Phân tích ảnh hưởng của trụ đất xi măng đến ổn định vách hố đào tường liên tục
TÓM TẮT
Trong quá trình thi công hố đào làm tường liên tục thường dùng vữa bentonite để khống chế chuyển vị vách đào và lún mặt đất. Tuy nhiên, khi gần hố đào có các công trình xây dựng và địa chất phức tạp như: đất yếu, cát chảy, v.v thì việc bảo vệ vách đào bằng vữa bentonite là không đủ an toàn cho công trình. Bài báo này đề xuất sử dụng phương án trụ đất xi măng kết hợp vữa bentonite để gia cố vách đào và khống chế lún cho các công trình lân cận. Bài toán được mô phỏng trên phần mềm 3D Midas GTS để phân tích lún cho các công trình lân cận, chuyển vị ngang và hình thức phá hoại của vách hố đào. Bài báo cũng phân tích phương án tối ưu trụ đất xi măng để nâng cao an toàn cho công trình trong quá trình thi công.
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích ảnh hưởng của trụ đất xi măng đến ổn định vách hố đào tường liên tục", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích ảnh hưởng của trụ đất xi măng đến ổn định vách hố đào tường liên tục
58 KỸ THUẬT – CÔNG NGHỆ PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA TRỤ ĐẤT XI MĂNG ĐẾN ỔN ĐỊNH VÁCH HỐ ĐÀO TƯỜNG LIÊN TỤC PHẠM VĂN MINH Viện Thủy công – Viện Khoa học Thủy Lợi Việt Nam - vanminhvtc@gmail.com VŨ BÁ THAO Viện Thủy công – Viện Khoa học Thủy Lợi Việt Nam - vubathao@gmail.com NGUYỄN QUỐC DŨNG Viện Thủy công – Viện Khoa học Thủy Lợi Việt Nam - nguyenquocdunghsc@gmail.com (Ngày nhận: 9/9/2016; Ngày nhận lại: 28/10/16; Ngày duyệt đăng: 14/11/2016) TÓM TẮT Trong quá trình thi công hố đào làm tường liên tục thường dùng vữa bentonite để khống chế chuyển vị vách đào và lún mặt đất. Tuy nhiên, khi gần hố đào có các công trình xây dựng và địa chất phức tạp như: đất yếu, cát chảy, v.v thì việc bảo vệ vách đào bằng vữa bentonite là không đủ an toàn cho công trình. Bài báo này đề xuất sử dụng phương án trụ đất xi măng kết hợp vữa bentonite để gia cố vách đào và khống chế lún cho các công trình lân cận. Bài toán được mô phỏng trên phần mềm 3D Midas GTS để phân tích lún cho các công trình lân cận, chuyển vị ngang và hình thức phá hoại của vách hố đào. Bài báo cũng phân tích phương án tối ưu trụ đất xi măng để nâng cao an toàn cho công trình trong quá trình thi công. Từ khóa: Tường liên tục; hình thức phá hoại; lún; chuyển vị; trụ đất xi măng. Analysis of the effects of soil cement columns on stability of diaphragm wall trench ABSTRACT The diaphragm wall construction process for deep vertical trenches is often filled up with bentonite slurry to control displacement of trench and surrounding settlement. However, when the diaphragm wall trenchs near the adjacent buildings and complex geology such as soft soil, sand boiling, etc using bentonite slurry to protect the stability of trenchs would not be safe enough for the excavation. This paper proposes a method combinating between the soil cement columns with the bentonite slurry for increasing the stability of trench and control settlement for adjacent buildings. The models were simulated by Midas GTS 3D software to analyze the settlement of adjacent buildings, the displacement and failure modes of the trench. Optimal schemes of soil cement columns to improve the safety of the excavation in the construction process were also analyzed. Keywords: Diaphragm wall; failure mode; settlement; displacement; soil cement column. 