Tiếp cận yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn ngôn viết tiếng Anh theo đường hướng ngữ pháp chức năng

TÓM TẮT

Mạch lạc được xem là một trong những đặc điểm thiết yếu để có một văn bản viết hiệu quả. Mạch

lạc đề cập đến kết cấu của diễn ngôn viết mà qua đó tất cả những yếu tố phải được nối kết với

nhau một cách rõ ràng và hợp lý. Có nhiều phương pháp tiếp cận đề cập đến vấn đề nâng cao nhận

thức của người học tiếng Anh như một ngoại ngữ về tầm quan trọng của yếu tố mạch lạc trong

diễn ngôn viết. Trong bài viết này, chúng tôi sơ lược một vài nét về các phương pháp tiếp cận

yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn ngôn tiếng Anh theo đường hướng của Ngữ pháp chức năng.

Cụ thể, bài viết trình bày một số nét về vấn đề mạch lạc và các mối quan hệ của mạch lạc được

giải thích trong khuôn khổ của Ngữ pháp chức năng (Functional Grammar). Qua đó, tìm hiểu các

phương pháp tiếp cận mối quan hệ giữa ngữ pháp và diễn ngôn: phương pháp tiếp cận theo tầng

bậc (Layering approaches); phương pháp tiếp cận theo mô-đun; phương pháp tiếp cận hợp nhất

(Integrative), hay còn gọi là Ngữ pháp diễn ngôn chức năng (Functional Discourse Grammar),

nhằm định hướng cho người dạy và học tiếng về việc hiểu yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn

ngôn một cách khoa học hơn.

pdf 10 trang yennguyen 5380
Bạn đang xem tài liệu "Tiếp cận yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn ngôn viết tiếng Anh theo đường hướng ngữ pháp chức năng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiếp cận yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn ngôn viết tiếng Anh theo đường hướng ngữ pháp chức năng

