Thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam

TÓM TẮT

Về phương diện lý luận và từ kinh nghiệm thực tiễn của các nước trên thế giới, có thể khẳng

định rằng, trong số các kênh tạo vốn trong nước, thị trường chứng khoán (TTCK) là một trong những

kênh có vị trí quan trọng nhất. Tuy nhiên, TTCK là một định chế tài chính trực tiếp, có cơ chế vận hành

rất phức tạp và có mức độ ảnh hưởng rất sâu rộng, tới hầu hết các lĩnh vực hoạt động khác của nền

kinh tế xã hội. Do vậy, con đường phát triển TTCK phải trên nguyên tắc hội nhập nhưng thận trọng,

cân nhắc kỹ lưỡng điều kiện trong nước và hoàn cảnh quốc tế để có biện pháp phù hợp.

Một trong những vấn đề mang tính nguyên tắc, pháp lý, thu hút sự quan tâm đặc biệt của

các nhà đầu tư đối với một TTCK nào đó, chính là quyền hạn tham gia đầu tư chứng khoán của các

nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK đó. Nội dung của bài viết tập trung vào viêc bàn về những lợi ích

và bất lợi của việc tăng dòng vốn ngoại vào TTCK, kinh nghiệm thực tiễn của một số quốc gia và sự

cần thiết của việc thu hút dòng vốn ngoại trên TTCK Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở lý luận và thực

tiễn, bài viết cũng đề xuất một số giải pháp trước mắt và lâu dài cho vấn đề này.

