Random Border-Over-Sampling: Thuật toán mới sinh thêm phần tử ngẫu nhiên trên đường biên trong dữ liệu mất cân bằng

Tóm tắt: Phân lớp dữ liệu mất cân bằng là bài toán quan

trọng xuất hiện trong hầu hết các lĩnh vực, đặc biệt là trong y

sinh học chuẩn đoán người bệnh. Hiện nay, đã có nhiều

nghiên cứu giải quyết bài toán này, trong đó, phương pháp tiền

xử lý dữ liệu như Random Over-Sampling (ROS) là một

phương pháp phổ biến và cho kết quả tốt. Tuy nhiên, một số

trường hợp ROS lại không đạt được kết quả như mong đợi

hoặc giảm hiệu quả phân lớp. Chính vì vậy, bài báo này tập

trung nghiên cứu cải tiến thuật toán ROS, từ đó, đề xuất thuật

toán mới Random Border-Over-Sampling (RBOS) bằng việc

chọn các phần tử thiểu số có ý nghĩa quan trọng trên đường

biên. Kết quả thực nghiệm trên sáu tập dữ liệu mất cân bằng từ

nguồn dữ liệu chuẩn quốc tế UCI (breast-p, blood, pima,

haberman, glass, và coil2000) đã chỉ ra thuật toán mới đề xuất

của chúng tôi đạt hiệu quả tốt hơn hẳn so với phương pháp

trước.

pdf 5 trang yennguyen 3220
Bạn đang xem tài liệu "Random Border-Over-Sampling: Thuật toán mới sinh thêm phần tử ngẫu nhiên trên đường biên trong dữ liệu mất cân bằng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Random Border-Over-Sampling: Thuật toán mới sinh thêm phần tử ngẫu nhiên trên đường biên trong dữ liệu mất cân bằng