Tiếp cận yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn ngôn viết tiếng Anh theo đường hướng ngữ pháp chức năng
111KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
PHAN THỊ LỆ HOA *
*Đại học Ngân hàng TPHCM, ✉ hoaptl@buh.edu.vn
Ngày nhận bài: 17/01/2018; ngày sửa chữa: 10/5/2018; ngày duyệt đăng: 20/5/2018
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo tác giả Butler và các cộng sự (2000), 
những gì diễn ra bên trong ngôn ngữ của một văn 
bản bao gồm hai mức độ: mức độ nội dung và mức 
độ diễn đạt. Học ngôn ngữ là học cách diễn đạt 
nghĩa bằng cách hình thành ngôn bản hay văn bản 
thành một thể thống nhất trong ngữ cảnh. Việc dạy 
ngữ pháp của một ngôn ngữ nào đó cũng vậy: ngữ 
pháp chức năng khuyến khích người dạy suy nghĩ 
về việc dạy ngữ pháp theo mô hình chức năng của 
TIẾP CẬN YẾU TỐ MẠCH LẠC 
TRONG VĂN BẢN DIỄN NGÔN VIẾT TIẾNG ANH 
THEO ĐƯỜNG HƯỚNG NGỮ PHÁP CHỨC NĂNG
TÓM TẮT
Mạch lạc được xem là một trong những đặc điểm thiết yếu để có một văn bản viết hiệu quả. Mạch 
lạc đề cập đến kết cấu của diễn ngôn viết mà qua đó tất cả những yếu tố phải được nối kết với 
nhau một cách rõ ràng và hợp lý. Có nhiều phương pháp tiếp cận đề cập đến vấn đề nâng cao nhận 
thức của người học tiếng Anh như một ngoại ngữ về tầm quan trọng của yếu tố mạch lạc trong 
diễn ngôn viết. Trong bài viết này, chúng tôi sơ lược một vài nét về các phương pháp tiếp cận 
yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn ngôn tiếng Anh theo đường hướng của Ngữ pháp chức năng. 
Cụ thể, bài viết trình bày một số nét về vấn đề mạch lạc và các mối quan hệ của mạch lạc được 
giải thích trong khuôn khổ của Ngữ pháp chức năng (Functional Grammar). Qua đó, tìm hiểu các 
phương pháp tiếp cận mối quan hệ giữa ngữ pháp và diễn ngôn: phương pháp tiếp cận theo tầng 
bậc (Layering approaches); phương pháp tiếp cận theo mô-đun; phương pháp tiếp cận hợp nhất 
(Integrative), hay còn gọi là Ngữ pháp diễn ngôn chức năng (Functional Discourse Grammar), 
nhằm định hướng cho người dạy và học tiếng về việc hiểu yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn 
ngôn một cách khoa học hơn.
Từ khóa: diễn ngôn viết, mạch lạc, ngữ pháp chức năng 
cú, những cú này được diễn đạt và khả năng tạo 
nghĩa trong toàn bộ ngôn bản hay văn bản như thế 
nào. Đặc biệt là, khi giảng dạy kỹ năng viết cho 
sinh viên, người dạy nên chú trọng đến khía cạnh 
này, tức là làm thế nào để sinh viên khi hoàn tất 
một văn bản thì văn bản đó hay về nội dung và 
mạch lạc về ý. Bài viết này nghiên cứu một vài nét 
về các phương pháp tiếp cận yếu tố mạch lạc trong 
văn bản diễn ngôn tiếng Anh theo đường hướng 
của Ngữ pháp chức năng. Bài viết trình bày: 
nghiên cứu vấn đề mạch lạc và các mối quan hệ 
112 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
của mạch lạc được giải thích trong khuôn khổ của 
Ngữ pháp chức năng (Functional Grammar). Qua 
đó, tìm hiểu các phương pháp tiếp cận mối quan 
hệ giữa ngữ pháp và diễn ngôn: phương pháp tiếp 
cận theo tầng bậc (Layering approaches), phương 
pháp tiếp cận theo Mô-đun (Modular approaches) 
hay phương pháp tiếp cận Hợp nhất (Integrative) 