pdf 6 trang yennguyen 7520
Bạn đang xem tài liệu "Thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam
1Thu hút vốn đầu tư . . .
Kinh tế - Kỹ thuật
THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRÊN THỊ TRƯỜNG 
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
 Lê Thị Tuyết Hoa*
TÓM TẮT
Về phương diện lý luận và từ kinh nghiệm thực tiễn của các nước trên thế giới, có thể khẳng 
định rằng, trong số các kênh tạo vốn trong nước, thị trường chứng khoán (TTCK) là một trong những 
kênh có vị trí quan trọng nhất. Tuy nhiên, TTCK là một định chế tài chính trực tiếp, có cơ chế vận hành 
rất phức tạp và có mức độ ảnh hưởng rất sâu rộng, tới hầu hết các lĩnh vực hoạt động khác của nền 
kinh tế xã hội. Do vậy, con đường phát triển TTCK phải trên nguyên tắc hội nhập nhưng thận trọng, 
cân nhắc kỹ lưỡng điều kiện trong nước và hoàn cảnh quốc tế để có biện pháp phù hợp.
Một trong những vấn đề mang tính nguyên tắc, pháp lý, thu hút sự quan tâm đặc biệt của 
các nhà đầu tư đối với một TTCK nào đó, chính là quyền hạn tham gia đầu tư chứng khoán của các 
nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK đó. Nội dung của bài viết tập trung vào viêc bàn về những lợi ích 
và bất lợi của việc tăng dòng vốn ngoại vào TTCK, kinh nghiệm thực tiễn của một số quốc gia và sự 
cần thiết của việc thu hút dòng vốn ngoại trên TTCK Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở lý luận và thực 
tiễn, bài viết cũng đề xuất một số giải pháp trước mắt và lâu dài cho vấn đề này.
Từ khóa: thị trường chứng khoán, vốn đầu tư nước ngoài trong giao dịch chứng khoán 
ATTRACTING INVESTMENT CAPITAL IN VIETNAM STOCK MAKET
ABSTRACT
In theory and based on the pratical experiences from all of the world, we can affirm that, 
among the national capital channels, the Stock Exchange (SEs) is one of the most important channels. 
However, the SE is the direct financial institution which has the complex operating mechanism and 
indepth influence level toward all the fields of socio-economic operations. So, the road of developing 
SE should be based on the integration principles, but we must be careful with weghing-up the national 
conditions and international environments in order to have the appropriate solutions.
One of the problems with the principle and legal characteristics atttracting the special 
considerations of the investors with respect to a Stock Exchange is mainly the authority of participating 
in the SE investment of the foreign investors into that SE. The reseach focuses on the advantages and 
disadvantages of increasing foreign capital flow into SE; pratical exeriences from some countries; 
and the needs of attracting foreign capital into Vietnam SE at the present time. Based on the theory 
and practices, the research also proposes some present and long- run solutions to this problem. 
Keywords: the Stock market, foreign capital flow into Stock Exchange
* PGS.TS. Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh
2Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
1. Một số quan điểm
Các nhà nghiên cứu soạn thảo chính sách, 
liên quan tới lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước 
ngoài trên thị trường chứng khoán, đã bàn luận 
nhiều về vấn đề này và có thể quy tụ thành hai 
loại quan điểm trái ngược nhau như sau:
● Loại quan điểm thứ nhất 
Cho dù nguồn vốn nước ngoài là hết sức 
cần thiết cho sự phát triển kinh tế quốc gia. 
Nhưng trong điều kiện TTCK mới hình thành 
và phát triển, không thể mở rộng cho người 
nước ngoài tham gia đầu tư vào TTCK trong 
nước. Bởi vì:
- Nhà đầu tư nước ngoài thường có tiềm 
lực về vốn mạnh, có sự hiểu biết và kinh 
nghiệm hoạt động trên TTCK. Do vậy khả 