1. Đặt vấn đề Nhu cầu sử dụng đất để xây dựng công trình trong các thành phố lớn ngày càng tăng. Vì vậy, tầng hầm của các nhà cao tầng không ngừng tăng về độ sâu để nâng cao hiệu quả sử dụng không gian ngầm. Đối với hố móng sâu, hình thức tường chắn đất thường được chọn là tường liên tục hoặc tường hàng cọc khoan nhồi kết hợp với trụ đất xi măng (TĐXM). Trong quá trình thi công hố đào làm tường liên tục cho hố móng thường dùng vữa bentonite để khống chế chuyển vị vách đào và lún mặt đất. Tuy nhiên, khi gần hố đào có các công trình xây dựng và nền địa chất phức tạp như đất yếu, cát chảy, v.v thì việc bảo vệ vách đào bằng vữa bentonite là không đủ an toàn cho công trình. Bài báo này đề xuất sử dụng phương án trụ đất xi măng kết hợp vữa bentonite để gia cố vách đào và khống chế lún cho các công trình lân cận. Các trường hợp tính toán được mô phỏng trên phần mềm 3D Midas GTS để phân tích lún cho các công trình lân cận, chuyển vị ngang và hình thức phá hoại của vách hố đào. Bài báo cũng so sánh lựa chọn phương án tối TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 51 (6) 2016 59 ưu để nâng cao an toàn cho công trình trong quá trình thi công. 2. Tổng quan các hình thức phá hủy vách hố đào trong quá trình thi công Trong một số nghiên cứu cho thấy sự phá hoại của vách hố đào tường liên tục thường phân thành hai dạng phá hoại: (1) phá hoại do mất ổn định tổng thể; (2) phá hoại do mất ổ định cục bộ (Liu và Wang, 2009). 2.1. Mất ổn định tổng thể Mất ổn định tổng thể thường xuất hiện từ miệng đến đáy hố đào. Trong tính toán thường giả thiết hai dạng phá hoại là phá hoại hình nêm trụ và hình nêm tam giác (Liu và Wang, 2009). Thông qua phân tích kết quả tính toán giữa mô hình 2D và mô hình 3D cho thấy: Trong mô hình 2D sự phá hoại thường xuất hiện ở vị trí sâu hơn trong mô hình 3D. Một số hình dạng phá hoại trong các điều kiện cụ thể được các tác giả nghiên cứu như: Piaskowski và Kowalewski (1965) đưa ra hình dạng phá hoại kiểu nêm trụ, hình 1a. Morgenstern và Amir-Tahmasseb (1965) thông qua việc giả định mặt trượt (hình 1b) để tìm ra góc trượt phá hoại đối với đất nền không dính = 450 + /2 ( góc ma sát trong của đất nền). Washbourne (1984) nghiên cứu phân tích ổn định vách hố đào trên nền đất dính và không dính, với giả thiết hình dạng phá hoại là hình nêm tam giác, hình 1c. Tsai và Chang (1996) chỉ ra hình thức phá hoại như hình 1d đối với đất nền không dính. Yu Shaofeng và Ji Chongping (1998) đã giả thiết hình thức phá hoại như hình 1e và căn cứ vào hình thức chịu lực của khối bị phá hoại, từ đó xác định vị trí phá hoại nguy hiểm nhất trên vách đào. Aas (1976) giả thiết hình thức phá hoại cho đất nền không thoát nước như được minh họa trong hình 1f. Hình 1. Các hình dạng phá hoại tổng thể của vách hố đào 2.2. Mất ổn định cục bộ Mất ổn định cục bộ thường xảy ra