(phỏng theo Butler, 2000; Mackenze, 2004, tr.1-
21), nhằm định hướng cho người dạy tiếng về việc 
hiểu yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn ngôn một 
cách khoa học hơn.
2. MẠCH LẠC VÀ LIÊN KẾT
Thuật ngữ mạch lạc chỉ mới xuất hiện trong 
những thập kỷ gần đây, cụ thể là trong giai đoạn 
thứ hai của việc nghiên cứu văn bản. Tuy nhiên, 
khái niệm mạch lạc văn bản là một vấn đề hoàn 
toàn không mới nhưng lại rất phức tạp. Một diễn 
ngôn mạch lạc là một diễn ngôn mà người nghe/
người đọc tạo lập một mối quan hệ giữa một diễn 
ngôn cụ thể nào đó với những diễn ngôn trước đó 
(Nunan, 1998). Sự liên kết này thường được giải 
thích là mối liên kết giữa các đơn vị diễn ngôn, 
nhưng cũng có thể quy chiếu đến các mối quan hệ 
giữa một diễn ngôn hiện hành và ngữ cảnh.
Theo quan điểm Halliday và Hasan (1976), 
mạch lạc và liên kết không phải là một. Mạch lạc 
thể hiện ở bề sâu của quan hệ nghĩa, còn liên kết 
thể hiện ở bề mặt bằng các hình thức liên kết khứ 
chỉ, hồi chỉ, quy chiếu, lặp lại, đồng nghĩa,... giữa 
các yếu tố giả định và được giả định trong một 
văn bản và là một phương thức góp phần tạo nên 
mạch lạc trong văn bản. Trong ví dụ (1) sau đây 
‘it’ trong câu thứ hai giả định ‘the bread’ trong câu 
thứ nhất. Chúng có quan hệ thông qua mối quan hệ 
quy chiếu.
(1) The bread is stale. You can feed it to the birds.
(Bánh mì đã để lâu hư rồi. Con có thể đem cho 
lũ chim ăn đi.)
Trong những trường hợp khác, liên kết được 
tạo lập thông qua các hình thức biểu đạt như ‘but’, 
‘so’, ‘in that case’. Những quan hệ này là quan hệ 
liên hợp, nghĩa là những quan hệ cấu trúc được báo 
hiệu bởi từ nối biểu thị mối quan hệ đẳng lập hay 
quan hệ phụ thuộc. Halliday và Hasan (1976) cho 
rằng, để có tính mạch lạc trong một văn bản, người 
đọc phần nào dựa vào các công cụ liên kết được sử 
dụng trong văn bản như quan hệ liên hợp, quan hệ 
phi liên hợp, phép quy chiếu, phép lặp lại,... Hai ví 
dụ sau (2) và (3) đưa ra hai trường hợp về quan hệ 
chỉ thời gian, một trong hai mối quan hệ liên hợp 
cơ bản nhất về công cụ liên kết văn bản. 
(2) As soon as she finished that project, she 
started working on the next. 
(as soon as: từ nối biểu thị mối quan hệ phụ 
thuộc) (Ngay khi cô ấy hoàn tất đề án đó, cô ấy bắt 
tay vào đề án tiếp theo.)
(3) She finished her work at her office. 
Afterwards, she rushed to her daughter’s school. 
(Cô ấy hoàn tất công việc ở văn phòng. Sau đó, cô 
vội vã đến trường của con gái.) 
Ví dụ (3) có thể được diễn đạt lại bằng cách 
dùng công cụ liên kết hai câu thành một câu nhưng 
nghĩa của văn bản không thay đổi.
(3a) After she finished her work at her office, 
she rushed to her daughter’s school. (after: từ nối 
biểu thị mối quan hệ phụ thuộc)
(3b) She finished her work at her office; 
afterwards, she rushed to her daughter’s school. 
(afterwards: từ nối biểu thị mối quan hệ đẳng lập)
Tuy nhiên, theo tác giả Brown và Yule (1983, 
tr.196), sự tồn tại các mối liên kết tuyệt nhiên 
không phải là điều kiện tiên quyết cho sự mạch 
lạc. Nghĩa là, có nhiều chuỗi phát ngôn/câu được 
thể hiện rõ ràng dưới dạng văn bản mà không có 
