Thực trạng hành vi sức khỏe và nguy cơ trầm cảm của sinh viên năm thứ hai Đại học Thương mại

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Học tập ở đại học là cơ hội tốt để sinh

viên học tập và trải nghiệm bản thân. Tuy nhiên, sự

thay đổi môi trường sống, môi trường học tập, sinh

viên thường đối mặt với hành vi sức khỏe có hại, cũng

như nguy cơ về trầm cảm và stress. Mục tiêu: (1) Mô

tả thực trạng hành vi sức khỏe của sinh viên năm thứ

hai Trường Đại học Thương Mại. (2) Đánh giá nguy cơ

trầm cảm của nhóm sinh viên trên. Đối tượng và

phương pháp: Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt

ngang, sử dụng bộ câu hỏi tự điền (bộ câu hỏi liên

quan tới hành vi sức khỏe được phát triển và thang đo

nguy cơ trầm cảm CESD) được tiến hành trên 400 sinh

viên năm thứ 2, được lựa chọn ngẫu nhiên. Kết quả:

Tỷ lệ sinh viên uống rượu 48,8%, hút thuốc lá 8,8%, sử

dụng chất gây nghiện 3,2%, tỷ lệ sinh viên có nguy cơ

trầm cảm là 49,5%, một số yếu tố liên quan tới stress ở

sinh viên là bắt đầu khóa học đại học 85,5%, nhiều

trách nhiệm mới 84,8%,.Kết luận: Sinh viên đang gặp

rất nhiều vấn đề liên quan tới hành vi sức khỏe, stress

và nguy cơ trầm cảm trong những năm đầu tiên của

thời gian học đại học, do đó cần phải có sự quan tâm

đúng mức tới sức khỏe của sinh viên

pdf 5 trang yennguyen 3680
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng hành vi sức khỏe và nguy cơ trầm cảm của sinh viên năm thứ hai Đại học Thương mại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng hành vi sức khỏe và nguy cơ trầm cảm của sinh viên năm thứ hai Đại học Thương mại