khi trong đất nền tồn tại một lớp đất yếu xem kẹp, hình 2 (Liu và Wang, 2009). Mất ổn định này xuất hiện trước rồi phát triển dần đến mất ổn định tổng thể. Khi hiện tượng này xảy ra sẽ yêu cầu khối lượng bê tông lớn để làm tường, giải pháp thi công phức tạp, dẫn đến tăng giá thành công trình. Ổn định vách hố đào lúc này phụ thuộc vào việc xâm nhập vữa bentonite. Hình 2. Hình dạng phá hoại cục bộ của vách hố đào 60 KỸ THUẬT – CÔNG NGHỆ Trước khi vữa bentonite hình thành được màng bảo vệ thì vách tường tại vị trí xem kẹp (lớp đất yếu) đã hình thành lực thẩm thấu và chính điều này làm ảnh hưởng đến việc ổn định vách hố đào. Căn cứ vào phương trình cân bằng lực tại vách hố đào đưa ra được hệ số an toàn n. w 0 tan f s i n (1) Trong đó: w : là trọng lượng riêng của nước (kN/m3); i0: là độ dốc thủy lực; : là góc ma sát trong của vữa bentonite (0); f : là trọng lượng riêng của vữa bentonite (kN/m3); s : là trọng lượng riêng của đất (kN/m3). 2.3. Giới hạn lún công trình lân cận Khi thi công hố đào trạng thái ứng suất của đất biến đổi tương đối phức tạp. Áp lực đất và áp lực vữa bentonite tác dụng lên vách hố đào không cân bằng, dẫn đến biến dạng vách, ảnh hưởng đến lún mặt đất và công trình lân cận. Cowland và Thorley (1985) nghiên cứu cho thấy phạm vi ảnh hưởng của việc thi công hố đào tường liên tục đến công trình lân cận là 1H (H là độ sâu rãnh đào) và trong tính toán không thể bỏ qua. Budge-Reid và nnk (1984) đã tổng kết các kết quả đo đạc của các công trình hố móng tàu điện ngầm ở Hồng Kông cho thấy, khi công trình lân cận có móng nông chịu ảnh hưởng lún lớn hơn công trình lân cận có móng sâu, hoặc khi kéo dài thời gian thi công hố đào, gần vị trí hố đào có công tác đóng cọc thì ảnh hưởng lún cũng tăng lên, hình 3. (a) (b) (c) (d) Hình 3. Ảnh hưởng của việc thi công hố đào đến lún công trình lân cận Budge-Reid và nnk (1984) Clough và O’Rourke (1990) dựa vào các tài liệu quan trắc công trình nằm trên nền đất yếu, đất sét dẻo cứng, đất sét cứng đã chỉ ra khi thi công hố đào sẽ làm ảnh hưởng đến lún mặt đất là 0.15%H. Ou Changyu (2004) nghiên cứu cho thấy khi thi công hố đào làm tường liên tục cho công trình hố móng tàu điện ngầm ở Đài Bắc – Đài Loan độ lún mặt đất là 0.05%H, độ lún lớn nhất đo được từ 10 ~ 15 mm, phạm vi ảnh hưởng là 1H. Cowland và Thorley (1985) nghiên cứu cho thấy tổng biến dạng của việc thi công hố đào tường liên tục 0.0 0.5 1.0 1.5 2.0 -70 -60 -50 -40 -30 -20 -10 0 L ó n ( m m ) d/Dw=0 x/Dw 0.0 0.5 1.0 1.5 2.0 -70 -60 -50 -40 -30 -20 -10 0 L ó n ( m m ) x/Dw d/Dw=1.0 0.0 0.5 1.0 1.5 2.0 -120 -100 -80 -60 -40 -20 0 KÐo dµi thêi gian thi c«ng ChÞu ¶nh h-ëng khi ®ãng cäcL ó n ( m m ) x/Dw d/Dw=0.5 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 51 (6) 2016 61 bằng khoảng 40 ~ 50 % tổng biến dạng của việc thi công đào hố móng. Theo Tiêu chuẩn hố móng Thượng Hải - Trung Quốc (2010) quy định độ lún của mặt đất đối với công trình cấp I là 0.15%h, công trình cấp II là 0.25%h, công trình cấp III là 0.55%h (h là độ sâu hố móng). Bjerrum chỉ ra giá trị giới hạn của biến dạng góc xoay ( /L – Chuyển vị/ chiều dài móng) để đánh giá lún và kết cấu công trình lân cận (Chang, 2006), xem Bảng 1. Bảng 1 Giới hạn biến dạng góc xoay TT /L Kiểu phá hoại công trình 1 1/750 Ảnh hưởng đến cơ chế nhạy cảm lún. 2 1/600 Tổn hại đến kết cấu khung dầm của công trình. 