mối liên kết được đánh dấu rõ ràng nào.
113KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
3. CÁC PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN SỰ 
MẠCH LẠC TRONG VĂN BẢN THEO QUAN 
ĐIỂM NGỮ PHÁP CHỨC NĂNG
3.1. Phương pháp tiếp cận theo tầng bậc 
(Layering Approaches)
Theo phương pháp tiếp cận theo tầng bậc, 
về mặt cơ bản, Dik (1977) và Hengeveld (1997, 
tr.1-16) đưa ra mô hình so sánh sự tương quan 
giữa diễn ngôn với ngữ pháp. Nói chung, phương 
pháp tiếp cận này là khung lý thuyết dựa trên cơ 
sở quan điểm từ vựng – ngữ nghĩa học (lexico-
semantically), có kết cấu gồm ba tầng bậc trên câu. 
Theo kết cấu này, mô hình/cấu trúc ngữ pháp có 
thể được mở rộng hướng lên trên bậc câu nhằm 
khẳng định mối tương quan giữa đơn vị cao nhất 
trong kết cấu cú theo tầng bậc là cú phức (complex 
clause), và đơn vị thấp nhất trong kết cấu diễn 
ngôn là hành động ngôn từ (speech act)/phát ngôn 
(utterance). Qua đó, có thể thấy rằng, cả hai tác 
giả Dik và Hengeveld, đặc biệt là Hengeveld có 
xu hướng bàn về mối quan hệ liên kết hơn là mạch 
lạc, có lẽ là do họ theo quan điểm từ hình thức đến 
chức năng (form-to-function) trong khuôn khổ của 
Thuyết Chức năng luận (Functionalism).
3.1.1. Mô hình diễn ngôn của Dik (1997)
Khi giới thiệu khái niệm về mạch lạc, Dik 
(1977, tr.433-441) có đề cập đến nghiên cứu về 
mạch lạc và liên kết của Halliday và Hasan (1976). 
Công trình của hai tác giả này chủ yếu bàn về liên 
kết và liệt kê nhiều công cụ mà các nhà ngôn ngữ 
học (đặc biệt là các nhà ngôn ngữ học theo Thuyết 
Hệ thống) phân loại là công cụ liên kết như phép 
trùng lặp (anaphora), chuỗi quy chiếu (reference 
chains). Theo Dik (1977, tr.415-422), các phương 
thức mạch lạc được phân biệt thành: mô hình diễn 
ngôn phổ quát (global discourse decisions) và mô 
hình cấu trúc phổ quát (global structural patterns), 
theo quan điểm diễn ngôn là sản phẩm (discourse-
as-product) (Dik, 1977, tr.422-432).
Trong số những phương thức diễn ngôn bậc 
cao, Dik (1977) miêu tả mối quan hệ mạch lạc theo 
mô hình dưới lên trên gọi là mô hình diễn ngôn 
phổ quát được tiếp cận theo cả hai quan điểm: 
cấu trúc và quan hệ. Để giải thích cấu trúc của 
diễn ngôn, Dik dùng lại những tên gọi đã được 
Hengeveld sử dụng cho các cấp độ trong phạm 
vi cấu trúc cú và giải thích rằng một sự kiện diễn 
ngôn có tầng bậc liên nhân (interpersonal layer) 
bao gồm các bộ phận tương tác và thái độ; và tầng 
bậc đại diện (representational layer) bao gồm bố 
cục về nội dung và các yếu tố truyền tải nội dung. 
Tương đương với hai tầng bậc này là hai bộ đơn vị 
được sắp xếp theo thứ bậc. Xét theo tầng bậc liên 
nhân, cả hai hành động ngôn từ (được nhận biết 
là cú đơn hoặc cú phức) và lượt (hay chuỗi ngôn 
ngữ do cùng một người phát ngôn) có thể được kết 
hợp thành chuỗi liên tục qua các mối quan hệ phụ 
thuộc. Còn xét theo tầng bậc quan hệ biểu trưng, 
chuỗi các mệnh đề và vị ngữ trong cú đơn hoặc cú 
phức tạo thành hồi (truyện) (có thể bao gồm những 
hồi phụ) (Hình 1).
Hình 1: Sự kiện diễn ngôn (Dik, 1977, tr.428)
Mặc dù tác giả Dik (1977, tr.430) lưu ý rằng: 
mối quan hệ giữa các đơn vị của hai tầng bậc này 