Thực trạng hành vi sức khỏe và nguy cơ trầm cảm của sinh viên năm thứ hai Đại học Thương mại
Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 
101
Tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật là 6%, trong đó 
chủ yếu là biến chứng nhiễm trùng (3,2%). 
Trong số 163 bệnh nhân liên lạc được có 25 
trường hợp có tái phát sau điều trị (15,3%). 
Vị trí hay tái phát là vùng da quanh mắt (28%), rãnh 
mũi má (20%), mũi (16%). 
Thời gian tái phát sau điều trị được ghi nhận nhiều 
nhất là sau 24 tháng (48%). 
Khối u kích thước lớn (> 5cm) có tỷ lệ tái phát cao 
(71,4%), khối u kích thước nhỏ (≤ 2cm) có tỷ lệ tái phát 
thấp (9,5%). 
Giai đoạn III có tỷ lệ tái phát cao nhất (46,4%) và 
giảm dần đến giai đoạn I chỉ còn 5,3%. 
Tỷ lệ tái phát của các thể lâm sàng là không khác 
nhau. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ môn phẫu thuật tạo hình Trường Đại học Y Hà 
Nội (2004). Các u ác tính của da. Phẫu thuật tạo hình, 
nhà xuất bản Y học, 116 – 120. 
2. Trần Văn Thiệp, Phan Triệu Cung, Võ Duy Phi Vũ, 
Đỗ Tường Huân (2005). Vạt đảo có cuống dưới da trong 
phẫu trị ung thư da vùng đầu cổ. Chuyên đề Ung thư 
học, Hội thảo phòng chống ung thư TP Hồ Chí Minh, 
175 – 183. 
3. Wilson de Oliveira and all (2003). Dermatology 
Online Journal. Volume 9, number 5; 
www.dermatology.cidlib.org/basal/ribeiro.html 
4. Jeffey L. Melton, M.D., Atlast of Dermatology. 
www.meddean.luc.edu. 
5. Trần Thanh Cường, Võ Đăng Hùng, Bùi Xuân 
Trường, Trần Chí Tiến (2005). Sử dụng vạt tại chỗ trong 
điều trị ung thư da vùng đầu cổ. Chuyên đề ung thư học, 
hội thảo phòng chống ung thư Tp Hồ Chí Minh, 163 – 
170. 
6. Bùi Xuân Trường, Trần Văn Thiệp, Phó Đức Mẫn 
(1999). Chẩn đoán và phẫu thuật ung thư da vùng đầu cổ. 
Tạp chí Thông tin Y dược, số đặc biệt chuyên đề ung thư, 
122 – 128. 
7. Đỗ Thu Hằng (2004). Nghiên cứu đặc điểm lâm 
sàng, mô bệnh học và kết quả điều trị ung thư biểu mô da 
tại bệnh viện K từ 1999 - 2004. Luận văn thạc sỹ y học. 
8. UICC (1997):TNM Atlast, 187 – 190. 
9. Rhodes A.R. (1995). Public Education and Cancer 
of the skin. Cancer supplement: 613 – 630. 
10. Nguyễn Bá Đức (2007), “Các nguyên tắc xạ trị 
trong ung thư”, Chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư, Nhà 
xuất bản Y học, tr 31-38. 
THỰC TRẠNG HÀNH VI SỨC KHỎE VÀ NGUY CƠ TRẦM CẢM 
CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ HAI ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI 
NGUYỄN THỊ HƯỞNG - Trường Đại học Thăng Long 
NGUYỄN HỮU HIẾU, TRẦN THỊ THANH HƯƠNG 
Trường Đại học Y Hà Nội 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Học tập ở đại học là cơ hội tốt để sinh 
viên học tập và trải nghiệm bản thân. Tuy nhiên, sự 
thay đổi môi trường sống, môi trường học tập, sinh 
viên thường đối mặt với hành vi sức khỏe có hại, cũng 
như nguy cơ về trầm cảm và stress. Mục tiêu: (1) Mô 
tả thực trạng hành vi sức khỏe của sinh viên năm thứ 
hai Trường Đại học Thương Mại. (2) Đánh giá nguy cơ 
trầm cảm của nhóm sinh viên trên. Đối tượng và 
phương pháp: Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt 
ngang, sử dụng bộ câu hỏi tự điền (bộ câu hỏi liên 
quan tới hành vi sức khỏe được phát triển và thang đo 
nguy cơ trầm cảm CESD) được tiến hành trên 400 sinh 
viên năm thứ 2, được lựa chọn ngẫu nhiên. Kết quả: 
Tỷ lệ sinh viên uống rượu 48,8%, hút thuốc lá 8,8%, sử 
dụng chất gây nghiện 3,2%, tỷ lệ sinh viên có nguy cơ 
trầm cảm là 49,5%, một số yếu tố liên quan tới stress ở 