3 1/500 Giới hạn an toàn nứt của công trình (xét đến hệ số an toàn). 4 1/300 Xuất hiện vết nứt trên tường (chưa xét đến hệ số an toàn). 5 1/250 Công trình xuất hiện nghiêng. 6 1/150 Sàn và tường xuất hiện nứt đáng kể. 7 1/150 Nguy cơ tổn hại đến kết cấu công trình. 3. Phân tích ảnh hưởng của trụ đất xi măng trong việc ổn định vách hố đào 3.1. Giới thiệu công trình Công trình hố móng Tòa nhà 97-99 Láng Hạ, phường Láng Hạ, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, tổng diện tích 3295 m2, chu vi 223 m, cao trình mặt đất tự nhiên bình quân - 1.000 m, cao trình đáy móng -11.900 m, độ sâu hố móng thiết kế h=10.9 m (độ sâu cục bộ lớn nhất là h1=13.0 m), thiết kế 3 tầng hầm. Phía Đông Nam công trình cách nhà tập thể 5 tầng B1 là khoảng 3 m. Tiêu chuẩn hố móng Thượng Hải - Trung Quốc (2010) quy định cấp bảo vệ môi trường xung quanh công trình là cấp I, (khoảng cách từ công trình lân cận đến mép hố móng là 3 m nhỏ hơn h=10.9 m). Hình 4. Mô phỏng hiện trạng công trình Chống giữ hố móng bằng tường liên tục có chiều rộng 800 mm, sâu 22 m; gia cố tường hố móng bằng 3 tầng thanh chống bê tông cốt thép, tầng 1 có cao trình -1.000 m, tầng 2 có cao trình -4.300 m, tầng 3 cao trình -7.300 m. Công trình lân cận có móng nông sâu 1.4 m 62 KỸ THUẬT – CÔNG NGHỆ và nằm trên đệm cát dày 2,3 m, phía dưới là lớp đất 2 dạng bùn yếu. Tải trọng khai thác của tòa nhà B1 lớn T = 90 kN/m2. Địa chất vị trí nghiên cứu phức tạp, xem Bảng 2. Bảng 2 Địa chất vị trí công trình nghiên cứu Lớp đất Độ dày (m) tự nhiên (kN/m 3 ) bão hòa (kN/m 3 ) E (kN/m 2 ) c (kN/m 2 ) (°) Lớp 1: Đất lấp 3.0 15.0 18,0 0,20 3000 15,0 10,0 Lớp 2: Sét pha, dẻo chảy 11,0 15,9 16,7 0,35 1000 6,9 2,0 Lớp 3: Sét pha, dẻo cứng 4,5 19,7 20,1 0,25 9000 23,8 11,2 Lớp 4: Cát hạt nhỏ - trung, chặt vừa 6,5 20,1 20,1 0,20 14000 1,0 31,0 Móng nhà B1 22,0 22.0 0,20 2500000 Xi măng đất 16,0 18,0 0,20 50000 250 0,0 3.2. Trường hợp tính toán Căn cứ vào tài liệu địa chất, vị trí công trình lân cận, và điều kiện máy thi công tường liên tục, v.v Bài báo phân tích một số trường hợp tính toán để tìm ra hình thức phá hoại vách hố đào, lún công trình lân cận. Các trường hợp tính toán với chiều dài rãnh đào giảm dần từ 6 m, 5 m, 4 m, đến 3m. Ứng với mỗi chiều dài này sẽ tính thêm 3 trường hợp: (1) vách hố đào không được gia cố bằng TĐXM; (2) vách hố đào được gia cố bằng 1 hàng TĐXM có chiều dài 22 m, đường kính cọc 800@600; (3) vách hố đào được gia cố bằng 2 hàng TĐXM có chiều dài 22 m, đường kính cọc 800@600, trường hợp tính toán xem Bảng 3. Bảng 3 Trường hợp tính toán TT Số hàng cọc Trường hợp 1 l = 6 m Trường hợp 2 l = 5 m Trường hợp 3 l = 4 m Trường hợp 4 l = 3 m 1 0 TH1-0 x x TH4-0 2 1 TH1-1 TH2-1 TH3-1 TH4-1 3 2 TH1-2 TH2-2 TH3-2 TH4-2 Ghi chú: x là trường hợp không tính toán. 3.3. Lập mô hình tính Do tính chất đối xứng của công trình nên lấy 1/4 kích thước rãnh đào để lập mô