không cần phải là một đối một (one-to-one), nhưng 
tác giả lại thừa nhận rằng, một chuỗi lượt lời thông 
thường xảy ra đồng thời với một cuộc hội thoại (ví 
dụ như một lời đồng ý đến dự một bữa ăn tối được tạo 
lập bằng một chuỗi gồm có năm thành tố nêu trên).
114 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Theo quan điểm quan hệ hay chức năng, tác giả 
Dik (1997, tr.432) một lần nữa tán đồng mối tương 
quan giữa kết cấu chức năng của cú phức và cấu 
trúc tu từ trong diễn ngôn. Tác giả cho rằng “mô 
hình cấu trúc cú có thể được xem là một mô hình 
bộ phận của diễn ngôn nói chung”. Ngoài ra, tác 
giả còn giải thích thêm rằng, những mối quan hệ 
này liên tục được điều chỉnh bởi các vai tương tác 
(interectants) thông qua các đặc trưng về hình thức 
và nghĩa (ví dụ như thức và thì) và thông qua dấu 
hiệu siêu giao tiếp rõ ràng. Những dấu hiệu này 
đánh dấu của sự chuyển tiếp giữa các giai đoạn 
hay phản ánh cấu trúc diễn ngôn theo thứ bậc.
Trở lại vấn đề mạch lạc, tác giả Dik liên đới 
khái niệm này với các nguyên tắc về sự sắp chuỗi 
tự nhiên hoặc theo cú (mạch lạc cục bộ – local 
coherence) hoặc theo các đơn vị diễn ngôn (mạch 
lạc phổ quát – global coherence). Dik khẳng định 
rằng, nói chung những công cụ ngôn ngữ giống 
nhau đều được sử dụng để tạo ra sự mạch lạc ở cả 
hai cấp độ, gồm có sáu loại công cụ có thể được 
miêu tả như sau: khung (frames), chuỗi hình tượng 
(iconic sequences), tính liên tục của đề ngữ (topic 
continuity), tiêu điểm (focus), liên kết đuôi-đầu 
(Tail-Head linking) và từ nối (connectors).
Khung (frames) được định nghĩa là “sự biểu 
đạt về tinh thần và mặt kết cấu của những hành 
động có thể được chấp nhận và những sự kiện ngôn 
từ trong mối quan hệ với bối cảnh theo thể chế 
đã biết” (Dik, 1977, tr.434). Nếu cấu trúc thể chế 
bao gồm một chuỗi các sự kiện theo tiêu chuẩn, thì 
khung (frames) được gọi là “bản thảo (script)” (ví 
dụ như các công thức nấu ăn). Cho dù khung/bản 
thảo có liên quan đến cấu trúc hay nội dung hay 
không thì vẫn được xem là một phần của kiến thức 
nền tổng quát của người phát ngôn giúp họ đánh 
giá sự mạch lạc của diễn ngôn (xét về tính tương 
thích với các điều kiện đặt ra bởi khung thích hợp) 
hay để tạo ra sự mạch lạc trong một diễn ngôn nhờ 
vào phép suy luận (nghĩa là bằng cách điền vào 
những giả thiết bắc cầu có liên quan đến khung 
nhưng không nêu rõ trong văn bản).
Chuỗi biểu tượng được xem như một nguồn 
mạch lạc khác trên giả định rằng, những chuỗi đó 
phản ánh những sắp xếp theo thứ tự mặc định trên 
cơ sở tri nhận, như trong ví dụ (4) dưới đây:
(4a) She got caught in the rain yesterday and fell 
ill. (Hôm qua cô ấy bị mắc mưa và cô ấy bị bệnh.)
(4b) Before falling ill, Mary got caught in the 
rain. (Trước khi bị bệnh, cô ấy đã bị mắc mưa.)
Ví dụ trên đưa ra chuỗi nguyên nhân – kết quả. 
Những mặc định tự nhiên khác cũng được đề cập 
đến đó là đặt sự kiện trước khi kết quả xảy ra, điều 
kiện trước khi hậu quả gây ra hay đặt hành động 
trước mục đích.
Tính liên tục của chủ đề được đề cập như là 
một phương thức quan trọng khác để đạt được 