Random Border-Over-Sampling: Thuật toán mới sinh thêm phần tử ngẫu nhiên trên đường biên trong dữ liệu mất cân bằng
Bùi Dương Hưng, Vũ Văn Thỏa, Đặng Xuân Thọ 
Tác giả liên hệ: Bùi Dương Hưng, 
email: hungbd@dhcd.edu.vn 
Đến tòa soạn: 06/2017, chỉnh sửa: 08/2017, chấp nhận: 09/2017 
RANDOM BORDER-OVER-SAMPLING: 
THUẬT TOÁN MỚI SINH THÊM PHẦN TỬ 
NGẪU NHIÊN TRÊN ĐƯỜNG BIÊN TRONG 
DỮ LIỆU MẤT CÂN BẰNG 
Bùi Dương Hưng*, Vũ Văn Thỏa+, Đặng Xuân Thọ# 
*Bộ môn Tin học, Trường Đại học Công đoàn 
+Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông 
#Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 
1Tóm tắt: Phân lớp dữ liệu mất cân bằng là bài toán quan 
trọng xuất hiện trong hầu hết các lĩnh vực, đặc biệt là trong y 
sinh học chuẩn đoán người bệnh. Hiện nay, đã có nhiều 
nghiên cứu giải quyết bài toán này, trong đó, phương pháp tiền 
xử lý dữ liệu như Random Over-Sampling (ROS) là một 
phương pháp phổ biến và cho kết quả tốt. Tuy nhiên, một số 
trường hợp ROS lại không đạt được kết quả như mong đợi 
hoặc giảm hiệu quả phân lớp. Chính vì vậy, bài báo này tập 
trung nghiên cứu cải tiến thuật toán ROS, từ đó, đề xuất thuật 
toán mới Random Border-Over-Sampling (RBOS) bằng việc 
chọn các phần tử thiểu số có ý nghĩa quan trọng trên đường 
biên. Kết quả thực nghiệm trên sáu tập dữ liệu mất cân bằng từ 
nguồn dữ liệu chuẩn quốc tế UCI (breast-p, blood, pima, 
haberman, glass, và coil2000) đã chỉ ra thuật toán mới đề xuất 
của chúng tôi đạt hiệu quả tốt hơn hẳn so với phương pháp 
trước. 
Từ khóa: Border-line, Random-Sampling, Over-Sampling, 
dữ liệu mất cân bằng, phân lớp. 
I. MỞ ĐẦU 
Ngày nay, trong thực tế xuất hiện rất nhiều bộ dữ liệu mất 
cân bằng, điển hình như: việc phát hiện tràn dầu trên bề mặt đại 
dương dựa vào các hình ảnh thu được từ rada vệ tinh, những 
hình ảnh có sự cố tràn dầu là rất nhỏ trong tổng số hình ảnh thu 
được, nên việc phát hiện chúng là rất khó, khiến cho công tác 
hạn chế ô nhiễm môi trường gặp nhiều khó khăn. Trong y học 
[1]–[3], số người mắc bệnh ung thư chiếm tỉ lệ rất nhỏ trên 
tổng số người dân, nhưng việc chuẩn đoán nhầm người bị bệnh 
thành người không bị bệnh có ảnh hưởng nghiêm trọng đến 
tính mạng con người. Trong giao dịch tín dụng hoặc cước di 
động, số giao dịch gian lận là rất nhỏ trên tổng số giao dịch, 
đặc biệt việc không phát hiện được hay phát hiện nhầm những 
giao dịch gian lận có thể gây thiệt hại lớn về tài chính đối với 
các doanh nghiệp [4]. Tại Hoa Kỳ, việc gian lận cước di động 
tiêu tốn hàng trăm triệu đô la mỗi năm. 
Bài toán phân lớp dữ liệu đã được nghiên cứu với rất nhiều 
thuật toán phân lớp chuẩn như máy véc tơ hỗ trợ (SVM), k 
láng giềng gần nhất (K-NN), cây quyết định.. Tuy nhiên, khi 
xuất hiện các dữ liệu mất cân bằng, các thuật toán chuẩn trên 
không cho hiệu quả phân lớp cao như mong muốn. Chính vì 
vậy, yêu cầu đặt ra cần có phương pháp phân lớp phù hợp đối 
với các tập dữ liệu mất cân bằng nhằm đáp ứng các yêu cầu 
thực tế ngày càng tăng. 
 Nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước [5]–[9] 
đã giải quyết bài toán phân lớp dữ liệu mất cân bằng theo nhiều 
hướng khác nhau, theo các hướng tiếp cận ở cấp độ dữ liệu 
[10]–[13] và tiếp cận ở cấp độ thuật toán [14]–[17]. Trong đó, 
ở nghiên cứu này, chúng tôi tập trung vào hướng tiếp cận ở cấp 
độ dữ liệu, tiền xử lý dữ liệu để làm giảm sự mất cân bằng dữ 
liệu trước khi áp dụng các phương pháp phân lớp chuẩn nhằm 
mục đích cho hiệu quả tích cực. Điều chỉnh dữ liệu cũng có 
nhiều cách: giảm kích thước mẫu dữ liệu hoặc tăng kích thước 
mẫu dữ liệu. Thuật toán đại diện cho kỹ thuật này là Random 
Over-Sampling (ROS) và Random Under-Sampling (RUS). 
Ngoài ra, có thể kết hợp cả hai phương pháp trên để nâng cao 
hiệu quả phân lớp. Ramdom Over-Sampling là một phương 