hình tính toán. Sử dụng mô hình Mohr – Coulomb trong phần mềm Midas GTS (2014) để tính toán, với các kích thước mô hình là: chiều rộng 10 m, chiều dài 23 m, chiều cao 30 m. Kích thước hố đào có chiều dài thay đổi từ 3 m, 2.5 m, 2 m, và 1.5 m, chiều rộng 0.4 m (1/2 chiều dài, rộng rãnh thực tế), chiều sâu 22 m. TĐXM có đường kính 800@600, chiều dài 22 m. Tải trọng tính toán bao gồm: tải trọng bản thân các lớp đất, tải trọng T của nhà B1, áp lực do dung dịch bentonite sinh ra. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 51 (6) 2016 63 Điều kiện biên: biên phương X được cố định phương X, biên phương Y được cố định phương Y,biên phương Z tại mặt đáy mô hình được cố định phương X, Y, Z, mặt trên mô hình không gắn điều kiện biên, xem hình 5. Bước tính toán: tính toán ứng suất do bản thân các lớp đất gây ra, tính toán ứng suất do tải trọng ngôi nhà và hàng TĐXM gây ra (nếu có), tính ổn định hố đào khi thi công đào đất đồng thời bơm vữa bentonite. d, Mô hình tính 3D Hình 5. Sơ đồ tính toán 3.4. Phân tích kết quả 3.4.1. Hình thức phá hoại vách hố đào Khi tính toán trường hợp TH1-0 (chiều dài hố đào l=6 m, vách không được gia cố) đã xảy ra hiện tượng phá hoại lớn, nên kết quả tính toán trên phần mềm Midas GTS không hội tụ được. Tính toán với trường hợp TH4-0 (chiều dài hố đào l=3 m, vách không được gia cố), vách hố đào bị phá hoại tổng thể, hình 6, hình thức phá hoại giống như hình 1a. Độ lún lớn nhất tính toán là - 542 mm. Khi giảm chiều dài hố đào từ 6 m xuống 3 m (vách không gia cố) không khống chế được lún và an toàn cho công trình lân cận. Hình 6. Hình thức phá hoại tổng thể vách tường theo phương đứng TH4-0 Hình 7. Kết quả tính toán lún theo TH4-0 Lựa chọn phương án gia cố vách hố đào bằng trụ đất xi măng, ta thấy hình thức phá hoại tổng thể không thể hiện rõ rệt mà chủ yếu xẩy ra hình thức phá hoại cục bộ. Hiện tượng phá hoại này xảy ra là do tồn tại một lớp đất yếu xen kẹp (lớp 2), tuy nhiên phá hoại được khống chế khi số hàng TĐXM tăng lên và chiều dài rãnh giảm, xem Hình 8. -24 -22 -20 -18 -16 -14 -12 -10 -8 -6 -4 -2 0 2 -600 -500 -400 -300 -200 -100 0 100 TH4-0 L ó n ( m m ) ChiÒu dµi (m) 64 KỸ THUẬT – CÔNG NGHỆ Chuyển vị ngang Chuyển vị đứng Chuyển vị ngang Chuyển vị đứng a, TH1-1 b, TH2-1 Chuyển vị ngang Chuyển vị đứng Chuyển vị ngang Chuyển vị đứng c, TH3-1 d, TH4-1 Chuyển vị ngang Chuyển vị đứng Chuyển vị ngang Chuyển vị đứng e, TH1-2 f, TH2-2 Chuyển vị ngang Chuyển vị đứng Chuyển vị ngang Chuyển vị đứng g, TH3-2 h, TH4-2 Hình 8. Hình thức phá hoại của các trường hợp 3.4.2. Lún công trình lân cận và chuyển vị ngang vách hố đào Lún của công trình lân cận và chuyển vị ngang của vách hố đào giảm dần khi chiều dài rãnh đào giảm từ 6 m đến 3 m (gia cố bằng hàng TĐXM). Kết quả tính toán cho thấy hiệu quả gia cố của TĐXM cho vách hố đào và công trình lân cận. Khi chiều dài rãnh đào 4 m, gia cố 1 hàng TĐXM lún là -53 mm, chuyển vị 169 mm thì tương đương với chiều dài rãnh TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 51 (6) 2016 65 đào 5 m, gia cố 2 hàng TĐXM, lún là -57 mm, chuyển vị 143 mm; chiều dài rãnh đào 3 m, gia