năng dẫn dắt thị trường, kiểm soát hệ thống 
tài chính là rất có thể nếu họ nắm giữ một tỷ 
trọng cổ phiếu đáng kể; 
- Kinh nghiệm của các nước cho thấy, 
mức độ quốc tế hóa thị trường càng cao, thì 
bên cạnh những mặt tích cực cũng có những 
mặt tiêu cực khôn lường. Mối quan hệ kinh tế 
qua lại giữa TTCK các nước đã dẫn tới việc 
chuyển những rủi ro kinh tế từ nước này sang 
nước khác, trong đó các nước càng chậm phát 
triển càng gánh chịu rủi ro nhiều hơn;
- Nguồn vồn nước ngoài trên TTCK có 
thể làm hỗn loạn thị trường trong trường hợp 
nhà đầu tư nước ngoài bán tháo cổ phiếu và ồ 
ạt rút vốn khỏi thị trường (như đã từng xảy ra 
trong thời gian khủng hoảng tài chính châu Á 
năm 1997). 
● Loại quan điểm thứ hai 
Sự tham gia của các nhà đầu tư nước 
ngoài trên TTCK là vô cùng quan trọng, 
đối với sự phát triển của nền kinh tế và thị 
trường vốn trong nước, đặc biệt là đối với 
các quốc gia chậm phát triển và đang thiếu 
vốn. Do đó cần mạnh dạn cho phép các chủ 
thể nước ngoài được tự do đầu tư vốn vào 
TTCK trong nước. Chính điều này sẽ đem lại 
một số lợi ích sau:
- Cho phép thực hiện được mục tiêu tăng 
nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài
- Học tập được kinh nghiệm và khoa học 
kỹ thuật tiên tiến của các nước trong lĩnh vực 
thị trường chứng khoán
- Mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế 
trên các lĩnh vực. 
2. Kinh nghiệm thực tiễn
Quá trình hình thành và phát triển của 
TTCK một số nước trên thế giới cho thấy, quy 
định về sự tham gia của các nhà đầu tư nước 
ngoài trên TTCK ở mỗi nước và mỗi thời kỳ 
khác nhau. Nhưng đại đa số các nước khi mới 
thành lập TTCK, đều hạn chế khả năng tham 
gia của các nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK. 
Thị trường chứng khoán Hàn Quốc, thành 
lập năm 1956, sau 36 năm mới chính thức mở 
cửa thị trường cổ phiếu cho người nước ngoài 
với giới hạn 10% trên tổng số cổ phần của 
một công ty. 
Thị trường chứng khoán Indonesia bắt đầu 
được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 
1912. Nhưng cho đến tháng 10/1988 (nghĩa 
là sau 76 năm), chính phủ mới thông qua quy 
chế cho phép tổ chức nước ngoài tham gia 
vào hoạt động của TTCK, nhưng hạn chế nhà 
đầu tư nước ngoài chỉ được sở hữu tối đa 49% 
trong một công ty.
Thị trường chứng khoán Philippines 
cũng chỉ cho phép người nước ngoài được 
quyền nắm giữ 49% vốn cổ phần của một 
công ty địa phương. Nhưng không phải tất cả 
các ngành, mà có một số ngành công nghiệp 
cụ thể không cho phép người nước ngoài 
3Thu hút vốn đầu tư . . .
được đầu tư. Ngoài ra, việc hạn chế nhà đầu 
tư nước ngoài còn được thực hiện bằng cách 
phát hành hai loại chứng khoán A và B hoặc 
bằng việc khước từ đăng ký chuyển nhượng. 
Bên cạnh đó, còn có một loại cổ phiếu dành 
riêng cho các quỹ đầu tư nước ngoài mà 
người nắm giữ có thể thu lợi nhuận nhưng 
không được quyền bỏ phiếu.
Tuy nhiên, cũng có một số quốc gia, ngay 
khi TTCK mới thành lập, đã mạnh dạn cho 
phép các nhà đầu tư nước ngoài được tư do 
tham gia hoạt động trên thị trường này, chẳng 
hạn như trường hợp TTCK ở Đức.
Ở Việt Nam, TTCK đã được chính thức 
thành lập và hoạt động từ cách đây gần 15 
năm, trong bối cảnh nền kinh tế các nước 
đang phát triển theo hướng mở cửa, hướng 
ngoại; cùng với xu thế mạnh mẽ của toàn 
cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó 
việc thực hiện cơ chế thị trường đóng, nghĩa 
là một thị trường không có sự tham gia của 
nhà đầu tư nước ngoài là điều không thể. 
Nhưng cũng chưa thể phù hợp nếu thực hiện 
ngay một TTCK hoàn toàn mở cửa và hướng 
ngoại. Do đó trong giai đoạn đầu, khi TTCK 
Việt Nam mới thành lập (7/2000), Việt Nam 