sinh viên là bắt đầu khóa học đại học 85,5%, nhiều 
trách nhiệm mới 84,8%,...Kết luận: Sinh viên đang gặp 
rất nhiều vấn đề liên quan tới hành vi sức khỏe, stress 
và nguy cơ trầm cảm trong những năm đầu tiên của 
thời gian học đại học, do đó cần phải có sự quan tâm 
đúng mức tới sức khỏe của sinh viên. 
Từ khóa: Hành vi sức khỏe, nguy cơ trầm cảm, 
CESD, sinh viên năm thứ 2. 
SUMMARY 
HEALTH BEHAVIORS AND RISK OF 
DEPRESSION FROM SECOND YEAR STUDENT OF 
NATIONAL TRADE UNIVERSITY 
Background: Studying in college is a great 
opportunity for students to learn and create experience 
themselves. However, the changing of living 
environment and learning environment, students is 
often faced with adverse health behaviors, as well as 
risks of depression. The Trade University has more 
than 14,000 students are studying but study on health 
behavior of students were limited. 
Objectives: (1) To investigate health behaviors of 
second year student at the National Trade University; 
(2) To evaluate risk of depression in above students 
Methods: Cross-sectional study was applied in 400 
second year students by self-filled questionnaire and 
applied CESD for identifying risk of depression. 
Results: The health behaviors of student were as 
following: drinking rate was 48.8%, 8.8% smoking, 
drug use by 3.2%; the percentage of students at risk of 
depression was 49.5%. 
Conclusions: Students having a lot of health 
problems during the time studying in college, so it 
should have the relevant attention to the health of 
students. 
Keywords: Health behaviors, risk of depression, 
CESD, 2nd students. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Với sinh viên (SV), thời gian ngồi trên ghế giảng 
đường đại học là quãng thời gian vô cùng quan trọng 
trong quá trình lâu dài tích lũy kiến thức, kinh nghiệm 
và phương pháp tư duy cũng như là cơ hội tốt để sinh 
viên được trải nghiệm bản thân. Tuy nhiên, theo quy 
luật phát triển tâm lý của lứa tuổi này, SV lại đối mặt 
với nhiều hành vi không có lợi cho sức khỏe như uống 
rượu, hút thuốc, hành vi tình dục không an toànĐây 
cũng chính là thời gian mà nhiều SV có sự thay đổi 
môi trường sống, bắt đầu một cuộc sống tự lập, thay 
 Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 
102
đổi môi trường học tập với cách thức học tập khác hẳn 
so với thời gian học phổ thông. Vì vậy, nhiều SV không 
thể đương đầu với những khó khăn, thử thách và do 
vậy dễ có các nguy cơ lâm vào chứng trầm cảm. 
Theo điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh 
niên Việt Nam lần thứ II (SAVY 2), tỷ lệ thanh thiếu 
niên nói chung, SV nói riêng sử dụng rượu bia, hút 
thuốc ngày càng nhiều hơn, có một tỷ lệ không nhỏ 
trong số họ còn có lúc có cảm giác tự ti (29,9%), có 
cảm giác thất vọng, chán chường về tương lai (14,3%) 
[1]. Theo nghiên cứu của Phạm Thị Huyền Trang, có 
tới 63,6% SV bị stress, các yếu tố ảnh hưởng liên 
quan tới stress như vấn đề về học tập trên 75%, căng 
thẳng, lo lắng (81%), mệt mỏi, chán ăn khoảng 50 - 
70%. Kết quả từ một nghiên cứu tại một trường đại 
học tại Đức cho thấy có khoảng 22,1% SV có hút 
thuốc lá, 32,5% SV uống rượu vài lần một tuần, 10% 
có sử dụng các thuốc gây nghiện (cần sa, cocain, 
amphetamines,) trong 3 tháng gần đây [2]. Theo 
nghiên cứu của Hiệp hội Y khoa Mỹ năm 2010, 
khoảng 18.800.000 người Mỹ trưởng thành, chiếm 
khoảng 9,5% độ tuổi dân số Hoa Kỳ từ 18 tuổi trở lên 