pháp điều chỉnh tăng kích thước mẫu, thuật toán này sẽ lựa 
chọn ngẫu nhiên các phần tử trong lớp thiểu số và nhân bản 
chúng, làm cho bộ dữ liệu giảm bớt sự mất cân bằng. Ngoài ra, 
cũng có một số cách sinh phần tử có chủ đích như: tăng phần tử 
thiểu số ở vùng an toàn (Safe level), tăng phần tử ở đường biên 
(Borderline) [18] Phương pháp điều chỉnh giảm kích thước 
mẫu Random Under-Sampling sẽ loại bỏ các phần tử ở lớp đa 
số một cách ngẫu nhiên đến khi tỷ số giữa các phần tử lớp thiểu 
số và các phần tử lớp đa số phù hợp. Do đó, số lượng các phần 
tử lớp đa số của tập huấn luyện sẽ giảm đáng kể. 
 Hai phương pháp trên được thực nghiệm chứng minh là 
hiệu quả, cải tạo tính mất cân bằng dữ liệu nhanh chóng. Tính 
ngẫu nhiên đảm bảo tính khách quan nhưng vẫn tồn tại một vài 
nhược điểm, trong một số trường hợp vẫn chưa đạt kết quả 
mong muốn. Phần tiếp theo của bài báo chúng tôi đề xuất 
nghiên cứu cải thiện thuật toán Random Over-Sampling thành 
thuật toán mới có tên Random Border-Over-Sampling nhằm 
Số 01 (CS.01) 2017 TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG 45
RANDOM BORDER-OVER-SAMPLING: THUẬT TOÁN MỚI SINH THÊM PHẦN TỬ... 
sinh các phần tử tập trung trên đường biên để nâng cao hiệu 
quả phân lớp, và được chứng minh bằng thực nghiệm trên các 
bộ dữ liệu chuẩn khác nhau. 
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 
A. Mục tiêu nghiên cứu 
Qua tìm hiểu và nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy ý nghĩa, 
tầm quan trọng của bài toán phân lớp dữ liệu mất cân bằng và 
những hạn chế mà thuật toán Random Over-Sampling (ROS) 
còn gặp phải là: Thứ nhất, việc nhân bản ngẫu nhiên làm tăng 
khả năng quá khít của mô hình phân lớp với bộ dữ liệu huấn 
luyện và làm tăng thời gian học nếu bộ dữ liệu huấn luyện ban 
đầu đã có kích thước lớn. Thứ hai, trong nhiều trường hợp có 
thể xảy ra tình trạng có những phần tử được chọn nhiều lần để 
tạo bản sao, cũng có những phần tử không được nhân bản lần 
nào. Nếu những phần tử không được lựa chọn để nhân bản lại 
là những phần tử có ích cho việc xây dựng mô hình phân lớp 
thì hiệu quả thuật toán cũng có thể bị giảm đi. Đặc biệt, trong 
một số nghiên cứu chỉ ra rằng các phần tử nằm trên đường biên 
giữa hai nhãn lớp dữ liệu đóng vai trò quan trọng trong quá 
trình phân lớp dữ liệu. 
 Chính vì vậy, chúng tôi đề xuất thuật toán mới Random 
Border-Over-Sampling (RBOS) với mục tiêu sinh thêm các 
phần tử nhân tạo trên đường biên nhằm khắc phục những hạn 
chế của thuật toán ROS hỗ trợ nâng cao hiệu quả phân lớp dữ 
liệu mất cân bằng. 
B. Thuật toán mới Random Border-Over-Sampling 
Trong bài toán phân lớp dữ liệu mất cân bằng, nhiều nghiên 
cứu đã chỉ ra rằng các thuật toán phân lớp và các thuật toán tiền 
xử lý dữ liệu cố gắng để xác định được đường phân chia ranh 
giới giữa hai lớp càng chính xác càng tốt. Đường phân chia 
ranh giới đó được gọi là đường biên của hai lớp. Phần tử biên 
(nằm trên hoặc gần đường biên) sẽ nằm gần với các phần tử 
lớp khác nhiều hơn so với những phần từ nằm xa biên. Vì thế, 
những phần tử này thường có khả năng bị gán nhãn hay bị 
phân lớp sai cao hơn so với những phần tử xa biên. Do đó, 
chúng có vai trò quan trọng trong việc quyết định hiệu quả 
phân lớp. 
 Trong bài báo khoa học [18], [19], nhóm tác giả Hui Han, 
Wen-Yuan Wang, and Bing-Huan Mao cũng đã khẳng định vai 
trò quan trọng của các phần tử biên thuộc lớp thiểu số trong 
việc phân lớp. Để xác định một phần tử lớp thiểu số có phải là 
phần tử nằm trên biên hay không, thuật toán xác định dựa vào 
số láng giềng thuộc lớp đa số m trong tổng số k láng giềng gần 
nhất. Nếu k/2≤m<k thì phần tử lớp thiểu số đó là phần tử biên 
và ngược lại [18], [19]. Bên cạnh đó, phương pháp ROS 
nguyên bản tác động bình đẳng trên tất cả phần tử lớp thiểu số, 
mà không quan tâm nhiều đến những phần tử trên đường biên 