đã chọn con đường trung gian - nghĩa là vẫn 
cho phép sự tham gia của các nhà đầu tư 
nước ngoài trên TTCK, nhưng có sự khống 
chế giới hạn tham gia thông qua các quy định 
của pháp luật- theo quy định, khi mới thành 
lập là 30% và hiện nay là 49%. 
Mặc dù có những quy định hạn chế, 
nhưng trong thời gian qua, sự tham gia của 
nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam 
đã và đang có những đóng góp to lớn cho sự 
phát triển của TTCK. Bên cạnh sự đóng góp 
nguồn lực tài chính dưới hình thức ngoại tệ, 
chính sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài, 
với kiến thức, kinh nghiệm và tiềm lực về vốn 
đã kéo theo sự quan tâm của các nhà đầu tư 
trong nước, từ đó làm cho TTCK càng phát 
triển mạnh hơn. Ngay từ cuối năm 2005 và 
đầu năm 2006, với sự tăng mạnh các giao dịch 
của chủ thể nước ngoài trên TTCK, đã góp 
phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng cả về khối 
lượng giao dịch và quy mô niêm yết, tạo đà 
cho VN-Index tăng mạnh. 
3. Sự cần thiết mở rộng đầu tư nước 
ngoài trên thị trường chứng khoán Việt 
Nam trong giai đoạn hiện nay
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã có 
thời gian hình thành và phát triển gần 15 
năm. Tuy thời gian không phải là dài so với 
lịch sử, nhưng cũng đủ để khẳng định sự cần 
thiết và quan trọng của TTCK- kênh đầu tư 
và huy động vốn hữu hiệu cho nền kinh tế. 
Thông qua TTCK, Chính phủ đã huy động 
được 1.200.000 tỷ đồng vốn bằng trái phiếu 
chính phủ, các doanh nghiệp và các thành 
phần kinh tế khác huy động được 800.000 
tỷ đồng vốn bằng cổ phiếu và chứng chỉ quỹ 
qua thị trường này. “Với quy mô vốn hóa 
31 đến 32% GDP, TTCK Việt Nam không 
thể nói là còn nhỏ, mà đã định hình là một 
kênh huy động vốn trong nền kinh tế”(3). 
Đã đến lúc Việt Nam cần mạnh dạn mở rộng 
hoạt động đầu tư của chủ thể nước ngoài 
trên TTCK, xuất phát từ những cơ sở thực 
tiễn sau:
Thứ nhất, Điều kiện kinh tế thuận lợi
Điều mà các nhà đầu tư nước ngoài quan 
tâm nhiều nhất khi đầu tư trên TTCK Việt nam 
đó là sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh 
tế. Cho đến nay, Việt Nam đã vượt qua giai 
đoạn kém phát triển để vươn lên tầm quốc gia 
có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Năm 2014, 
các chỉ số kinh tế vĩ mô đã có những chuyển 
biến tích cực. 
4Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Hình 1: Tình hình chỉ số giá cả hàng hóa tiêu dùng và giá bán lẻ xăng dầu
Nguồn; SSI (1)
Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2015 chính phủ Việt Nam đặt ra là 6,2% , ổn định chỉ số giá 
cả hàng hóa tiêu dùng (CPI) ở mức thấp hơn 5% và ổn định Việt Nam đồng (VND) đặt mục tiêu 
2% cho sự trượt giá của VND. Theo Ủy ban Kinh tế-Xã hội khu vực châu Á-Thái Bình Dương 
(ESCAP) của Liên Hợp Quốc đánh giá, năm 2015 và năm 2016, tăng trưởng kinh tế của Việt 
Nam dự báo sẽ tăng vào khoảng 6,1 đến 6,2% (2).
Đánh giá chung về triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam, ESCAP cho rằng, kinh tế sẽ tiếp 
tục tăng trưởng, hòa nhập tốt vào bối cảnh toàn cầu, lạm phát sẽ giảm do giá dầu thế giới thấp. 
Đây là cơ hội tốt để Việt Nam có thể thu hút nguồn vốn nước ngoài đầu tư trên TTCK Việt Nam.
Bảng 1: Một số chỉ tiêu tiền tệ tín dụng của hệ thống tài chính Việt Nam
 Đơn vị tính: % GPD
 Nguồn: vietbao.vn (3)
Chỉ tiêu 2010 2011 2012 2013 2014
M2 114,85 99,8 106,45 117,03 -
Tín dụng 124,66 110,22 104,91 108,23 100
Chứng khoán 39 27,3 26 31 32,23
Thứ hai, Yêu cầu phát triển nguồn vốn cho nền kinh tế từ TTCK
Không thể phủ nhận sự phát triển của TTCK Việt Nam trong thời gian qua, đã góp phần 
quan trọng trong việc cung ứng khối lượng vốn đầu tư rất lớn cho sự phát triển kinh tế Việt 
