Phát triển các dự án BOT cho ngành điện tại Việt Nam: Tồn tại và nguyên nhân

Để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thì việc đầu tư và phát triển cơ

sở hạ tầng ngành điện luôn được ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên để xây dựng các nhà máy điện đòi hỏi vốn

rất lớn, thời gian thu hồi vốn dài. Một trong các hình thức đầu tư được nhà nước ưu tiên phát triển là

BOT. Việc đánh giá thực trạng, chỉ ra các nhân tố tác động đến sự phát triển của các dự án điện, tìm ra

các tồn tại và nguyên nhân để giúp các nhà hoạch định chính sách đưa ra quyết định phù hợp để phát

triển các dự án BOT cho ngành điện là cần thiết.

pdf 9 trang yennguyen 2080
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển các dự án BOT cho ngành điện tại Việt Nam: Tồn tại và nguyên nhân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển các dự án BOT cho ngành điện tại Việt Nam: Tồn tại và nguyên nhân

Phát triển các dự án BOT cho ngành điện tại Việt Nam: Tồn tại và nguyên nhân
QUAÛN TRÒ KINH DOANH
87Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 82 (5/2016)
1. Đặt vấn đề
Theo Nghị định 15/2015/NĐ-CP về đầu tư 
theo hình thức đối tác công tư (PPP), BOT là 
một hình thức PPP, theo đó một hợp đồng sẽ 
được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền 
với nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu 
hạ tầng. Sau khi hoàn thành công trình, nhà 
đầu tư được quyền kinh doanh công trình trong 
một thời hạn nhất định, hết thời hạn, nhà đầu 
tư chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà 
nước có thẩm quyền. Mục đích của hợp đồng 
BOT là nhằm thu hút nguồn lực của khu vực tư 
nhân vào những dự án có khả năng sinh lợi thấp 
nhưng có độ rủi ro cao thuộc khu vực công. Để 
hấp dẫn nhà đầu tư, Nhà nước thường phải chia 
sẻ một phần rủi ro chứ không phải tất cả, đồng 
thời thực hiện nhiều chính sách ưu đãi nhằm 
làm tăng hiệu quả tài chính dự án. Tại Việt 
Nam hình thức BOT đã được phát triển nhanh 
và mạnh trong lĩnh vực giao thông và điện và 
đã mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho phía 
nhà nước cũng như phía doanh nghiệp tư nhân.
 Theo số liệu của ngành điện, nhu cầu tiêu 
thụ điện hàng năm tăng khoảng 16%- 17% và 
muốn đáp ứng được mức tăng này, nhu cầu vốn 
đầu tư mỗi năm khoảng 1 tỉ USD. Thách thức 
lớn nhất cho ngành điện hiện nay vẫn luôn là 
vấn đề về vốn. Để đáp ứng được các nhu cầu 
Tóm tắt 
Để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thì việc đầu tư và phát triển cơ 
sở hạ tầng ngành điện luôn được ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên để xây dựng các nhà máy điện đòi hỏi vốn 
rất lớn, thời gian thu hồi vốn dài. Một trong các hình thức đầu tư được nhà nước ưu tiên phát triển là 
BOT. Việc đánh giá thực trạng, chỉ ra các nhân tố tác động đến sự phát triển của các dự án điện, tìm ra 
các tồn tại và nguyên nhân để giúp các nhà hoạch định chính sách đưa ra quyết định phù hợp để phát 
triển các dự án BOT cho ngành điện là cần thiết.
Từ khóa: BOT, cơ sở hạ tầng, điện - BOT. 
Mã số: 259. Ngày nhận bài: 14/04/2016. Ngày hoàn thành biên tập: 06/05/2016. Ngày duyệt đăng: 06/05/2016.
Abstract 
 Infrastructure development of electricity plays a key role in modernization and industrialization. 
However, building a power plan requires an important capital and a long payback period. BOT 
becomes a preferential model of investment of every country. Therefore, evaluating investment 
situation, finding out factors impacted to development of power plan and the reasons in results to 
make decision for BOT project in power sector are necessary.
Key words: BOT, infrastructure, electricity. 
Paper No.259. Date of receipt: 14/04/2016. Date of revision: 06/05/2016. Date of approval: 06/05/2016.