nên khiến cho việc xác định những phần tử này gặp khó khăn. 
Chính vì vây, chúng tôi đề xuất thuật toán mới RBOS, được 
mô tả như sau: 
Thuật toán: 
Input: Bộ dữ liệu huấn luyện T, trong đó, tập các phần tử 
lớp thiểu số D; n%: tỉ lệ phần trăm số phần tử trên biên sinh 
thêm; k: số láng giềng gần nhất đối với một phần tử lớp thiểu 
số; m: số phần tử lớp đa số trong k láng giềng gần nhất bên 
trên. 
Output: Bộ dữ liệu huấn luyện T và tập các phần tử sinh 
ngẫu nhiên trên đường biên D’ 
D’ = ∅ 
∀p ∈ D: tính k láng giềng gần nhất của p trong T 
Tính số láng giềng thuộc lớp đa số trong số k láng giềng 
bên trên gọi là m 
Nếu (k/2 ≤ m < k) thì p là phần tử biên của lớp thiểu số. 
Thực hiện sinh thêm các phần tử trên đường biên theo tỉ lệ 
n% ∈ . 
return D' 
Thuật toán RBOS khác so với ROS ở việc nhân bản có mục 
tiêu là những phần tử biên lớp thiểu số. Cách xác định một 
phần tử có là phần tử biên của lớp thiểu số hay không được 
minh họa bằng hình vẽ trực quan sau: 
Hình 1. Cách xác định một phần tử biên lớp thiểu số 
Trong hình 1, xét hai phần tử lớp thiểu số được đánh số 1 
và 2, chọn ra sáu láng giềng gần nhất của chúng. Ta thấy, đối 
với phần tử số 1, trong sáu láng giềng gần nhất của nó có tới 
bốn phần tử thuộc lớp đa số và hai phần tử thuộc lớp thiểu số, 
khi đó, thỏa mãn điều kiện (k/2 ≤ m < k), vậy phần tử 1 là phần 
tử biên của lớp thiểu số và được lựa chọn để tạo ra phần tử 
nhân tạo. Tuy nhiên, đối với phần tử số 2, trong sáu láng giềng 
của nó chỉ có một phần tử lớp đa số, còn lại năm phần tử lớp 
thiểu số. Vì vậy, phần tử 2 không là phần tử biên và không 
được lựa chọn để tạo ra phần tử nhân tạo. 
III. THỰC NGHIỆM 
A. Dữ liệu 
Để đánh giá hiệu quả thuật toán của thuật toán đề xuất, 
Random Border-Over-Sampling, chúng tôi tiến hành thực 
nghiệm trên sáu tập dữ liệu chuẩn quốc tế UCI [20]. Bảng I là 
thông tin về một số bộ dữ liệu mà bài báo nghiên cứu khoa học 
sử dụng trong quá trình thực nghiệm, đây đều là các bộ dữ liệu 
có sự mất cân bằng giữa các lớp. 
Bảng I. Dữ liệu chuẩn quốc tế từ UCI 
Dữ liệu 
Số 
phần tử 
Số 
thuộc tính 
Tỉ lệ 
mất cân bằng 
breast-p 198 32 1 : 4 
Số 01 (CS.01) 2017 TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG 46
Bùi Dương Hưng, Vũ Văn Thỏa, Đặng Xuân Thọ 
blood 748 4 1 : 3 
pima 768 8 1 : 2 
haberman 306 3 1 : 3 
glass 214 9 1 : 6 
coil2000 5822 86 1 : 16 
Dữ liệu được gán nhãn nhị phân gồm hai lớp, lớp lớp đa số 
được gán nhãn là Negative và thiểu số được gán nhãn là 
Positive. Trong đó, bộ dữ liệu coil2000 có tỉ lệ mất cân bằng 
lớn nhất là 1:16; bộ dữ liệu glass có tỉ lệ mất cân bằng là 1:6; 
bộ dữ liệu breast-p có tỉ lệ mất cân bằng là 1:4; bộ dữ liệu 
blood, haberman cùng có tỉ lệ mất cân bằng là 1:3; và bộ dữ 
liệu pima có tỉ lệ mất cân bằng là 1:2. 
B. Các tiêu chí đánh giá 
Để đánh giá một thuật toán phân lớp có hiệu quả hay không 
đều cần có những tiêu chí đánh giá cần thiết. Các tiêu chí đánh 
giá phân lớp được xây dựng trên cơ sở ma trận nhầm lẫn như 
minh họa ở bảng II như sau [21], [22]. 
Bảng II. Ma trận nhầm lẫn 
 Nhãn dự đoán 
Nhãn thực tế Positive Negative 
Positive 
True Positive 
(TP) 
False Positive 
(FP) 
Negative 
False Negative 
(FN) 
True Negative (TN) 
Bảng II mô tả sự phân bố nhầm lẫn giữa hai lớp: Positive là 
nhãn lớp của các phần tử lớp thiểu số, Negative là nhãn lớp của 
các phần tử lớp đa số. TP là số phần tử có nhãn lớp thực tế là 
Positive và cũng được dự đoán là Positive; FP là số phần tử có 
nhãn lớp thực tế là Negative nhưng được dự đoán là Positive; 
TN là số phần tử có nhãn lớp thực tế là Negative và cũng được 
dự đoán là Negative; FN là số phần tử có nhãn lớp thực tế là 
Positive nhưng được dự đoán là Negative. 
 Dựa vào bảng II, chúng ta xác định được một số tiêu chí 
đánh giá sau [21]. 



