng nền dưới công trình theo mức độ tiếp cận 
trạng thái giới hạn. Tuyển tập kết quả khoa học 
công nghệ năm 2008. Bộ NT và PTNT. Trang 
665 - 671. 
9. Bùi Trường Sơn, Lê Hoàng Việt. Chọn lựa 
sức chống cắt không thoát nước của sét mềm để 
tính toán nền công trình đắp. Tập 14, Tuyển tập 
kết quả khoa học công nghệ 2011, NXB Nông 
nghiệp. Trang 469-477. 
Người phản biện: PGS.TS. ĐÀO VĂN TOẠI 

File đính kèm:

  • pdfon_dinh_cua_nen_dat_yeu_duoi_cong_trinh_dap_theo_cac_suc_cho.pdf