PHÁT TRIỂN CÁC DỰ ÁN BOT CHO NGÀNH ĐIỆN TẠI VIỆT NAM: 
TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN 
Nguyễn Thị Thu Hằng*
* TS, Trường Đại học Ngoại thương; email: hang.nt@ftu.edu.vn
QUAÛN TRÒ KINH DOANH
88 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 82 (5/2016)
trên, vốn đầu tư cho ngành điện phải ở mức 3 
tỷ USD/năm, với khoảng 70% cho phát triển 
nguồn điện, còn lại là cho lưới điện. Trong khi 
đó khả năng tự đầu tư của ngành điện chỉ đáp 
ứng được từ 250-300 triệu USD từ các khoản 
khấu hao cơ bản, tăng giá và phụ thu, lợi nhuận 
sau thuế... Tổng nguồn vốn đầu tư để có thể đáp 
ứng được nhu cầu về điện và năng lượng chiếm 
tới 12% giá trị GDP. Chính phủ chỉ có thể cung 
cấp 25% số vốn cần thiết, trong khi nguồn vốn 
ODA chỉ có thể tài trợ được khoảng 17%. Như 
vậy rõ ràng là nguồn vốn đầu tư của khu vực 
tư nhân sẽ là nguồn vốn chủ đạo, chiếm 58% 
còn lại. Vì lý do này mà hiện nay tất cả các 
dự án phát triển điện đều được Chính phủ cam 
kết bao tiêu toàn bộ sản lượng điện sản xuất 
ra thông qua các hợp đồng mua bán điện với 
ngành điện trong nhiều năm. Đây chính là cơ 
hội khá thuận lợi cho các dự án đầu tư BOT 
điện và rất “hấp dẫn” các đối tác đầu tư có kinh 
nghiệm trong lĩnh vực này.
Tính tới thời điểm hiện nay, cả nước có 12 
dự án điện BOT với công suất gần 16.000 MW 
đã và đang được xem xét và triển khai. Một 
thực tế là Việt Nam chưa thu hút được nhiều 
nhà đầu tư nước ngoài vào các dự án BOT nhà 
máy điện. 
2. Đánh giá các dự án BOT trong lĩnh 
vực kết cấu hạ tầng điện
Trong giai đoạn 1992-2012, Việt Nam đã 
thu hút được năm dự án đầu tư nước ngoài vào 
ngành điện dưới hình thức BOT là Wartsila, 
Phú Mỹ 2.2, Phú Mỹ 3, Mông Dương và Hải 
Dương với tổng vốn đầu tư 5.036 triệu USD 
bằng nhu cầu vốn cho pháp triển ngành điện 
một năm giai đoạn 2011-2020, chiếm 53% 
tổng đầu tư cxho kết cấu hạ tầng của Việt Nam 
năm 2010, chiếm 6,2% GDP của Việt Nam 
năm 2010. 
Hiệu quả của các dự án BOT ngành điện 
được thể hiện tại bảng 1 dưới đây.
Bảng 1: Bảng chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của các dự án BOT ngành điện
Các chỉ tiêu Wartsila Phú Mỹ 3 Phú Mỹ 2.2 Mông Dương Hải Dương
Vốn đầu tư 110 triệu USD 413 triệu USD 480 triệu USD 2.147 triệu USD 2.258 triệu USD
Lãi vay
Không áp 
dụng
12,36 triệu 
USD
13,6 triệu USD 708,5 triệu USD
745,14 triệu 
USD
Suất hoàn vốn 
nội bộ IRR
24% 24,4% 24% 10.5%-11% 11%
Giá bán điện 7,38 cent/kWh 3,62 cent/kWh 3,25 cent/kWh 4,43 cent/kWh 4,47 cent/kWh
Công suất 120MW 720MW 715MW 1.200MW 12.000MW
Công nghệ
Nhiên liệu là 
dầu FO
Nhiên liệu là 
khí, chi trình 
liên hợp
Nhiệt điện là 
khí. Chu trình 
liên hợp
Công nghệ than 
phun (PC), tầng 
sôi tuần hoàn 
(CFB)
Công nghệ than 
phun (PC), tầng 
sôi tuần hoàn 
(CFB)
Số lao động
500 lao động 
xây dựng +40 
lao động dài 
hạn
1.500 lao động 
xây dựng +80 
lao động dài 
hạn
1.000 lao động 
xây dựng +50 
lao động dài 
hạn
0 (do vừa mới 
khỏi công)
0 (do vừa mới 
khỏi công)
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Dự án khả thi của các dự án - Bộ Công Thương
QUAÛN TRÒ KINH DOANH
89Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 82 (5/2016)
Qua bảng số liệu trên, chúng ta nhận thấy 
vai trò của các dự án BOT trong lĩnh vực điện 
năng đối với nền kinh tế của Việt Nam là khá 
lớn. Cụ thể:
● Các dự án BOT điện năng đã góp phần 
giảm sức ép về vốn cho ngân sách nhà nước 
Việt Nam.
Với giả định toàn bộ số vốn đầu tư của 5 
dự án điện BOT trên được đầu tư bằng ngân 
sách nhà nước, khi đó ngân sách nhà nước huy 
động vốn vay từ nước ngoài với mức lãi suất 
hàng năm 3,5% thì Chính phủ Việt Nam sẽ 
phải trả lãi lên tới: 5,408*3,5%=198,28 triệu/
năm. Việc tiết kiệm này góp phần không nhỏ 
vào giảm gánh nặng vốn đầu tư cho kết cấu 
hạ tầng của Việt Nam nhất là trong bối cảnh 
kinh tế của Việt Nam hiện nay khi mà Chính 
phủ cần vốn cho phát triển các dịch vụ công 
như giáo dục, y tế, nông thôn và tái cấu trúc 
nền kinh tế hướng tới phát triển kinh tế theo 
chiều sâu.