sự mạch lạc thông qua những cơ cấu như phép 
quy chiếu hồi chỉ, phép song song cú pháp, quy 
chiếu chuyển mạch, hiện tượng tỉnh lược và mối 
quan hệ giữa chủ đề đã biết (chủ đề cũ) (given 
topics) và chủ đề phụ (sub-topics) dựa trên giả 
định rằng chủ đề diễn ngôn cùng với khung cấu 
trúc và khung nội dung (sub-topics) tạo ra một bố 
cục tự nhiên của diễn ngôn. Dik (1977) giải thích 
rằng, ví dụ như khi miêu tả một căn hộ (chủ đề) 
người ta mong đợi rằng, các yếu tố trong khung 
này như nhà bếp, các phòng,... sẽ được chọn làm 
đề thể phụ và sẽ được khai triển thành chủ đề đã 
biết trong những sản phẩm thể hiện tương đương 
(episodes) (trong một sản phẩm tổng thể) theo 
một thể loại nào đó – nguyên tắc sắp xếp cụ thể.
Ngoài ra, tác giả Dik (1977) còn nhận xét thêm 
rằng mức độ mạch lạc cũng bị ảnh hưởng bởi việc 
đặt yếu tố trọng tâm của diễn ngôn trong chuỗi 
diễn ngôn, như trong ví dụ (5) sau đây.
(5) Q: Who are you going to meet in Paris?
(Bạn dự định sẽ gặp ai ở Paris?)
A1: MY BEST CHILDHOOD FRIEND in Paris.
A2: My best childhood friend in PARIS.
115KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
Trong ví dụ (5), trên yếu tố trọng tâm được xác 
định trước trong câu hỏi, bởi từ để hỏi là “who” yêu 
cầu một tiêu điểm song song như trong ví dụ A1.
Các tham tố của Tiêu điểm (Focality) và Chủ 
đề (Topicality) được xem là ảnh hưởng đến tính 
mạch lạc của diễn ngôn theo nghĩa là chúng cùng 
xác định: sự lựa chọn khung vị ngữ mà qua đó một 
cú/hành động ngôn từ được phối hợp; sự lựa chọn 
loại cú/hành động ngôn từ; sự diễn đạt thực sự của 
đơn vị diễn ngôn đã biết.
Cái gọi là liên kết đuôi-đầu (Tail-Head linking) 
được xem như một công cụ khác trong đó “một cú 
bắt đầu bởi một thành tố được tóm tắt một cách 
ngắn gọn là một thành phần thiết yếu của cú hay 
ngữ cảnh đi trước”. Rõ ràng là loại kết cấu này có 
điểm chung với những loại phát triển Đề ngữ khác 
theo trường phái Prague Scholars và trong phạm vi 
Ngữ pháp Chức năng Hệ thống.
Cuối cùng, tác giả Dik (1977, tr.440) đề cập đến 
những liên kết như một nguồn mạch lạc khác mà 
vai trò chính của chúng là liên kết một cú mới với 
một cú trước đó, đồng thời xác định mối quan hệ 
nghĩa học giữa hai cú như trong ví dụ (6) sau đây.
(6) He says that he saw nothing. However, I 
don’t believe what he says is the truth.
(Anh ấy nói đã không nhìn thấy gì cả. Tuy 
nhiên, tôi không tin những gì anh nói là sự thật.)
Trong ví dụ (6) trên, “however” báo trước 
mệnh đề tiếp theo trái với nội dung được đề cập 
trong mệnh đề trước đó. Dik (1977) cho rằng từ 
nối (connectors) không phải là từ liên kết đẳng lập 
(coordinators). Từ liên kết đẳng lập có chức năng 
trong phạm vi ngữ pháp câu mặc dù rất nhiều từ nối 
(connectors) l ...  theo phương thức kết 
hợp; ‘ran’ và ‘crying’ xảy ra đồng thời)
(Cậu bé vừa chạy về nhà vừa khóc.)
(10b) I am exhausted because I have overworked 
all this week. (Vị ngữ (e) ‘am exhausted’ biểu đạt 
nghĩa theo phương thức kết hợp với mệnh đề (X) 
‘because I have overworked all this week’ để giải 
thích lý do vì sao bị mệt.)
(Tôi mệt nhoài vì suốt tuần nay tôi làm việc 
quá sức.)