 √ 
Đối với dữ liệu cân bằng, tức số lượng phần tử Positive và 
Negative là gần như tương đương nhau, người ta thường căn cứ 
vào Accuracy (độ đo chính xác) để đánh giá hiệu quả phân lớp. 
Tuy nhiên, trong dữ liệu mất cân bằng, việc đánh giá hiệu quả 
phân lớp dựa vào độ chính xác không còn đáng tin cậy bởi vì 
số lượng Negative lớn, số phần tử Negative được dự đoán đúng 
cao tức TN cao, Positive rất nhỏ nên nhiều phần tử bị dự đoán 
sai tức TP nhỏ. Khi đó, mặc dù TP rất nhỏ nhưng độ chính xác 
(Accuracy) của mô hình phân lớp vẫn rất cao. Trong khi đó, 
thực tế vẫn có nhiều Positive bị dự đoán sai. Vì vậy, độ đo 
Accuracy không còn tin cậy trong việc đánh giá hiệu quả phân 
lớp của các tập dữ liệu mất cân bằng. 
 Trong nhiều bài báo khoa học cùng lĩnh vực [9], [18], 
[23]–[25], cũng như trong bài báo này, chúng tôi đánh giá hiệu 
quả thuật toán căn cứ vào giá trị G-mean. Trong đó, G-mean là 
độ đo phản ánh sự cân bằng giữa hiệu quả dự đoán các phần tử 
ở cả hai lớp, dựa trên độ đo TPrate và TNrate. 
C. Kết quả thực nghiệm và đánh giá 
Thuật toán ROS và thuật toán đề xuất RBOS đều là hai 
thuật toán tiền xử lý dữ liệu được xây dựng trên ngôn ngữ R và 
Perl [26]. Trong R, chúng tôi sử dụng package kernlab – để 
đánh giá hiệu quả phân lớp của hai phương pháp với thuật toán 
phân lớp chuẩn SVM. 
 Đầu tiên, chúng tôi chia ngẫu nhiên bộ dữ liệu ban đầu 
bằng phương pháp kiểm tra chéo (cross-validation) ra làm 10-
fold có kích thước xấp xỉ nhau. Việc đánh giá thực hiện 10 lần, 
mỗi lần lấy một fold làm tập kiểm tra, 9 folds còn lại sử dụng 
làm tập huấn luyện. Với mỗi lần lặp, từ bộ dữ liệu huấn luyện 
ban đầu, ta thực hiện áp dụng một trong hai thuật toán ROS, và 
RBOS được bộ dữ liệu huấn luyện mới. Áp dụng thuật toán 
phân lớp SVM bộ dữ liệu huấn luyện mới này để thu được mô 
hình phân lớp. Sau đó, mô hình được đưa vào đánh giá với tập 
dữ liệu kiểm tra. Từ đó, qua 10 lần lặp, hiệu quả phân lớp 
được xác định là trung bình cộng của 10 giá trị độ đo tính được 
ở mỗi lần. 
 Cả hai thuật toán có tham số n% là số lần các phần tử lớp 
thiểu số ở vùng biên được chọn để nhân bản. Để tìm được kết 
quả tốt nhất chúng tôi cho chạy n% từ 100% đến 500%. Tương 
tự, với thuật toán mới RBOS, chúng tôi xét số láng giềng gần 
nhất k từ 3 đến 8 và lựa chọn kết quả tốt nhất. 
 Để kết quả được chính xác và khách quan, chúng tôi thực 
hiện 20 lần 10-fold, kết quả G-mean là giá trị trung bình của 20 
lần thực hiện. Để kiểm tra xem G-mean của phương pháp nào 
thật sự cao hơn và có ý nghĩa thống kê, chúng tôi tiến hành 
kiểm định t-test. Kiểm định này sử dụng 20 lần chạy của G-
mean cao nhất trong mỗi phương pháp. Kết quả của t-test là trị 
số xác suất p-value (probability value). Nếu p-value của kiểm 
định này nhỏ hơn hoặc bằng 0.05 thì hai giá trị trung bình khác 
biệt có ý nghĩa thống kê. Trường hợp ngược lại, p-value lớn 
hơn 0.05 thì hai giá trị trung bình khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê [27]. Kiểm định này sử dụng hàm t.test trong gói stats 
của R để tính giá trị p-value. 
 Sau đây là kết quả G-mean thu được của sáu bộ dữ liệu 
khi thực hiện ba phương pháp phân lớp: phân lớp bằng thuật 
toán phân lớp chuẩn SVM trên bộ dữ liệu gốc (Original), phân 
lớp SVM kết hợp điều chỉnh mẫu bằng thuật toán ROS, và 
phân lớp SVM kết hợp điều chỉnh mẫu bằng thuật toán RBOS. 
Có thể thấy, các kết quả thực nghiệm trên sáu bộ dữ liệu đã 
chỉ ra thuật toán đề xuất, RBOS, nâng cao hiệu quả phân lớp 
G-mean cao hơn so với phương pháp ROS và SVM trên dữ 
liệu nguyên gốc. Cụ thể, trong đó bộ dữ liệu breast-p đạt hiệu 
quả nổi bật khi G-mean đạt 66.71%, tăng 32.98% so với thuật 