● Các dự án BOT góp phần huy động sự 
tham gia của mọi thành phần kinh tế trong và 
ngoài nước vào phát triển kết cấu hạ tầng
Các thành phần kinh tế khác nhau của Việt 
Nam đều có thể tham gia vào các dự án BOT 
như đấu thầu xây dựng. Các dự án điện đã huy 
động được sự tham gia của các công ty trong 
và ngoài nước liên quan đến việc xây dựng, 
mua bán nguyên vật liệu đầu vào, sản phẩm 
đầu ra như Tập đoàn điện lực Việt Nam, Petro 
Việt Nam, EDF/TEPCO, Siemens cũng như 
nhiều nhà thầu phụ nhỏ khác của Việt Nam. 
Điều này góp phần nâng cao năng lực cạnh 
tranh cho các doanh nghiệp trong nước.
● Các dự án BOT góp phần đẩy nhanh tiến 
độ xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng cả về 
số lượng và chất lượng.
Theo các chuyên gia, nhu cầu cho một nhà 
máy điện có công suất 12.000MW vận hành 
trong 1 tháng là 60 triệu USD. Con số này 
không dễ huy động với một quốc gia luôn 
thâm hụt ngân sách như Việt Nam. Với việc 
huy động đầu tư theo phương thức BOT trong 
đó tài trợ dự án là mấu chốt của dự án BOT 
sẽ cho phép huy động kịp thời nguồn vốn cho 
việc xây dựng và vận hành dự án. Thực tế, nhà 
máy Phú Mỹ 3 đã đi vào vận hành thương mại 
sau 26 tháng xây dựng. Đây là một khoảng 
thời gian rất ngắn so với tiến độ thi công các 
công trình tương tự của Việt Nam. Khi mà 
hầu hết các công trình thuộc quy hoạch điện 
6 (giai đoạn 2005-2010) đều bị chậm tiến độ. 
Nhà máy BOT Phú Mỹ 2.2 và Phú Mỹ 3 đã 
góp phần hình thành một trong 10 trung tâm 
điện lực lớn của khu vực phía Nam - Trung 
tâm Phú Mỹ, góp phần giải quyết tình trạng 
thiếu điện ở miền Nam, giúp cho nhiều ngành 
kinh tế khác không bị ảnh hưởng xấu do thiếu 
điện làm tiền đề phát triển kinh tế xã hội cho 
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
● Dự án BOT đã góp phần tạo công ăn việc 
làm cho người lao động. Chỉ riêng nhà máy 
Phú Mỹ 3, Phú Mỹ 2.2. nhu cầu sử dụng nhân 
công đã lên tới 3000 lao động, bao gồm cả lao 
động thủ công. Điều này góp phần giảm thất 
nghiệp tại tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu nhất là trong 
giai đoạn suy thoái kinh tế như hiện nay. 
● Dự án BOT góp phần thực hiện chuyển 
giao công nghệ, góp phần hình thành và phát 
triển thị trường vốn. Nhà máy Phú Mỹ 2.2 và 
Phú Mỹ 3 chạy bằng khí lấy từ mỏ Nam Côn 
Sơn, nên tận dụng được nguồn khí thiên nhiên 
trước đó chưa được khai thác. Công nghệ “chu 
trình hỗn hợp” là công nghệ có độ tin cậy cao, 
hiệu suất cao và đáp ứng được mọi tiêu chuẩn 
môi trường. Với việc vận hành nhà máy BOT 
QUAÛN TRÒ KINH DOANH
90 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 82 (5/2016)
Phú Mỹ 3 và Phú Mỹ 2.2. hàng nằm giúp Việt 
Nam tiết kiệm được 400-480 triệu USD so với 
việc dùng dầu diesel kém chất lượng và tốn 
kém do 2 dự án tiêu thụ mỗi ngày hơn 4 triệu 
m3 khí lấy từ mỏ Nam Côn Sơn. 
Bên cạnh đó, các dự án sẽ đáp ứng tất cả 
các yêu cầu về bảo vệ môi trường, tuân thủ các 
quy định của tiêu chuẩn Việt Nam và Hướng 
dẫn của Ngân Hàng Thế Giới, trong cả giai 
đoạn xây dựng và vận hành.
● Dự án góp phần cải thiện môi trường sản 
xuất và đầu tư, nâng cao vị thể của Việt Nam 
với các tổ chức quốc tế và trên trường quốc tế. 
Các dự án dùng công nghệ sạch, không gây ô 
nhiễm môi trường. Các thông số đánh giá tác 
động môi trường đều trong giới hạn cho phép 
theo tiêu chuẩn Việt Nam và ngân hàng thế 
giới. Tổ chức MIGA của Ngân hàng thế giới 
WB cũng tham gia tài trợ vốn nên góp phần 
nâng cao uy tín của Việt Nam và củng cố niềm 
tin cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư 
vào Việt Nam. 