(11c) If you try harder, you will pass the xam 
with distinction. (Mệnh đề (X): ‘If you try harder’ 
biểu đạt nghĩa theo phương thức kết hợp.)
 (Nếu bạn cố gắng hơn nữa, bạn sẽ thi đậu với 
thứ hạng danh dự.)
(12d) Watch out, because the wall is going 
to collapse. (Phát ngôn (E) ‘Watch out’ biểu đạt 
nghĩa theo phương thức kết hợp.)
(Coi chừng! Bức tường sắp đổ.)
(11) Ví dụ về phương thức chuỗi (phỏng theo 
Hengeveld, Kees (1997), tr. 6-7)
(a) but we had a seamstress (nhưng chúng tôi 
có một cô thợ may)
(b) and we were calling her Mietje (và chúng 
tôi gọi cô ấy là Mietje)
(c) But I think we were calling everyone 
Mietje back then.
(Nhưng tôi nghĩ chúng ta đang gọi mọi người 
là Mietje.)
(d) You know, I don’t know why. (Bạn biết 
đấy, tôi không hiểu tại sao.)
(e) but anyway, (nhưng dẫu sao)
(f) so that was also a Mietje (cũng là một 
Mietje)
117KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
(g) And uh – she was from Belgium (Và ơ cô 
ấy đến từ Bỉ)
(h) And there were – she was a Belgian refugee, 
(Và cô ấy là một người tị nạn người Bỉ)
(i) ‘cause during the war, during the First World 
War (vì trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất)
(j) all those refugees were coming from 
Belgium, (tất cả người tị nạn đó đều đến từ Bỉ)
(k) and they were coming to Zealand (và họ 
đang đến Zealand)
(l) and they were looking for work there (và họ 
đang tìm kiếm việc làm ở đó)
(m) And so SHE was ouir seamstress, () 
Trở lại vấn đề về mối quan hệ liên kết, 
Hengeveld cũng như Halliday và Hasan (1976) 
miêu tả các mối liên kết này theo hiện tượng ngôn 
ngữ học để nhận biết chúng. Tuy nhiên, thêm vào 
đó, Hengeveld phân loại chúng theo thứ bậc, bản 
chất và miền, và tùy theo khả năng chúng có thể 
kết hợp hay liên kết chuỗi hay không (Bảng 2).
Bảng 2: Quan hệ liên kết
Quan hệ liên kết Cấp độ
Chuỗi chủ thể ở cấp độ thuật từ
Liên kết từ vựng ở cấp độ vị từ (f)
Chuỗi thời gian và tiền/
hậu cảnh sự kiện
ở cấp độ vị ngữ (e)
Chuỗi tham luận
ở cấp độ mệnh đề 
(X)
Chuỗi các hành động ngôn 
trung (câu hỏi/trả lời)
ở cấp độ ngôn trung 
(F)
Động lực của chuỗi ngôn 
từ
ở cấp độ phát ngôn 
(E)
Liên kết Đuôi-Đầu
ở cấp độ đoạn văn 
(M)
3.1.3. Các phương pháp tiếp cận diễn ngôn 
theo Mô-đun (Modular Approaches)
Theo Kroon (1997, tr.17-32) tác giả tiêu biểu 
của đường hướng tiếp cận theo Mô-đun, đơn vị 
nhỏ nhất của cấu trúc diễn ngôn không phải là 
hành động ngôn từ (như theo Hengeveld (1997, 
tr.1-16), mà là “hành động diễn ngôn.” Tác giả 
Kroon (1997, tr.17-32) cho rằng, trong khi chức 
năng giao tiếp của hành động diễn ngôn phụ thuộc 
vào cấu trúc giao tiếp lớn hơn thì “hành động ngôn 
từ” được xếp vào loại trong phạm vi câu, mà các 
đặc điểm ngôn trung được xác định bởi các đặc 
tính từ vựng và ngữ pháp của cú tách biệt. Tác giả 
thừa nhận rằng, cấu trúc ngữ pháp và cấu trúc diễn 
ngôn có quan hệ với nhau thông qua hành động 
ngôn từ (Mô-đun thứ nhất) và hành động diễn 
ngôn (Mô-đun thứ hai).
Giống như miêu tả tầng bậc ngôn từ của 
Hengeveld (1997, tr.1-16), mô-đun diễn ngôn của 
Kroon chứng minh cấu trúc thứ bậc và quan hệ. 
Kết cấu thứ bậc được mô hình dưới tên gọi thuật 