Nam. Tuy nhiên, nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế từ TTCK vẫn còn chiếm một tỷ trọng khá 
khiêm tốn, so với nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển . Thực tế cho thấy, đến nay nguồn cung ứng 
vốn cho nền kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc rất lớn (gần 70%) vào nguồn vốn từ hệ thống các 
định chế tài chính trung gian.
Với mục tiêu phát triển cân bằng, lành mành và toàn diện thị trường tài chính bao gồm cả 
thị trường vốn và thị trường tiền tệ, đòi hỏi phải chú trọng hơn nữa đối với các dòng vốn chảy 
vào TTCK. Đánh giá về vấn đề này, Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia cũng cho rằng, để 
5Thu hút vốn đầu tư . . .
TTCK phát triển bền vững cần có sự tham gia 
tích cực của cả dòng tiền ngoại và dòng tiền 
trong nước.
Thứ ba, góp phần thúc đẩy nhanh tiến 
trình cổ phần hóa doanh nghiệp
Theo kế hoạch cổ phần hóa doanh nghiệp 
nhà nước đã được Chính phủ phê duyệt, trong 
giai đoạn 2014 – 2015, Việt Nam sẽ thực hiện 
cổ phần hóa 432 doanh nghiệp. Trong năm 
2014 vừa qua, chúng ta đã thực hiện cổ phần 
hóa được 143 doanh nghiệp. 
Như vậy, phần nhiệm vụ kế hoạch còn lại 
phải hoàn thành trong năm 2015 là 289 doanh 
nghiệp. Đây là chỉ tiêu nhiệm vụ vô cùng 
nặng nề, khó có khả năng hoàn thành, bởi lẽ 
tính đến hết quý I/2015, cũng mới chỉ có 29 
doanh nghiệp được phê duyệt phương án cổ 
phần hóa, tương đương với 10% kế hoạch cả 
năm được thực hiện. Với một phần tư quỹ 
thời gian đã trôi qua, song chỉ tiêu kế hoạch 
mới chỉ thực hiện được 10%; lại thêm những 
khó khăn mới xuất phát từ nguồn vốn trên thị 
trường hạn chế. Đây quả là một thách thức 
không nhỏ, trong việc thực hiện nhiệm vụ kế 
hoạch cổ phần hóa năm 2015. 
Có thể thấy, kế hoạch cổ phần hóa trong 
năm nay sẽ được hoàn thành đến mức độ nào, 
phụ thuôc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố 
quan trọng mang tính quyết, chí là khả năng 
hấp thụ của TTCK. Vì vậy, sự tham gia tích 
cực của dòng vốn ngoại vào TTCK trong giai 
đoạn này là hết sức cần thiết và có ý nghĩa rất 
quan trọng.
Thứ tư, sự quan tâm của các nhà đầu tư 
nước ngoài 
Tính đến ngày 30/4/2015, Trung tâm Lưu 
ký Chứng khoán Việt Nam (VSD) đã cấp mã 
số giao dịch chứng khoán cho 17.776 nhà đầu 
tư nước ngoài, trong đó có 2.654 nhà đầu tư tổ 
chức và 15.122 nhà đầu tư cá nhân (4)
Điều đặc biệt là trong hơn 17 ngàn tài 
khoản nhà đầu tư nước ngoài, có tới 40% là 
của các nhà đầu tư Nhật Bản.Trong khi đó, 
nếu xét về quy mô, TTCK Việt nam nhỏ hơn 
rất nhiều so với TTCK Nhật Bản. Điều này 
cho thấy kỳ vọng của nhà đầu tư nước ngoài 
vào TTCK Việt Nam.
Tuy nhiên, dòng vốn ngoại chảy vào 
TTCK Việt Nam vẫn còn hạn chế. Một trong 
những nguyên nhân là do giới hạn tỷ lệ sở 
hữu đối với nhà đầu tư ngoại. Hiện nay có 
nhiều cổ phiếu được nhiều nhà đầu tư nước 
ngoài quan tâm nhưng đã hết room trong đó 
tập trung vào những doanh nghiệp lớn, đầu 
ngành, ví dụ như: Hàng tiêu dùng (VNM, 
EVE, KMR, PNJ, TCM, BBC, MWG), Dược 
(DHG, DMC, JVC), và một số cổ phiếu khác 
FPT, REE, CTD, BMP, VNS, GMD 
Đại đa số các nhà đầu tư nước ngoài đều 
mong muốn, Việt Nam nâng tỷ lệ trần sở hữu 
hoặc dỡ bỏ hoàn toàn mức trần 49% của khối 
ngoại. Nếu việc tăng room được thực hiện, có 
nghĩa là cơ hội để cho nhà đầu tư nước ngoài 
tham gia vào TTCK Việt Nam càng cao, từ đó 
thu hút thêm dòng vốn ngoại và tăng khả năng 
thanh khoản cho TTCK Việt Nam.
5. Một số đề xuất 
Với các phân tích về lý luận và thực tiễn 
trên cho thấy, trong thời gian tới, bên cạnh việc 
tiếp tục duy trì và đẩy mạnh khai thác nguồn 
vốn từ các nhà đầu tư trong nước, cần nghiên 
cứu áp dụng những chính sách, biện pháp phù 
hợp, để gia tăng việc thu hút dòng vốn đầu tư 