toán SVM, và tăng 2.09% so với thuật toán ROS. Bộ dữ liệu 
Số 01 (CS.01) 2017 TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG 47
RANDOM BORDER-OVER-SAMPLING: THUẬT TOÁN MỚI SINH THÊM PHẦN TỬ... 
blood, khi áp dụng thuật toán mới RBOS thì giá trị G-mean thu 
được là 68.04% cao hơn so với phương pháp sử dụng thuật 
toán ROS có giá trị G-mean là 67.03%, và phương pháp chỉ 
chạy bộ dữ liệu gốc có giá trị G-mean là 53.55%. Và đặc biệt ở 
bộ dữ liệu coil2000, phương pháp ROS đã nâng cao hiệu quả 
phân lớp so với phương pháp chỉ chạy dữ liệu gốc có giá trị G-
mean tăng từ 0% lên 4.12%, thì phương pháp mới đề xuất 
RBOS nâng cao hiệu quả vượt bậc khi đạt 12.66%. 
Hình 2. Biểu đồ so sánh kết quả G-mean 
Kết quả kiểm định t.test kiểm tra giá trị trung bình G-mean thu 
được khi áp dụng thuật toán RBOS so với thuật toán chuẩn và 
ROS của bộ dữ liệu breast-p, blood, pima, haberman và 
coil2000 cho giá trị p-value nhỏ hơn 0.05. Điều này cũng chỉ ra 
hiệu quả của thuật toán RBOS có ý nghĩa thống kê so với các 
thuật toán chỉ chạy bộ dữ liệu gốc và phương pháp ROS (chi 
tiết Bảng III). 
 Để làm rõ hơn vì sao chỉ có bộ dữ liệu Glass không đạt 
kiểm định t.test, chúng tôi tiến hành thống kê số lượng phần tử 
biên của lớp thiểu số (chi tiết bảng IV). Dựa trên kết quả bảng 
IV, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy trong sáu bộ dữ liệu, các 
bộ dữ liệu breast-p, blood, haberman, và coil2000 có tỉ lệ 
positive biên trên tổng số positive lần lượt là 91.30%, 77.40%, 
76.25%, và 97.70%. Riêng bộ glass có tỉ lệ positive biên trên 
tổng số positive tương đối nhỏ, chỉ chiếm 17.9%, tức trong 
tổng số positive trên toàn tập dữ liệu, số positive biên là rất 
nhỏ. Đối chiếu với các kết quả đánh giá hiệu năng (G-mean) 
của các phương pháp ở hình 2, chúng ta có thể nhận thấy thuật 
toán đề xuất RBOS cho hiệu quả phân lớp tốt đối với các bộ dữ 
liệu có số positive biên lớn, cụ thể như breast-p, blood, 
haberman, và coil2000. 
Bảng III. Thống kê kiểm định t-test 
Dữ liệu Thuật toán ROS RBOS 
breast-p 
Original < 2.2e-16 < 2.2e-16 
ROS 0.00222 
blood 
Original < 2.2e-16 < 2.2e-16 
ROS 0.001453 
pima 
Original < 2.2e-16 < 2.2e-16 
ROS 0.0005313 
haberman 
Original < 2.2e-16 < 2.2e-16 
ROS 0.04733 
glass 
Original 0.4572 0.08127 
ROS 0.1806 
coil2000 
Original 1.18e-12 6.21e-15 
ROS 3.42e-05 
Bảng IV. Thống kê số lượng phần tử biên của lớp đa số 
và lớp thiểu số 
Dữ liệu 
Số negative 
(a) 
Số positive 
(b) 
Số 
positive 
biên (c) 
Tỉ lệ 
c/b (%) 
breast-p 151 47 42 91.30 
blood 570 178 137 77.40 
pima 500 268 158 59.17 
haberman 225 81 61 76.25 
glass 185 29 5 17.85 
coil2000 5474 348 340 97.70 
IV. KẾT LUẬN 
Trong bài báo này, chúng tôi đã trình bày tổng quan về bài 
toán phân lớp dữ liệu mất cân bằng là bài toán khó và nhiều 
thách thức nhưng có ý nghĩa lớn trong nghiên cứu và thực tế, 
từ đó, chúng tôi cũng đề xuất thuật toán mới dựa trên đường 
biên nhằm nâng cao hiệu quả phân lớp dữ liệu. Các kết quả 
thực nghiệm đánh giá trên sáu bộ dữ liệu mất cân bằng chuẩn 
UCI (breast-p, blood, pima, haberman, glass, và coil2000) đã 
chỉ ra rằng thuật toán đề xuất Random Border-Over-Sampling 
cho hiệu quả phân lớp tốt hơn thuật toán phân lớp chuẩn và 
thuật toán Random Over-Sampling. Điều này khẳng định tầm 
quan trọng của các phần tử biên trong tập dữ liệu có ảnh 
hưởng tới quá trình phân lớp. 
Tuy nhiên, đặc thù trong mỗi bộ dữ liệu sẽ có phân bổ dữ 
liệu khác nhau, có dữ liệu thì số lượng phần tử trên đường 
biên nhiều và ngược lại. Qua thống kê số lượng phần tử biên 
và thực nghiệm đánh giá cũng chỉ ra rằng thuật toán cải tiến 