● Các dự án đã trực tiếp góp phần thỏa mãn 
nhu cầu điện đang tăng nhanh của Việt Nam 
trong giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa 
đất nước. Mặc dù đến nay Việt Nam chưa thu 
hút được nhiều dự án điện từ các nhà đầu tư 
nước ngoài, nhưng các dự án hiện hữu cũng 
đã đóng góp đáng kể cho nguồn điện quốc gia. 
Đồng thời, các dự án này cũng giúp nguồn nhân 
lực ngành điện Việt Nam tiếp cận với công nghệ 
hiện đại, kỹ năng quản lý chuyên nghiệp, qua 
đó nâng cao trình độ chuyên môn, tích luỹ kinh 
nghiệm, nâng cao năng suất lao động. Năm nhà 
máy điện với công suất 3.955MW đã trực tiếp 
giải quyết vấn đề thiếu điện nghiệm trọng của 
các địa phương có nhà máy như thành phố Hồ 
Chí Minh, Khu công nghiệp Vũng Tàu, Quảng 
Ninh và Hải Dương, thúc đẩy phát triển công 
nghiệp, đáp ứng nhu cầu về điện ngày một 
tăng của nền kinh tế, đặc biệt trong mùa khô 
và những năm thiếu nước. Ngoài ra, với việc 
thực hiện cả các dự án tại Trung tâm Nhiệt 
điện, tỉ trọng của nguồn nhiệt điện so với thuỷ 
điện đã tăng đáng kể. Điều này sẽ làm giảm sự 
phụ thuộc quá mức vào lượng mưa để đáp ứng 
nhu cầu về điện của quốc gia. Dự án nhiệt điện 
hiện là một đối tượng tiêu thụ than chất lượng 
thấp rất lớn, là yếu tố quan trọng góp phần 
phát triển bền vững ngành công nghiệp than và 
năng lượng. Vị trí của các nhà máy này thường 
nằm tại khu than nguyên liệu góp phần tạo môi 
trường thu hút nhà đầu tư nước ngoài. Giá bán 
điện (3,26-4,3 cent mỹ/kwh) là rất cạnh tranh 
so với các dự án tương tự trong khu vực đang 
được phát triển ở nhiều giai đoạn khác nhau tại 
thời điểm hiện nay. 
Ngoài những ưu điểm mà các dự án BOT 
điện năng đã mang lại cho nền kinh tế Việt 
Nam nói chung và cho việc phát triển kết cấu 
hạ tầng của Việt Nam nói riêng, cũng tồn tại 
một số vấn đề cần lưu ý sau.
Thứ nhất, có dự án không đảm bảo đúng 
tiến độ gây thiệt hai cho nhà nước. Dự án 
Wartsila không đi vào vận hành đúng tiến độ 
nên đã không đáp ứng được mục tiêu kinh tế 
xã hội của phía nước chủ nhà. Do việc chẫm 
chễ này mà phía Việt Nam đã bỏ ra rất nhiều 
chi phí để giải phóng mặt bằng, và các chi phí 
cơ hội khác trong một khoảng thời gian dài 
suốt từ 1997 đến nay 2011. Điều này cũng 
đồng nghĩa với việc phía chính phủ Việt Nam 
đã mất một khoản thuế lớn không thu được từ 
thuế sử dụng đất nếu khu vực đó dùng vào mục 
đích khác (với khung giá đất phi nông nghiệp 
vùng Bà Rịa, khu vực 3: 1.000.000đ/m2) sẽ là: 
1.000.000đồng x 10 x 10.000 m2 x 14 năm 
= 1.400 tỷ đồng.
QUAÛN TRÒ KINH DOANH
91Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 82 (5/2016)
Thứ hai, một số dự án còn sử dụng công 
nghệ lạc hậu. Việc lựa chọn công nghệ lạc hậu 
sẽ dẫn đến Việt Nam trở thành bãi rác. Xét 
về mặt công nghệ thì dự án Wartsila áp dụng 
công nghệ không mới do 8 tổ máy chạy bằng 
dầu nặng. Vì vậy dự án này có nhiều khả năng 
gây ô nhiễm môi trường, làm giảm hiệu quả 
của việc chuyển giao công nghệ.
3. Các nhân tố thu hút tài trợ dự án BOT 
trong phát triển kết cấu hạ tầng ngành điện 
ở Việt Nam
Xây dựng kết cấu hạ tầng ở Việt Nam nói 
chung và ngành điện Việt Nam nói riêng là 
một ngành hấp dẫn đầu tư bởi cung đang 
thấp hơn cầu. Nhưng Việt Nam lại rất khó 
khăn khi thu hút các nhà đầu tư tư nhân, nhất 
là các nhà đầu tư nước ngoài vào ngành điện. 