bị rối loạn trầm cảm trong một năm trong đó tỷ lệ gặp ở 
phụ nữ cao gấp 2 lần so với nam giới [3]. 
Trường Đại học Thương Mại hiện với hơn 14.000 
SV chính qui đang theo học, những cử nhân kinh tế 
tương lai. Hiện tại chưa có nghiên cứu nào liên quan 
đến sức khỏe của SV trong trường. Với mục đích tìm 
hiểu cụ thể các hành vi liên quan đến sức khỏe, vấn 
đề trầm cảm và stress của SV, phân tích những cảm 
nhận trải nghiệm từ đó đưa ra một số một số biện 
pháp để nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ và điều 
chỉnh hành vi của SV, chúng tôi tiến hành đề tài này 
với các mục tiêu như sau: 
Mô tả thực trạng hành vi sức khỏe của SV năm thứ 
hai Trường Đại học Thương Mại. 
Đánh giá nguy cơ trầm cảm của nhóm SV nói trên. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu: Sinh viên hiện đang 
học năm thứ 2 trường Đại học Thương Mại. 
Tiêu chuẩn lựa chọn: 
Hiện đang học năm thứ 2 hệ chính quy. 
Đồng ý tham gia vào nghiên cứu. 
Hiện không có vấn đề sức khỏe tâm thần hay một 
số tật như khiếm thị, tật nguyền cũng như không trong 
thời kỳ điều tra liên quan tới vấn đề pháp lý. 
Tiêu chuẩn loại trừ: 
Hiện đang học các năm thứ 1, 3, 4. 
Từ chối tham gia nghiên cứu. 
Hiện đang có vấn đề về sức khỏe tâm thần hoặc 
một số tật như khiếm thị, tật nguyền. 
Đang trong thời kỳ điều tra liên quan tới vấn đề 
pháp lý. 
2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 
Địa điểm nghiên cứu: Trường Đại học Thương 
Mại. 
Thời gian nghiên cứu: 1/2013 – 11/2013 
3. Cỡ mẫu và chọn mẫu 
Cỡ mẫu: Được tính từ công thức tính cỡ mẫu cho 
việc ước tính một tỷ lệ: 
n = Z2(1 - /2) 
p x 1 - p 
 2
Trong đó: 
n: Cỡ mẫu nghiên cứu. 
Z2(1 - /2): Hệ số tin cậy, với = 0,05 ta có Z = 1,96. 
p: Tỷ lệ SV có nguy cơ trầm cảm, p = 0,4. 
 : Sai lệch mong muốn, = 0,05. 
Từ đó ta tính được n 369, lấy tròn cỡ mẫu là 400 
SV. 
Chọn mẫu: Chọn ngẫu nhiên từ danh sách sinh 
viên năm thứ 2 của các lớp, phân bổ theo tỷ lệ nam/nữ 
là 1/4. 
4. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang, sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng. 
5. Công cụ thu thập thông tin: Sử dụng bộ câu 
hỏi được phát triển để đánh giá một số hành vi sức 
khỏe (uống rượu, hút thuốc, sinh hoạt tình dục, sử 
dụng mạng xã hội và game online), sử dụng thang 
đo CES-D đã được chuẩn hóa để đánh giá nguy cơ 
trầm cảm. 
6. Nhập và xử lý số liệu 
Nhập số liệu bằng phần mềm Epidata 3.1. 
Xử lý bằng phần mềm STATA v12.0. 
Thang đo CES-D là thang đo đã được chuẩn hóa, 
gồm 20 câu, đánh giá các triệu chứng thường gặp 
trong 1 tuần vừa qua. Mỗi câu hỏi được đánh giá trên 
thang điểm 4, với các mức độ như sau: 
0: không bao giờ gặp hoặc hiếm khi, < 1 ngày. 
1: xuất hiện một vài khi hoặc từ 1 – 2 ngày. 
2: thỉnh thoảng gặp, đôi khi hoặc trung bình từ 3 – 
4 ngày. 
3: rất hay xảy ra hoặc hầu hết thời gian, trong hoặc 
hơn 7 ngày. 
Sau đó tính tổng điểm của các câu hỏi, kết quả 
tổng điểm được phân tích theo 2 mức độ: 
< 22 điểm: Không có nguy cơ trầm cảm. 
≥ 22 điểm: Có nguy cơ trầm cảm. 
7. Đạo đức nghiên cứu 
Nghiên cứu được sự thống nhất và đồng ý của Ban 
giám hiệu nhà trường. Đối tượng tham gia nghiên cứu 
hoàn toàn tự nguyện và có quyền tự do rút khỏi nghiên 
cứu. Các thông tin về đối tượng được giữ bí mật và 
chỉ được sử dụng với mục đích nghiên cứu khoa học. 
KẾT QUẢ 
Tổng số SV tham gia nghiên cứu là 400, trong đó 
nữ chiếm 73,7%, tuổi trung bình là 19,3 0,6, chủ yếu 
SV sinh ra ở nông thôn (66,8%), hiện có 58,8% SV 