Random Border-Over-Sampling cho hiệu quả phân lớp tốt ở 
lớp dữ liệu có số lượng phần tử lớp thiểu số trên biên lớn. 
Hiện nay, chưa có một phương pháp nào tối ưu hơn hẳn cho 
tất cả các bộ dữ liệu thực tế và trong ngành khai phá dữ liệu 
thì đều chấp nhận điều này. Trên cơ sở nghiên cứu và các kết 
quả đạt được, chúng tôi nhận thấy có nhiều vấn đề cần được 
tiếp tục nghiên cứu. Trong tương lai, chúng tôi sẽ tiếp tục 
nghiên cứu cải thiện thuật toán Random Border-Over-
Sampling bằng cách kết hợp với các phương pháp khác như 
giảm số lượng phần tử biên thuộc lớp thiểu số hay loại bỏ các 
phần tử nhiễu để thuật toán đạt hiệu quả tốt hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] W. K. Han, ―Effective sample selection for classification of pre-
miRNAs.,‖ Genet. Mol. Res., vol. 10, no. 1, pp. 506–18, Jan. 
2011. 
[2] Y.-N. Zhang, D.-J. Yu, S.-S. Li, Y.-X. Fan, Y. Huang, and H.-B. 
Shen, ―Predicting protein-ATP binding sites from primary 
sequence through fusing bi-profile sampling of multi-view 
features,‖ BMC Bioinformatics, vol. 13, no. 1, p. 118, Jan. 2012. 
[3] J. S. Chauhan, N. K. Mishra, and G. P. S. Raghava, 
―Identification of ATP binding residues of a protein from its 
primary sequence,‖ BMC Bioinformatics, vol. 10, p. 434, Jan. 
2009. 
[4] W. Wang, ―A Re-sampling Method for Class Imbalance 
Learning with Credit Data,‖ pp. 393–397, 2011. 
[5] H. He and E. A. Garcia, ―Learning from Imbalanced Data,‖ 
IEEE Trans. Knowl. Data Eng., vol. 21, no. 9, pp. 1263–1284, 
2009. 
[6] C.-Y. Yu, L.-C. Chou, and D. T.-H. Chang, ―Predicting protein-
protein interactions in unbalanced data using the primary 
Số 01 (CS.01) 2017 TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG 48
Bùi Dương Hưng, Vũ Văn Thỏa, Đặng Xuân Thọ 
structure of proteins,‖ BMC Bioinformatics, vol. 11, p. 167, Jan. 
2010. 
[7] X. T. Dang, O. Hirose, D. Hung Bui, T. Saethang, V. Anh Tran, 
L. Anh T. Nguyen, T. Kien T. Le, M. Kubo, Y. Yamada, and K. 
Satou, ―A Novel Over-Sampling Method and its Application to 
Cancer Classification from Gene Expression Data,‖ Chem-Bio 
Informatics J., vol. 13, pp. 19–29, 2013. 
[8] L. Chen, Z. Cai, and L. Chen, ―A Novel Differential Evolution-
Clustering Hybrid Resampling Algorithm on Imbalanced 
Datasets,‖ 2010 Third Int. Conf. Knowl. Discov. Data Min., pp. 
81–85, Jan. 2010. 
[9] C. Beyan and R. B. Fisher, ―Classifying Imbalanced Data Sets 
using Similarity Based Hierarchical Decomposition,‖ Pattern 
Recognit., vol. 48, no. 5, pp. 1653–1672, 2014. 
[10] N. V Chawla, K. W. Bowyer, and L. O. Hall, ―SMOTE  : 
Synthetic Minority Over-sampling Technique,‖ J. Artif. Intell. 
Res., vol. 16, pp. 321–357, 2002. 
[11] C. Bunkhumpornpat, K. Sinapiromsaran, and C. Lursinsap, 
―Safe-Level-SMOTE: Safe-Level-Synthetic Minority Over-
Sampling TEchnique,‖ Lect. Notes Comput. Sci., vol. 5476, pp. 
475–482, 2009. 
[12] Z. Sun, Q. Song, X. Zhu, H. Sun, B. Xu, and Y. Zhou, ―A novel 
ensemble method for classifying imbalanced data,‖ Pattern 
Recognit., vol. 48, no. 5, pp. 1623–1637, 2015. 
[13] Barua, ―MWMOTE—majority weighted minority oversampling 
technique for imbalaced data set learning,‖ pp. 1–30, 2012. 
[14] D. H. Tran, T. H. Pham, K. Satou, and T. B. Ho, ―Prediction of 
microRNA Hairpins using One-Class Support Vector 
Machines,‖ 2nd Int. Conf. Bioinforma. Biomed. Eng., pp. 33–
36, May 2008. 
[15] Y. Lin, Y. Lee, and G. Wahba, ―Support Vector Machines for 
Classification in Nonstandard Situations,‖ Mach. Learn., vol. 46, 
no. 1–3, pp. 191–202, 2000. 
[16] S. Vluymans, I. Triguero, C. Cornelis, and Y. Saeys, 
―EPRENNID: An evolutionary prototype reduction based 