Chính Phủ Việt Nam đã tiến hành kêu gọi 
nhà đầu tư nước ngoài, đưa ra nhiều ưu đãi 
như hưởng thuế suất thu nhập doanh nghiệp 
chỉ là 10% trong 15 năm, trường hợp dự án 
có quy mô lớn thì thời gian ưu đãi thuế suất 
có thể lên đến 30 năm, nhưng đến nay chỉ có 
các nhà đầu tư từ đầu những năm 2000 vẫn 
còn tồn tại ở Việt Nam. Ngoài 2 nhà máy 
thành công theo hình thức BOT là Phú Mỹ 
2.2 và Phú Mỹ 3, đến nay Việt Nam thu hút 
được thêm các nhà đầu tư BOT nước ngoài 
vào các dự án như nhà máy nhiệt điện Mông 
Dương 2, nhiệt điện Vĩnh Tân 1 và 3 (công 
suất đều là 1200MW) Theo Quy hoạch 
phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-
2020, có xét đến năm 2030 (TSĐVII), có 8 
dự án nhiệt điện than được đầu tư theo hình 
thức BOT đã có chủ đầu tư, bao gồm: Mông 
Dương 2, Hải Dương, Vĩnh Tân 1, Duyên 
Hải 2, Vũng Áng 2, Vân Phong 1, Nam Định, 
Vĩnh Tân 3. Theo kế hoạch, các dự án này sẽ 
đưa vào vận hành từ nay đến năm 2020. Tuy 
nhiên tính đến thời điểm này các dự án đều 
đang tiềm ẩn nguy cơ chậm tiến độ.
Theo kết quả điều tra khảo sát của tác giả 
trong giai đoạn 2011-2012 đối với các nhà 
quản lý, các luật sư, doanh nghiệp thực hiện 
dự án BOT trong ngành điện, nhận thấy có 
20 nhân tố mà nhà tài trợ dự án BOT quan 
tâm đến khi tiến hành tài trợ dự án tại Việt 
Nam bao gồm các nhân tố thuộc môi trường 
chính trị, chính sách thu hút đầu tư của Việt 
Nam cũng như các chỉ tiêu liên quan đến dự 
án và môi trường của dự án. Trong đó theo 
các nhà đầu tư nước ngoài thì tất cả 20 nhân 
tố này đều ảnh hưởng đến quyết định của nhà 
đầu tư trong đó đặc biệt quan tâm đến môi 
trường chính trị ổn định, khả năng có thể thế 
chấp được tài sản dự án để phục vụ dự án, hệ 
thống pháp luật đủ, rõ ràng, xác định được 
giá thiết bị, vật liệu xây lắp nhà máy cho 
công ty dự án, các rủi ro trưng dụng, trưng 
mua và chi phí vốn thấp đều đạt. Bên cạnh 
đó giới luật sư cũng cho rằng vấn đề rủi ro 
tín dụng của đất nước cũng được quan tâm 
cao khi đầu tư vào một nước nhất là trong 
giai đoạn hiện nay khi mà khủng hoảng nợ 
công đã xuất hiện ở khá nhiều nước như Hy 
Lạp, Tây Ban Nha và Việt Nam cũng có mức 
nợ công không khiêm tốn. Tiếp đó là sự bảo 
đảm, bảo lãnh của nhà nước. Theo giới Luật 
sư thì chính sự bảo lãnh, bảo đảm của chính 
phủ nước chủ nhà tạo dựng được niềm tin 
cho nhà tài trợ, bao gồm cả ngân hàng và 
các nhà đầu tư khác sẵn sàng bỏ tiền vào các 
thị trường này. Điều này cũng góp phần đảm 
bảo cho các nhà tài trợ thu được dòng thu 
như mong đợi để bù đắp phần giá trị đầu tư 
của họ vào các thị trường này. 
QUAÛN TRÒ KINH DOANH
92 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 82 (5/2016)
Bảng 2: Các nhân tố mang lại thành công 
trong việc thu hút tài trợ dự án BOT xây 
dựng kết cấu hạ tầng của Việt Nam
STT Nhân tố 
1 Môi trường chính trị ổn định
2 Các rủi ro tội phạm, bắt cóc tống tiền, 
khủng bố
3 Rủi ro trưng dựng, trưng mua
4 Sự bảo đảm, bảo lãnh của Nhà nước
5 Rủi ro tín dụng của đất nước
6 Hệ thống pháp luật đủ, rõ ràng
7 Chi phí vốn thấp
8 Dự án đảm bảo các chỉ tiêu ROA, 
ROI, ROE thích đáng
9 Nhân sự của dự án đáng tin cậy bao 
gồm cả người lao động
10 Có dịch vụ bảo hiểm tín dụng và bảo 
hiểm rủi ro của dự án
11 Tài sản dự án được thế chấp
12 Xác định được giá thiết bị vật liệu xây 
lắp nhà máy cho công ty dự án
13 Có thể liệt kê được các rủi ro bất khả 
kháng
14 Nguyên liệu đầu vào có sẵn với giá cả 
xác định được.