đang thuê nhà trọ, hầu hết SV vẫn chưa lập gia đình 
(99,5%). 
Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 
103
Bảng 1: Mức độ sử dụng các chất có hại cho sức khỏe của SV 
Sử dụng các chất có hại Nam (%) Nữ (%) Chung (%) OR 2 (p) 
Uống rượu 
Chưa sử dụng bao giờ 
Có, không phải 30 ngày qua 
Sử dụng trong 1-9 ngày 
Sử dụng trong 10-29 ngày 
Sử dụng trong cả 30 ngày 
18,1 
59,1 
18,1 
4,7 
0,0 
63,0 
31,2 
4,4 
1,4 
0,0 
51,2 
38,5 
8,0 
2,3 
0,0 
7,7 62,6 (<0,001) 
Hút thuốc lá 
Chưa sử dụng bao giờ 
Có, không phải 30 ngày qua 
Sử dụng trong 1-9 ngày 
Sử dụng trong 10-29 ngày 
Sử dụng trong cả 30 ngày 
79,0 
11,4 
5,7 
2,8 
0,1 
95,6 
3,8 
0,6 
0,0 
0,0 
91,2 
5,8 
1,7 
1,2 
0,1 
5,7 26,6 (<0,001) 
Sử dụng chất 
gây nghiện 
Chưa sử dụng bao giờ 
Có, không phải 30 ngày qua 
Sử dụng trong 1-9 ngày 
Sử dụng trong 10-29 ngày 
Sử dụng trong cả 30 ngày 
96,1 
2,9 
1,0 
0,0 
0,0 
97,0 
2,0 
0,7 
0,3 
0,0 
96,8 
2,2 
0,8 
0,2 
0,0 
1,3 0,1 (0,707) 
Nhận xét: Tỷ lệ uống rượu ở nam cao gấp 7,7 lần ở nữ, tỷ lệ hút thuốc lá ở nam cao hơn 5,7 lần ở nữ, sự 
khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Tỷ lệ SV nữ hút thuốc lá chiếm 4,4%, chủ yếu đã từng hút nhưng 
không phải trong 30 ngày qua; trong khi đó tỷ lệ nam hút thuốc cao hơn (21%), mức độ sử dụng trong tháng qua 
từ 1-29 ngày là 8,5%. Tỷ lệ SV có sử dụng chất gây nghiện (3%), không có sự khác biệt giữa nam và nữ, chủ yếu 
đã từng sử dụng nhưng không phải trong 30 ngày qua (Bảng 1). 
Bảng 2: Một số đặc điểm về hành vi sinh hoạt tình dục ở SV 
Hành vi sinh hoạt tình dục Nam (%) Nữ (%) Chung (%) 2 (p) 
Khuynh hướng tình dục 
Khác giới 
Đồng giới 
Lưỡng giới 
Không biết 
92,4 
1,9 
1,9 
3,8 
94,9 
0,7 
2,7 
1,7 
94,2 
1,0 
2,5 
2,3 
2,9 
(0,404) 
Mối quan hệ hiện tại 
Chưa có người yêu 
Có và đang sống cùng 
Có nhưng không sống 
cùng 
71,4 
3,8 
24,8 
79,3 
0,7 
20,0 
77,3 
1,5 
21,2 
6,5 
(0,039) 
Số bạn tình trong 12 tháng 
qua 
Không 
Một 
Hai 
Từ ba trở lên 
48,6 
39,1 
0,9 
11,4 
55,3 
39,7 
1,7 
3,3 
53,5 
39,5 
1,5 
5,5 
10,5 
(0,018) 
Nhận xét: Khuynh hướng tình dục chủ yếu là khác 
giới (94,2%). Bên cạnh đó, 5,8% sinh viên trả lời là có 
có khuynh hướng đồng giới, lưỡng giới hoặc không 
biết mình theo khuynh hướng nào, tỷ lệ này ở nam cao 
hơn ở nữ. Tỷ lệ SV nam có người yêu và đang sống 
cùng cao hơn ở nữ (nam 3,8%, nữ 0,7%), sự khác biệt 
này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Hầu hết SV không 
có hoặc chỉ có 1 bạn tình trong 12 tháng qua (93%), 
5,5% sinh viên có số bạn tình từ ba trở lên (5,5%), đặc 
biệt ở SV nam (11,4%) (Bảng 2). 
Tỷ lệ SV đã quan hệ tình dục trong 12 tháng qua có 
sự khác biệt rõ rệt giữa nam và nữ, tỷ lệ đã quan hệ ở 
nam là 17,1% gấp 6 lần so với SV nữ (2,7%). 
Biểu đồ 1: Các biện pháp tránh thai được sử dụng khi 
quan hệ 
Nhận xét: Biểu đồ 1 cho thấy chủ yếu SV khi quan 
hệ tình dục sử dụng bao cao su để tránh thai 
(57,7%).Tuy nhiên, khoảng 1/4 số SV không sử dụng 
biện pháp tránh thai khi quan hệ tình dục. 
Bảng 3: Tỷ lệ chơi game online và vào mạng xã hội 
ở SV 
Sử dụng 
Internet 
Nam 
n (%) 
Nữ 
n (%) 
Chung 
n (%) OR 
2 
(p) 
Chơi game 
online 
86 
(81,9) 
196 
(66,4) 
282 
(70,5) 2,3 
8,9 
(0,003) 
Vào mạng xã 
hội 
103 
(98,1) 
293 
(99,3) 
396 
(99,0) 0,4 
1,2 
(0,278) 
Nhận xét: Tỷ lệ SV sử dụng Internet để chơi game 
online cao (70,5%) trong đó tỷ lệ SV nam chơi cao gấp 
2,3 lần SV nữ, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê 