nước ngoài qua kênh TTCK Việt Nam. 
Tác giả có một số suy nghĩ đề xuất với các 
nhà nghiên cứu, các chuyên gia hoạch định 
chính sách về lĩnh vực TTCK như sau:
Thứ nhất, trước mắt cần tiến hành xem xét 
và phân loại doanh nghiệp để thực hiên nâng 
tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại 
6Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
doanh nghiệp Việt Nam. Có thể tăng từ 49% 
lên khoảng từ 55% đến 70% theo từng mức 
độ cho từng loại hình doanh nghiệp, tùy theo 
từng lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh 
không thuộc lĩnh vực cấm kinh doanh và Nhà 
nước không cần nắm cổ phần chi phối; 
Thứ hai, trong dài hạn, tiến dần đến việc 
tự do hóa đối với các nhà đầu tư nước ngoài 
trên TTCK Việt Nam trong lĩnh vực ngành 
nghề không thuộc lĩnh vực cấm kinh doanh 
và Nhà nước không cần nắm cổ phần chi phối. 
Tuy nhiên, vấn đề này cần thực hiện các bước 
đi thận trọng và có lộ trình để đề phòng những 
rủi ro có thể;
Thứ ba, Bên cạnh loại cổ phiếu thường 
của doanh nghiệp, cho phép các doanh nghiệp 
phát hành loại cổ phiếu không có quyền biểu 
quyết, tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vốn đầu 
tư cho doanh nghiệp (nhưng không bị chia xẻ 
quyền tham gia quản lý); đồng thời đáp ứng 
nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài;
Thứ tư, thực tiễn cho thấy, các loại cổ 
phiếu mà nhà đầu tư nước ngoài quan tâm 
nhiều đều là loại cổ phiếu tốt và luôn trong 
tình trạng hết room trong các phiên giao dịch 
. Vì vậy nghiên cứu để áp dụng biện pháp nới 
room cho các nhà đầu tư nước ngoài là vấn đề 
quan trọng đối với việc gia tăng thu hút dòng 
vốn đầu tư nước ngoài trên TTCK. 
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng và có tính 
dài hạn hơn, đó là việc nghiên cứu để tìm giải 
pháp nâng cao chất lượng của các cổ phiếu 
niêm yết trên TTCK Việt Nam, thông qua tái 
cấu trúc và nâng cao năng lực hoạt động của 
các doanh nghiệp niêm yết. Có như vậy mới 
mở rộng được đối tượng cổ phiếu chất lượng 
tốt mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm;
Thứ năm, để khuyến khích các nhà đầu tư 
nước ngoài tham gia vào TTCK Việt Nam, vấn 
đề nâng tỷ lệ sở hữu cổ phiếu của nhà đầu tư 
nước ngoài tại các ngân hàng thương mại cổ 
phần niêm yết cũng cần được xem xét lại cho 
phù hợp với thực trạng quá trình tái cấu trúc hệ 
thống ngân hàng hiện nay. Tuy nhiên, do tính 
chất đặc biệt của ngành ngân hàng, do đó việc 
mở room cần hết sức thận trọng với các bước 
đi không vội vã. Trước mắt có thể nâng tỷ lệ sở 
hữu của nhà đầu tư nước ngoài từ 30% lên 35%;
Tóm lại, đẩy mạnh thu hút nhà đầu tư 
nước ngoài tham gia vào TTCK trước mắt 
cũng như lâu dài là một định hướng đúng. 
Nó mang lại những lợi ích thiết thực cho sự 
phát triển của thị trường tài chính, cũng như 
nền kinh tế Việt Nam nói chung. Tuy nhiên 
bên cạnh mặt tích cực của TTCK cũng có thể 
phát sinh những tiêu cực, rủi ro. Do đó rất cần 
những bước đi thận trọng và sự chuẩn bị kỹ 
các yêu cầu về pháp lý trong quá trình triển 
khai thực hiện định hướng này./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
(1) Kinh tế Việt Nam năm 2015 vươn tầm cao mới 
(
(2) Kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhẹ 
(
(3) Thiếu chính sách thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển
(Tin nhanh Việt Nam ra thế giới vietbao.vn )
(4) Nhà đầu tư ngoại sẽ dễ dàng tham gia chứng khoán Việt hơn 
(
gia-chung-khoan-viet-hon-19874.aspx)
(5) Neil F Stapley (1994) The stock market
(6) Nasser Arshadi & Gordon V.Karels (1997) Modern Financial Intermediaries and Markets

File đính kèm:

  • pdfthu_hut_von_dau_tu_nuoc_ngoai_tren_thi_truong_chung_khoan_vi.pdf