15 Thủ tục đàm phán, cấp giấy phép đầu 
tư gọn nhẹ
16 Có sự tham gia của các tổ chức tài 
chính lớn, quy mô quốc tế
17 Nhà thầu và nhà điều hành có kinh 
nghiệm
18 Sự đồng bộ của quy hoạch
19 Tồn tại các sản phẩm và công nghiệp 
phụ trợ cho dự án
20 Dự báo tỷ lệ lạm phát của Chính phủ 
đáng tin cậy
Nguồn: số liệu điều tra năm 2011-2012 của 
tác giả
Một trong các tiêu chí được coi là thành 
công nhất ở Việt Nam đó là Môi trường chính 
trị của Việt Nam ổn định (4,18/5). Các chỉ tiêu 
còn lại chỉ đạt được ở mức trung bình (khoảng 
3/5 điểm). Đặc biệt là các vấn đề như hệ thống 
pháp luật đã có tương đối nhiều nhưng hiện 
nay Việt Nam vẫn thiếu cơ quan thực hiện luật 
hợp đồng mang tính thương mại hoàn chỉnh, 
các hợp đồng PPA (hợp đồng mua bán điện) 
còn thiếu tính kinh tế và đôi khi còn thiếu độ 
tin cậy, việc giải phóng mặt bằng còn chậm, 
gây nhiều tốn kém và cả tham nhũng. Các 
chính sách hiện hành còn gây hạn chế cho việc 
phân phối, bảo dưỡng và dịch vụ thiết bị điện. 
Có 5 nhân tố hiện chưa được Việt Nam chú 
trọng đúng mức và gây ảnh cản trở tới việc 
thu hút tài trợ dự án (1) Có sự tham gia của 
các tổ chức tài chính lớn, quy mô quốc tế; (2) 
Nhà thầu và nhà điều hành có kinh nghiệm; 
(3) Sự đồng bộ của quy hoạch; (4) Tồn tại các 
sản phẩm và công nghiệp phụ trợ cho dự án; 
(5) Dự báo tỷ lệ lạm phát của Chính phủ đáng 
tin cậy
Các nhân tố này đều đến từ bên trong nền 
kinh tế, đáng lưu ý là sự đồng bộ của quy 
hoạch còn quá yếu, các nhà thầu và điều hành 
kém kinh nghiệm, các dự án không có sản 
phẩm và dịch vụ phụ trợ và đặc biệt tỷ lệ lạm 
phát quá cao so với dự báo của nhà nước. Để 
cải thiện được tình hình này thì Việt Nam cần 
phải có các cải cách đột phá cả về chính sách 
kinh tế, chính sách tiền tệ, công tác dự báo 
cũng như nguồn lực.
4. Một số tồn tại và nguyên nhân trong 
phát triển dự án BOT ngành điện ở Việt Nam
Thứ nhất, tài trợ dự án BOT ở Việt Nam 
vẫn mang bóng dáng của bao cấp. Hiện tượng 
đa số các dự án phát triển kết cấu hạ tầng của 
Việt Nam trong giai đoạn vừa qua đều do Nhà 
QUAÛN TRÒ KINH DOANH
93Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 82 (5/2016)
nước chỉ định và thực thi thể hiện quan điểm 
các doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ vị trí độc 
quyền thống trị trong cả lĩnh vực xây dựng cơ 
bản. Việc chỉ định thầu cho các dự án BOT ở 
Việt Nam thể hiện cơ chế “xin-cho” giữa cơ 
quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư. 
Các dự án BOT trong nước hiện nay được 
hình thành thông qua đấu thầu chỉ định, nhiều 
dự án được hình thành thông qua mối quan 
hệ giữa nhà đầu tư với cơ quan nhà nước có 
thẩm quyền thậm chí một số dự án do nhà đầu 
tư cùng Ủy ban tỉnh cùng đề xuất làm đường, 
làm dự án. Bên cạnh đó, các dự án không có 
lãi hoặc khó thu hồi vốn trong quá trình thực 
hiện lại tìm cách chuyển giao sang phía Nhà 
nước thể hiện sự bao cấp của Nhà nước như 
cầu Bình Triệu, cầu Phú Mỹ đã chuyển giao 
lại phía nhà nước trước thời hạn khi nhà đầu 
tư nhận thấy khó thực hiện tiếp cho thấy Nhà 
nước vẫn thực hiện chế độ bao cấp.
Thứ hai, các dự án đã được coi là thành 
công vẫn luôn gặp sự cố về công nghệ. Trong 
thời gian vận hành, nhà máy điện Phú Mỹ 3 
đã nhiều lần xảy ra sự cố, dẫn đến thiếu hụt 
công suất cung cấp cho hệ thống điện như 
mong muốn. Các sự cố xảy ra vào các năm 
như 2005, 2007 và mới nhất năm 2011 tiếp 
tục xảy ra, dù vào tháng 9-2009, công ty BOT 
Phú Mỹ 3 đã đầu tư 10 triệu USD để nâng 
cấp và mở rộng nhà máy điện, giúp tăng công 
suất của nhà máy lên thêm 3%-4%. Trong quá 
trình vận hành, cũng giống như nhà máy điện 
Phú Mỹ 3, nhà máy điện Phú Mỹ 2.2 cũng 
liên tục gặp các sự cố. Điều này thể hiện việc 
lựa chọn công nghệ chưa thực sự hiện đại, đáp 
ứng yêu cầu của nền kinh tế.