cố 1 hàng TĐXM, lún là -26 mm, chuyển vị 92 mm thì tương đương với chiều dài rãnh đào 4 m, gia cố 2 hàng TĐXM, lún là -34 mm, chuyển vị 93 mm, xem Bảng 4. Hình 9. Kết quả tính toán lún của các trường hợp ứng với 1 hàng TĐXM Hình10. Kết quả tính toán lún của các trường hợp ứng với 2 hàng TĐXM Hình 11. Kết quả tính toán chuyển vị của các trường hợp ứng với 1 hàng TĐXM Hình12. Kết quả tính toán chuyển vị của các trường hợp ứng với 2 hàng TĐXM Độ lún lớn nhất tập trung ở mép móng gần hố đào và giảm dần khi số hàng TĐXM tăng lên, (hình 9, 10). Trong trường hợp gia cố 1 hàng TĐXM chuyển vị lớn nhất xuất hiện ở vị trí cách miệng hố đào khoảng 9 m (hình 11), khi gia cố bằng 2 hàng TĐXM chuyển vị lớn nhất xuất hiện ở vị trí cách miệng hố đào chỉ còn khoảng 7 m (hình 12). Đánh giá khả năng phá hoại công trình lân cận khi thi công hố đào theo Bjerrum (Chang, 2006), trường hợp TH4-2 là ảnh hưởng nhỏ nhất đến công trình lân cận, nền công trình bị lún nhỏ -18 mm, không ảnh hưởng đến kết cấu của tòa nhà, Bảng 4. -24 -22 -20 -18 -16 -14 -12 -10 -8 -6 -4 -2 0 2 -200 -175 -150 -125 -100 -75 -50 -25 0 25 50 TH1-1 TH2-1 TH3-1 TH4-1 ChiÒu dµi (m) L ó n ( m m ) -24 -22 -20 -18 -16 -14 -12 -10 -8 -6 -4 -2 0 2 -100 -80 -60 -40 -20 0 20 TH1-2 TH2-2 TH3-2 TH4-2 L ó n ( m m ) ChiÒu dµi (m) 66 KỸ THUẬT – CÔNG NGHỆ Bảng 4 Đánh giá khả năng phá hoại công trình lân cận khi thi công hố đào theo Bjerrum (Chang, 2006) Trường hợp tính toán Chuyển vị (mm) Lún (mm) /L Đánh giá khả năng phá hoại công trình lân cận TH1-1 575 -193 1/78 Nguy cơ tổn hại đến kết cấu công trình. Ảnh hưởng TH2-1 304 -101 1/149 Sàn và tường xuất hiện nứt đáng kể. Ảnh hưởng TH3-1 169 -53 1/283 Xuất hiện vết nứt trên tường. Ảnh hưởng TH4-1 92 -26 1/577 Tổn hại đến kết cấu khung dầm của công trình. Ảnh hưởng TH1-2 209 -90 1/167 Công trình xuất hiện nghiêng. Ảnh hưởng TH2-2 143 -57 1/263 Xuất hiện vết nứt trên tường. Ảnh hưởng TH3-2 96 -34 1/441 Ảnh hưởng đến giới hạn an toàn nứt của công trình. Ảnh hưởng TH4-2 56 -18 1/833 Ảnh hưởng đến cơ chế nhạy cảm lún. Không ảnh hưởng Chú ý: L Là chiều rộng móng của công trình lân cận, L=15 m. So sánh kết quả tính toán lún với kết quả đo đạc lún của các công trình hố móng có công trình lân cận ở Hồng Kông của Budge- Reid, ta thấy trường hợp TH3-2, TH4-1và TH4-2 có độ lún nằm trong phạm vi lún an toàn, hình 13. Hình 13. So sánh kết quả tính toán lún với kết quả đo đạc lún của các công trình thực tế ở Hồng Kông Theo tiêu chuẩn hố móng Thượng Hải (2010), khống chế độ lún cho công trình lân cận là 0.15% h = 0.15%x 13 = 19.5 mm. Kết quả tính toán trường hợp TH4-2 là 18 mm < 19.5 mm (giá trị cho phép), thỏa mãn. Dựa vào các đánh giá trên về lún công trình lân cận, chuyện vị ngang và hình thức phá hoại vách hố đào, chọn được phương án tối ưu là trường hợp TH4-2 (chiều rộng rãnh đào l = 3 m, vách hố đào được gia cố bằng 2 hàng TĐXM có chiều dài 22 m, đường kính trụ 800@600). 