ensemble for nearest neighbor classification of imbalanced 
data,‖ Neurocomputing, vol. 216, pp. 596–610, 2016. 
[17] R. Alejo, R. M. Valdovinos, V. García, and J. H. Pacheco-
Sanchez, ―A hybrid method to face class overlap and class 
imbalance on neural networks and multi-class scenarios,‖ 
Pattern Recognit. Lett., vol. 34, no. 4, pp. 380–388, 2013. 
[18] H. M. Nguyen, E. W. Cooper, and K. Kamei, ―Borderline Over-
sampling for Imbalanced Data Classification,‖ pp. 24–29, 2009. 
[19] H. Han, W. Wang, and B. Mao, ―Borderline-SMOTE: A New 
Over-Sampling Method in Imbalanced Data Sets Learning,‖ 
Lect. Notes Comput. Sci., vol. 3644, pp. 878–887, 2005. 
[20] A. Frank and A. Asuncion, ―UCI Machine Learning 
Repository,‖ [http//archive.ics.uci.edu/ml]. Irvine, CA Univ. 
California, Sch. Inf. Comput. Sci., 2010. 
[21] Y. Sun, A. K. C. Wong, and M. S. Kamel, ―Classification of 
Imbalanced Data: A Review,‖ Int. J. Pattern Recognit., vol. 23, 
no. 4, pp. 687–719, 2009. 
[22] L. Li, J. Xu, D. Yang, X. Tan, and H. Wang, ―Computational 
approaches for microRNA studies: a review.,‖ Mamm. Genome, 
vol. 21, no. 1–2, pp. 1–12, Feb. 2010. 
[23] S. Oh, M. S. Lee, and B. Zhang, ―Ensemble Learning with 
Active Example Selection for Imbalanced Biomedical Data 
Classification,‖ vol. 8, no. 2, pp. 316–325, 2011. 
[24] W. Klement, S. Wilk, W. Michalowski, and S. Matwin, 
―Classifying Severely Imbalanced Data,‖ pp. 258–264, 2011. 
[25] J. Tian, H. Gu, and W. Liu, ―Imbalanced classification using 
support vector machine ensemble,‖ Neural Comput. Appl., vol. 
20, no. 2, pp. 203–209, Mar. 2010. 
[26] A. Karatzoglou and A. Smola, ―kernlab – An S4 Package for 
Kernel Methods in R,‖ J. Stat. Softw., vol. 11, no. 9, 2004. 
[27] J. Winter, ―Using the Student ’ s t -test with extremely small 
sample sizes,‖ Pr. Assessment, Res. Evalutaion, vol. 18, no. 10, 
pp. 1–12, 2013. 
RANDOM BORDER-OVERSAMPLING: A 
NOVEL METHOD IN IMBALANCED DATA SETS 
LEARNING 
Abstract: Classification of imbalance data is an important 
problem that arises in most areas, especially in biomedical 
diagnoses. Currently, there are many researches try to solve 
this problem, in which, preprocessing method such as Random 
Over-Sampling (ROS) is a popular method and gives high 
performance. However, in some cases, ROS does not achieve 
the expected results or reduces the efficiency of the 
classification. Thus, this paper focuses on the improvement of 
the ROS algorithm, and thereby proposing a new Random 
Border-Over-Sampling (RBOS) algorithm by selecting 
significant minority samples on the borderline. Experimental 
results on six imbalanced data sets from UCI international data 
source (breast-p, blood, pima, haberman, glass, and coil2000) 
have shown that our proposed algorithm is effective and better 
than the previous method. 
Bùi Dương Hưng, Nhận học 
vị Thạc sỹ năm 2000. Hiện 
công tác tại Trường Đại học 
Công đoàn, nghiên cứu sinh 
khoá 2015, Học viện Công 
nghệ Bưu chính Viễn thông. 
Lĩnh vực nghiên cứu: Khai phá 
dữ liệu, học máy. 
Vũ Văn Thỏa, Nhận học vị 
Tiến sỹ năm 1990. Hiện công 
tác tại: Khoa Quốc tế và Đào 
tạo sau Đại học, Học viện Công 
nghệ Bưu chính Viễn thông. 
Lĩnh vực nghiên cứu: Lý thuyết 
thuật toán, tối ưu hoá, hệ thông 
tin địa lý, mạng viễn thông. 
Đặng Xuân Thọ, Nhận học vị 
Tiến sỹ năm 2013. Hiện công 
tác tại Khoa Công nghệ thông 
tin, Trường Đại học Sư phạm 
Hà Nội. Lĩnh vực nghiên cứu: 
Tin sinh học, khai phá dữ liệu, 
học máy. 
Số 01 (CS.01) 2017 TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG 49

File đính kèm:

  • pdfrandom_border_over_sampling_thuat_toan_moi_sinh_them_phan_tu.pdf