(p<0,01). Hầu hết SV đều sử dụng mạng xã hội (99%), 
đặc biệt ở SV nữ (Bảng 3). 
 Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 
104
Biểu đồ 2: Thời gian chơi game online và sử dụng 
mạng xã hội 
Nhận xét: Thời gian chơi game online và vào mạng 
xã hội của SV chủ yếu dưới 3 giờ (trên 80%), thường 
từ 1 - 3 giờ. Bên cạnh đó vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ 
sử dụng trên 3 giờ để chơi game online (12,1%) hay 
vào mạng xã hội (19,4%) (Biểu đồ 2). 
Bảng 4: Nguy cơ trầm cảm ở SV 
Nguy cơ 
trầm cảm 
Nam 
n (%) 
Nữ 
n (%) 
Chung 
n (%) OR 
2 
(p) 
Có nguy 
cơ 
45 
(42,9) 
153 
(51,9) 
198 
(49,5) 0,7 2,5 (0,113) Không có 
nguy cơ 
60 
(57,1) 
142 
(48,1) 
202 
(50,5) 
Nhận xét: Tỷ lệ SV có nguy cơ trầm cảm khá cao, 
chiếm gần 1/2 số SV (49,5%). Tỷ lệ SV nữ có nguy cơ 
trầm cảm cao hơn SV nam khoảng 10%. Tuy nhiên sự 
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). 
BÀN LUẬN 
1. Sử dụng các chất có hại cho sức khỏe: Kết 
quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ SV sử 
dụng uống rượu ở SV nam là 81,9%, cao gấp 7,7 lần 
ở SV nữ, tỷ lệ hút thuốc lá là 21%, cũng cao gấp 5,7 
lần. Kết quả này thấp hơn so với tỷ lệ sử dụng rượu và 
thuốc lá trong SAVY 2 (58% có sử dụng rượu, 20,4% 
hút thuốc lá) [1]. Nguyên nhân là do đặc thù của nam 
giới là sự mạnh mẽ, thích thể hiện nên thường dùng 
rượu để làm thước đo độ mạnh mẽ và cũng như là lời 
mời chào trong các bữa tiệc. Một đặc thù nữa là nam 
giới thường hút thuốc lá khi căng thẳng hoặc cũng có 
thể do bạn bè lôi kéo rồi dẫn đến nghiện thuốc lá. Mức 
độ sử dụng rượu và thuốc lá thường đã từng sử dụng 
hoặc sử dụng trong 1-9 ngày. Việc sử dụng các chất 
này không tốt cho SV bởi nó không chỉ hại sức khỏe 
mà còn hao tốn tiền của của SV. Ngoài ra còn có một 
tỷ lệ nhỏ SV có sử dụng chất gây nghiện (khoảng 3%). 
Có thể những SV này là những SV có điều kiện, hay 
vào các quán bar, sử dụng các thuốc gây nghiện để 
bay nhảy, hoặc có thể gặp ở một số SV khác dễ bị 
cám dỗ, lôi kéo khi bắt đầu vào môi trường phức tạp ở 
đô thị. Hậu quả có thể dẫn SV tới những tệ nạn xã hội 
khác rồi cả những hành vi vi phạm pháp luật. Nhà 
trường cần có các biện pháp tuyên truyền trên bảng 
tin, băng rôn và đài phát thanh về tác hại của chất gây 
nghiện. Đồng thời, Trạm y tế và Phòng Công tác SV 
có thể tổ chức xét nghiệm bất chợt phát hiện sử dụng 
chất gây nghiện trong người cho SV năm thứ nhất. 
Đây là hình thức răn đe, góp phần đảm bảo môi 
trường học đường nói không với ma túy. 
2. Hành vi sinh hoạt tình dục: Khuynh hướng tình 
dục của SV trong nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu là 
khác giới (94,2%). Bên cạnh đó còn có khoảng 5,8% 
SV có khuynh hướng đồng giới, lưỡng giới hoặc 
không biết mình theo khuynh hướng này, các đối 
tượng này có thể do bản thân về cấu tạo cơ thể hay 
tâm sinh lý của họ nhưng cũng có thể do một số SV có 
nhu cầu kiếm thêm tiền mà có thể phục vụ những 
người có nhu cầu tình dục đồng giới. Điều này có thể 
là nguy cơ lây nhiễm các bệnh xã hội cao, vì vậy cần 
phát hiện và tổ chức tư vấn cho những SV này. Ngoài 
ra, một số có người yêu và đang sống cùng, nguyên 
nhân có thể do thuê nhà ở không có sự kiểm soát của 
gia đình, nhà trường, đây là vấn đề đang nhức nhối 
đặt ra ở giới trẻ. Theo nghiên cứu về sống thử và quan 
hệ tình dục trước hôn nhân của SV do Trung ương hội 
SV kết hợp với Bộ Y tế tiến hành năm 2008 tại các 
trường đại học phía nam kết quả cho thấy tỷ lệ SV 