Thứ ba, Việt Nam chưa thu hút được nhiều 
dự án điện: Mặc dù Chính Phủ Việt Nam 
đã tiến hành kêu gọi nhà đầu tư nước ngoài, 
đưa ra nhiều ưu đãi như hưởng thuế suất thu 
nhập doanh nghiệp chỉ là 10% trong 15 năm, 
trường hợp dự án có quy mô lớn thì thời gian 
ưu đãi thuế suất có thể lên đến 30 năm, nhưng 
đến nay vẫn chưa thu hút được nhà đầu tư. Số 
dự án đầu tư nước ngoài vào ngành điện Việt 
Nam chưa nhiều. Đến cuối năm 2015, ngoài 
những dự án đang hoạt động, Việt Nam mới 
thu hút thêm được một số dự án sau theo hình 
thức BOT: ngoài nhiệt điện Mông Dương 2 
do tập đoàn AES của Mỹ làm chủ đầu tư và 
nhiệt điện Vĩnh Tân 1 do tập đoàn Phương 
Nam của Trung Quốc thực hiện, còn có nhiệt 
điện Vĩnh Tân 3, Vũng Áng 2 có sự tham gia 
của công ty One Energy Ventures Limited của 
Hồng Kông. Các dự án đã đầu tư vào Việt 
Nam thì có một dự án BOT thất bại (nhiệt 
điện Bà Rịa-Vũng Tàu của tập đoàn Wartsila), 
một dự án BOO cũng thất bại là Amata. Chỉ 
có 2 nhà máy điện Phú Mỹ 2.2 và Phú Mỹ 
3 là các dự án BOT nước ngoài thành công, 
tuy nhiên đều gặp nhiều khó khăn trong quá 
trình triển khai, đặc biệt là về giá bán điên. 
Số lượng các nhà máy điện độc lập IPP vẫn 
quá ít, dẫn đến là chỉ một nhà máy gặp sự 
cố (như sửa chữa máy biến áp hay các thiết 
bị khác) nhưng ảnh hưởng tới toàn bộ nguồn 
cung điện của hệ thống, gây thiệt hại cho nền 
kinh tế cũng như sinh hoạt của người dân. 
Bên cạnh đó, các nguồn năng lượng tái tạo 
rất tiềm năng của Việt Nam như năng lượng 
mặt trời và năng lượng gió cũng chưa thu hút 
được đầu tư nước ngoài do giá thành cao hơn 
giá điện hiện tại của Việt Nam. Do vậy, các 
nhà đầu tư vào lĩnh vực này cần nhiều ưu đãi 
từ phía Chính Phủ. Nhưng đến nay thì hành 
lang pháp lý về năng lượng tái tạo ở Việt Nam 
còn sơ sài nên chưa khuyến khích được các 
nhà đầu tư nước ngoài.
QUAÛN TRÒ KINH DOANH
94 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 82 (5/2016)
Thứ 4 Chất lượng và tiến độ của các dự án 
BOT nước ngoài vào Việt Nam đều chưa đạt 
yêu cầu. Mẫu thuẫn vẫn tiếp tục xảy ra trong 
quá trình vận hành của các nhà máy điện: 
Hầu hết các dự án BOT điện đều bị chậm tiến 
độ, kéo dài thời gian đàm phán (BOT Phú Mỹ 
3 kéo dài đến 6 năm). Thực tế cũng chỉ ra rằng 
giá điện nguyên liệu mà các công ty BOT bán 
lại cho EVN là thấp (hơn 3 cent mỹ/kwh). 
Điều này bắt nguồn từ việc EVN độc quyền 
giá điện và mua điện. Nếu điều này không 
được cải thiện, Việt Nam khó có thể thu hút 
được các nhà đầu tư lớn, có kinh nghiệm trong 
ngành điện đầu tư vào. 
Nguyên nhân
Thứ nhất, thủ tục đầu tư còn rườm rà. Đây 
chính là trở ngại lớn nhất nhà đầu tư phải vượt 
qua khi quyết định đầu tư. Một dự án BOT 
thông thường đòi hỏi nhà đầu tư phải thương 
thảo với hàng chục cơ quan chính phủ và mất 
hàng năm trời để chuẩn bị. Chính điều này 
đang cản trở nhà đầu tư và nâng giá thành sản 
xuất điện lên cao hơn so với thực tế.
Thứ hai, là công tác đền bù giải phóng mặt 
bằng còn nhiều khó khăn. Đây luôn là khó 
khăn mà các nhà đầu tư, bất kể trong hay ngoài 
nước, phải đối mặt khi đầu tư một dự án. Bất 
đồng chủ yếu xảy ra ở giá trị đền bù, do các 
cơ chế và chính sách của Việt Nam chưa hình 
thành hoặc không theo kịp sự phát triển, dẫn 
đến nhà đầu tư thường phải tự xoay sở. Điều 
này gây sức ép lên tiến độ triển khai của dự án.