4. Kết luận Thông qua phân tích các trường hợp thi công hố đào để làm tường liên tục cạnh các công trình xây dựng, bài báo có thể đưa ra một số kết luận như sau: - Khi vách hố đào không được gia cố thì xảy ra hiện tượng phá hoại tổng thể, phá hoại này không còn xuất hiện khi sử dụng TĐXM để gia cố và lúc này vách hố đào chỉ bị phá hoại cục bộ tại vị trí lớp đất yếu xen kẹp. - Vị trí có độ lún lớn nhất tập trung ở phía mép hố móng. Vị trí phá hoại phụ thuộc vào số hàng TĐXM gia cố, khi số hàng TĐXM ít thì vị trí phá hoại ở xa hơn khi số lượng hàng cọc tăng lên. - Nghiên cứu tiếp theo sẽ tập trung vào phân tích tìm giải pháp gia cố tại khu vực gần với móng của công trình lân cận để giảm bớt số hàng TĐXM 0.0 0.5 1.0 1.5 2.0 -70 -60 -50 -40 -30 -20 -10 0 L ó n ( m m ) x/Dw TH4-2 TH4-1 TH3-2 TH3-1 TH2-2 d/Dw=0 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 51 (6) 2016 67 Tài liệu tham khảo Liu, G.L. and Wang, W. D. (2009). Excavation engineering manual. China architecture & building press, Beijing. Piaskowski, A., Kowalewski, Z. (1965). Application of tixotropic clay suspensions for stability of vertical sides of deep trenches without strutting. 6th Int.Conf.SMFE Montreal, 3, 526- 529. N.R. Morgenstern, J. Amir-Tahmasseb. (1965). The stability of a slurry trench in cohesionless soils. Geotechnique, 15(4), 387-395. Washbounre. (1984). The three-dimensional stability analysis of diaphragm wall Excavations [J], Ground Engineering,the magazine of the British Geotechnical Association, 17(4), 24-26, 28-29. Tsai, J.S., Chang, J.C. (1996). Three-dimensional stability analysis for slurry trench wall in cohesionless soil. Canadia Geotechnical Journal, 33, 798-808. Yu, S.F. and Ji, C.P. (1998). A method of stability analysis for sludge sump of underground continuous wall. Underground space, 18(3), 48-62. Aas. (1976). G, Stability of slurry trench excavations in soft clay [A], Proceedings of the 6th European Conference on soil Mechanics and Foundation Engineering [C], Vienna, 1, 103 -110. Cowland J.W., and Thorley C.B.B. (1985). Ground and building settlement associated with adjacent slurry trench excavation. Proceedings of the Third International Conference on Ground Movements and Structures. University of Wales Institute of Science and Technology, Geddes J.D.,ed., Pentech Press, London, Englandpp, 723-738. Budge-Reid A.J., Cater R.W., and Storey F.G. (1984). Geotechnical and construction aspects of the Hong Kong Mass Transit Railway system[C]. Proceedings of the Second Conference on Mass Transportation in Asia, Singapore, 30p. Clough G.W. and O’Rourke T.D. (1990). Construction induced movements of in situ walls. Proceedings, ASCE Conference on Design and Performance of Earth Retaining Structures. Geotechnical Special Publication, 25, ASCE, New York, 439–470. 欧章煜. (2004). 深开挖工程分析设计理论与实务[M], 台北: 科技图书股份有限公司. Shanghai technical code for excavation engineering. (2010). DG/TJ08-61-2010. Chang Y.O. (2006). Deep excavation theory and practice. Taylr & Francis/ Balkema. Công trình hố móng Tòa nhà 97-99 Láng Hạ. (2014). Công ty CPTV đầu tư và thiết kế xây dựng Việt Nam. Midas Geotechnical and Tunnel Analysis System. (2014). MIDAS Information Technology Co., Ltd.,.
File đính kèm:
- phan_tich_anh_huong_cua_tru_dat_xi_mang_den_on_dinh_vach_ho.pdf