đồng ý với việc sống thử và quan hệ tình dục trước 
hôn nhân ngày càng cao, có xu hướng tăng lên ở một 
số khu vực nội thành đô thị lớn [4]. Từ đây sẽ dẫn đến 
những ý nghĩ và hành động nguy hại hơn của các em 
SV đặc biệt là SV nữ như lỡ có thai ngoài ý muốn rồi 
nạo phá thai, tập trung cuộc sống “vợ chồng” không 
tập trung học hành Đây là những vấn đề cần tìm 
hiểu sâu hơn, đồng thời Trạm y tế trường và Ban 
Chấp hành Đoàn Thanh niên cần phải tìm hiểu kỹ hơn 
và tổ chức các hoạt động nhằm tư vấn kiến thức liên 
quan đến sức khỏe sinh sản và ngăn chặn hệ lụy xảy 
ra. 
3. Sử dụng internet: Đối với SV, môi trường học 
tập, giải trí phong phú đa dạng, nhu cầu sử dụng 
internet ngày càng cao. Sự ra đời của internet đã có 
ảnh hưởng mạnh mẽ đến tinh thần cũng như đời sống 
học tập của SV trong môi trường sống luôn năng động 
và bận rộn hiện nay. Nghiên cứu về thị trường Internet 
Việt Nam năm 2012 vừa được công bố, internet đã 
vượt qua radio (23%) và báo giấy (40%) để trở thành 
phương tiện thông tin được sử dụng hàng ngày phổ 
biến nhất tại Việt Nam (42%). Trong đó giới trẻ độ tuổi 
từ 15 đến 24 là đối tượng dùng internet nhiều nhất. 
Tuy nhiên thời gian sử dụng internet để chơi game 
online của SV năm thứ 2 khá cao. Điều này có thể ảnh 
hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tiền bạc và kéo theo đó 
là các hành vi tiêu cực. Nhà trường nên kết hợp với 
Đoàn thanh niên tổ chức các hoạt động ngoại khóa tạo 
môi trường sinh hoạt văn hóa lành mạnh, bổ ích, qua 
đó làm hạn chế thời gian chơi game online. 
4. Đánh giá nguy cơ trầm cảm: 49,5% là con số 
cho thấy tỷ lệ SV có nguy cơ trầm cảm khá cao, tỷ lệ 
này cao hơn so với nghiên cứu của Đỗ Đình Quyên 
(39,6%) [5] hay nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Liên 
(47,6%) [6]. Tỷ lệ SV nữ có nguy cơ trầm cảm cao hơn 
SV nam khoảng 10%. Trong một nghiên cứu ở Mỹ thì 
tỷ lệ gặp ở nữ cao gấp 2 lần nam giới (12% so với 
6,6%) [7]. Do đa phần tính cách nữ yếu đuối hơn nam 
nên thường bị ảnh hưởng tâm lí và suy nghĩ nhiều hơn 
khi gặp khó khăn. Điều này có thể giải thích vì khối 
lượng kiến thức học trong một buổi quá nhiều, quá 
nặng kèm theo các yếu tố khác như trò chơi, mạng xã 
Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 
105
hội cũng như các công việc khác làm SV không thể tập 
trung, dẫn đến kết quả học tập sút kém, có thể dẫn 
đến sự chán nản, thất vọng. Vì vậy nên giảm tải khối 
lượng kiến thức truyền tải trong một buổi, tổ chức bồi 
dưỡng thêm cho những SV yếu kém để cải thiện kết 
quả học tập cho SV. 
KẾT LUẬN 
1. Hành vi sức khỏe của SV 
Tỷ lệ SV sử dụng các chất có hại cho sức khỏe khá 
cao, chủ yếu là SV nam: sử dụng rượu 48,8%, hút 
thuốc lá 8,8%, sử dụng chất gây nghiện 3,2%. Tỷ lệ 
uống rượu ở nam cao gấp 7,7 lần ở nữ, tỷ lệ hút thuốc 
lá ở nam cao hơn 5,7 lần ở nữ, sự khác biệt này có ý 
nghĩa thống kê (p<0,05). 
Tỷ lệ SV đã quan hệ tình dục trong vòng 12 tháng 
qua là 6,5%, trong đó SV nam là 17,1%, cao gấp gần 6 
lần SV nữ (2,7%). 
Tỷ lệ SV sử dụng các biện pháp tránh thai khi quan 
hệ tình dục là 73,1%, trong đó sử dụng bao cao su 
chiếm tỷ lệ 57,7%, thuốc tránh thai là 15,4%, không sử 
dụng là 26,9%. 
Tỷ lệ SV sử dụng Internet để chơi game online cao 
(70,5%) trong đó tỷ lệ SV nam chơi cao gấp 2,3 lần SV 
nữ, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,01). 
2. Nguy cơ trầm cảm ở SV 
Tỷ lệ SV có nguy cơ trầm cảm là 49,5%, SV nữ có 