Thứ ba, đội ngũ nhân lực để thực thi, giám 
sát, kiểm tra việc tài trợ dự án còn thiếu về số 
lượng và yếu về kỹ năng cũng như kinh nghiệm 
trong tài trợ dự án quốc tế. Để có thể tiến tới ký 
kết thành công một dự án BOT, cả nhà đầu tư, 
nhà tài trợ và nước chủ nhà sẽ phải trải qua các 
giai đoạn làm việc, đàm phán tốn kém rất nhiều 
thời gian, nhân lực và tài chính. Đòi hỏi phải có 
sự tham gia của các chuyên gia trong lĩnh vực 
có liên quan bao gồm cả chuyên gia luật, ngân 
hàng, tài chính, kỹ thuật... 
Thứ tư, do hệ thống ngân hàng trong nước 
còn yếu kém ảnh hưởng đến quá trình triển khai 
dự án cũng như việc thu hút dự án BOT trong 
lĩnh vực kết cấu hạ tầng. Như đã trình bày, vốn 
đầu tư đóng vai trò rất quan trọng trong các 
dự án. Trong các dự án BOT, chủ đầu tư chỉ 
có thể bảo đảm tối đa là 30% vốn, phần còn 
lại phải huy động từ các nhà cho vay thương 
mại trong nước hoặc nước ngoài, hoặc từ các 
cổ đông. Tuy nhiên, các ngân hàng trong nước 
của Việt Nam còn non yếu về tiềm lực tài chính 
nên không thể đáp ứng được nhu cầu vốn. Các 
nhà cho vay nước ngoài đòi hỏi cần phải có bảo 
lãnh, nhưng hệ số tín nhiệm của Việt Nam luôn 
thấp do các bất ổn kinh tế vĩ mô. Chính những 
bất ổn đó cũng làm cho các nhà đầu tư tư nhân 
lo ngại và từ chối đầu tư. Bên cạnh đó Việt Nam 
đang tồn tại quá nhiều ngân hàng nhưng lại có 
quy mô vốn quá mỏng so với các ngân hàng 
trong khu vực và trên thế giới, kể cả đối với 
các ngân hàng thương mại lớn có vốn của nhà 
nước. Trong giai đoạn hiện nay, hệ thống ngân 
hàng lại chịu thêm tác động bất lợi từ việc tái 
cấu trúc ngân hàng thương mại khi mà nền kinh 
tế đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, 
thách thức ở trong và ngoài nước.
Thứ năm, khu vực tư nhân trong nước còn 
yếu kém về năng lực tài chính và công nghệ để 
có thể thực hiện các hợp đồng giao thầu trong 
quá trình xây dựng và vận hành dự án BOT. 
Các doanh nghiệp tư nhân luôn thiếu kinh phí 
để đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng 
sản phẩm, đầu tư nghiên cứu và phát triển. Kỹ 
năng quản lý và chuyên môn của nhiều doanh 
nghiệp tư nhân còn yếu kém nên thường phải 
đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình 
QUAÛN TRÒ KINH DOANH
95Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 82 (5/2016)
tăng trưởng và mở rộng sản xuất. Phần lớn các 
doanh nghiệp tư nhân chưa có khả năng, điều 
kiện để tham gia đấu thầu quốc tế. Mặc dù 
đã nhận thức được về biến đổi khí hậu, môi 
trường, nhưng vì sự tồn tại và sinh lợi nhuận 
là mối bận tâm lớn nhất, nên ít doanh nghiệp 
đưa ra các phương án hành động cụ thể để bảo 
vệ môi trường gắn với sự phát triển bền vững 
của doanh nghiệp.
Thứ sáu, công tác giải phóng mặt bằng của 
Việt Nam được đánh giá rất thấp. Tiến độ giải 
phóng mặt bằng không chỉ rất yếu kém đối với 
các dự án BOT nước ngoài mà yếu kém với tất 
cả các loại dự án khác kể cả các dự án trong 
nước được hình thành từ ngân sách nhà nước. 
Do vậy Việt Nam cần phải chú trọng điều này 
trong việc thu hút đầu tư nói chung và đầu tư 
dưới hình thức BOT nói riêng.q
Tài liệu tham khảo
1. Chính Phủ, Nghị định số 15/2015/ND-CP ngày 14/2/2015 về đầu tư theo hình thức đối 
tác công tư.
2. Nguyễn Thị Thu Hằng, 2012, Luận án tiến sỹ - Học viện Khoa học Xã hội.
3. Nguyễn Thị Thu Hằng, 2011, Những vấn đề đặt ra trong thu hút đầu tư vào 
ngành điện, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 22, ISSN 08667120, trang 29-31.
4. Nguyễn Thị Thu Hằng, 2011, Thực trạng kết cấu hạ tầng của Việt Nam hiện nay, 
Tổng quan Kinh tế - Xã hội Việt Nam, ISSN 1859-4522, trang 40-45.
5. Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tóm tắt báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính năm 
2007, 2008, 2009, 2010, 2011, 2012 của Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN).
6. Thủ tướng Chính Phủ, 2011, Quyết định số 1208/QĐ-TTG, ngày 21 tháng 7 năm 
2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia 
giai đoạn 2011-2020 có xét đến năm 2030.

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_cac_du_an_bot_cho_nganh_dien_tai_viet_nam_ton_tai.pdf