nguy cơ trầm cảm là 51,9%, SV nam là 42,9%. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Y tế (2010), "Điều tra quốc gia về vị thành niên 
và thanh niên Việt Nam (SAVY2)". 
2. Stefanie M Helmer (2012), "Health-related locus of 
control and health behaviour among university students in 
North Rhine Westphalia, Germany", BMC Research 
Notes. 
3. Katherine Skipworth (2011), "Relationship between 
Perceived Stress and Depression in College Students", 
The Degree Master of Science, Arizona State University. 
4. Trung tâm hỗ trợ sinh viên (2008). Giảm stress cho 
tân sinh viên. 
=com_content&view=article&id=129:gim-stress-cho-tan-
sinh-vien&catid=44:k-nng&Itemid=91. 
5. Do Dinh Quyen (2007), "Depression and among the 
first year medical students in university of medicine and 
pharmarcy Ho Chi Minh city, Vietnam", College of Public 
Health Sciences, Chulalongkom University. 
6. Nguyễn Thị Bích Liên (2011), "Nguy cơ trầm cảm ở 
một số khối sinh viên đa khoa trường Đại học Y Hà Nội 
năm học 2010-2011 và một số yếu tố liên quan", Khóa 
luận tốt nghiệp Bác sĩ đa khoa, Đại học Y Hà Nội. 
7. WHO (2005). “Child and adolescent mental health 
policies and plans”. 
heath/policy/en/Child2020Ado20Mental20Health final.pdf.
KÕT QU¶ L¢U DµI PHÉU THUËT T¹O H×NH VAN BA L¸ 
Cã §ÆT VßNG VAN Vµ T¹O H×NH KH¤NG VßNG VAN 
T¹I VIÖN TIM Thµnh Phè Hå ChÝ Minh Tõ N¡M 2000 - 2012 
Tr­¬ng NguyÔn Hoµi Linh, NguyÔn V¨n Phan 
ViÖn Tim Thµnh phè Hå ChÝ Minh 
Ph¹m Thä TuÊn Anh - §¹i häc Y D­îc TP.HCM 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá kết quả lâu dài của 2 phương 
pháp phẫu thuật tạo hình van 3 lá có đặt vòng và 
không vòng van tại Viện Tim Tp.HCM 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ hồi 
cứu kết hợp tiến cứu với 581 bệnh nhân phẫu thuật 
bệnh van 2 lá có kèm sửa van 3 lá trong khoảng thời 
gian từ năm 2000 đến năm 2012. 
Kết quả: 581 bệnh nhân đã được can thiệp điều trị 
phẫu thuật van 3 lá đồng thời với phẫu thuật van hai lá, 
trong đó có 279 đặt vòng van 3 lá (48.02%) và 302 tạo 
hình không đặt vòng van 3 lá (51,97%). Thời gian theo 
dõi là 6,19 ± 3,62 năm. Các yếu tố liên quan đến chỉ 
định đặt vòng van là rung nhĩ (OR=1.82); hở van 3 lá 
thực thể (OR=5.72); mức độ hở van 3 lá trên 2 
(OR=3.11) và mức độ NYHA trên II (OR=2.44). Sự cải 
thiện mức độ hở van 3 lá, NYHA và áp lực ĐMP tâm 
thu sau phẫu thuật của 2 nhóm có ý nghĩa thống kê 
(p<0.001). Kết quả điều trị lâu dài ghi nhận nguy cơ 
giảm ở nhóm đặt vòng van so với nhóm tạo hình 
không vòng về mức độ tái hở van 3 lá (>2) HR=0.47 
[95%CI, 0.37 – 0.60, p<0.001], tăng NYHA HR=0.72 
[95%CI, 0.56 – 0.93, p=0.01], còn áp lực ĐMP thì nguy 
cơ tương đương giữa 2 nhóm. 
Kết luận: Kết quả điều trị lâu dài của nhóm bệnh 
nhân được phẫu thuật tạo hình van ba lá kèm đặt vòng 
van tốt hơn so với nhóm bệnh nhân được tạo hình 
không đặt vòng van. Khuyến cáo nên sử dụng kỹ thuật 
đặt vòng van cho các bệnh nhân có : rung nhĩ, hở van 
ba lá thực thể, mức độ hở van ba lá mức độ vừa-nặng 
( > 2), đường kính thất phải lớn (>35mm), NYHA >2 
trước phẫu thuật để đảm bảo kết quả điều trị tốt về lâu 
dài (trên 10 năm). 
Từ khóa: hở van 3 lá, đặt vòng, tạo hình, kết quả 
lâu dài, Viện Tim Tp.HCM 
summary 
Objective: To evaluate the long-term outcomes of 
the tricuspid valve annuloplasty surgery with ring and 
no ring in patients at Heart Institute HCMC. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_hanh_vi_suc_khoe_va_nguy_co_tram_cam_cua_sinh_vie.pdf