ngữ là hành động (act), lượt lời (move), trao lời 
(exchange), giao dịch và tương tác. Trong khi đó 
kết cấu quan hệ bao gồm ít nhất ba loại quan hệ: 
đẳng lập, phụ thuộc, hoặc hai lượt lời trong một 
trao lời có thể tham gia trong một quan hệ tương 
tác. Mối quan hệ này xác định mối quan hệ chức 
năng giữa hai lượt lời trong một tương tác (ví dụ 
như mời và chấp nhận lời mời).
Ngoài ra, Kroon (1997) nhận xét rằng một 
nghiên cứu đầy đủ về các yếu tố diễn ngôn cần 
phải cân nhắc đến: mối quan hệ giữa các đơn vị 
diễn ngôn và bối cảnh ngoài văn bản, kết cấu đề 
ngữ trong chuỗi chủ đề.
3.1.4. Các phương pháp tiếp cận Diễn ngôn 
tích hợp (Integrative Approaches): Ngữ pháp 
diễn ngôn chức năng (Functional Discourse 
Grammar)
Ngữ pháp Diễn ngôn Chức năng đạt đến sự 
hòa hợp giữa đường hướng tầng lớp và đường 
hướng theo Mô-đun. Trong mô hình này (2004a), 
118 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Hengeveld cho rằng, thành tố khái niệm (có liên 
quan đến sự phát triển ý định giao tiếp và sự kết 
hợp các khái niệm hóa thích hợp), thành tố bối 
cảnh (được hiểu là vùng diễn ngôn bao gồm phạm 
vi kiến thức của các bên giao tiếp). Thành tố âm 
học hay yếu tố tương đương của nó dưới dạng tình 
thái vô thanh, và thành tố ngữ pháp từ trên xuống 
(top-down) bao gồm các cấp độ: liên nhân, biểu 
trưng và biểu đạt. Mỗi một cấp độ này được nhận 
hiểu là một mô-đun riêng biệt và mỗi một mô-đun 
được xếp theo tầng bậc nội tại. Bảng 3 minh họa 
các quy tắc nhằm liên kết các mô-đun bao gồm các 
cấp độ và các đơn vị phân tích.
Bảng 3: Mô hình về các cấp độ liên kết 
(phỏng theo Kroon, Caroline, 1997, tr.17-32)
Mức độ Đơn vị cơ bản
Liên nhân
Khung ngôn trung
Từ vị
Vận hành tố
Biểu trưng
Khung vị ngữ
Từ vị
Vận hành tố
Mô hình cấu trúc
Hình vị
Âm học
Mô hình ngôn điệu
Âm thanh
Hengeveld (1997) nhận xét rằng, sự phân biệt 
trên xác định vị trí thành tố khái niệm một mặt 
giữa ý định giao tiếp và mặt khác là các khái niệm 
hóa được phản ánh trong thành tố ngữ pháp ở cấp 
độ liên nhân và biểu trưng. Do đó, tiếp theo nghiên 
cứu của Kroon (1997, tr.17-32), Hengeveld (1997, 
tr.1-16) giải thích thêm rằng, đơn vị thấp hơn ở 
mức độ liên nhân không phải là hành động ngôn từ 
như được thừa nhận trong mô hình của ông mà là 
hành động diễn ngôn. Ngoài ra, tác giả còn khuyến 
nghị rằng, một lượt lời, đơn vị tối thiểu trong cấu 
trúc trao lời, có thể bao gồm chỉ một hành động 
trung tâm hoặc có thể được bổ sung bởi một hoặc 
hai hành động phụ. Mỗi một hành động phụ biểu 
đạt khung ngôn trung của nó (bao gồm tham thể, 
và luận cứ trong nội dung được giao tiếp). Cấp 
độ biểu trưng có liên quan đến những miêu tả các 
thực thể thuộc thứ tự khác nhau khi chúng xuất 
hiện trong thế giới phi ngôn ngữ (nghĩa là thực thể 
thuộc thứ tự thứ ba hay nội dung mệnh đề (p), thực 
thể ở thứ tự thứ hai hay trạng thái sự vụ (e), thực 
thể ở thứ tự thứ nhất hay cá thể (x), và thực thể 
không có thứ tự hay đặc tính (f)). Cuối cùng, cấp 
độ biểu đạt là sự biểu trưng của cấu trúc thành tố. 
Cấu trúc này bắt đầu ở mức độ đoạn văn (Para), có 
thể bao gồm một hoặc hai câu (S). Mỗi một câu có 
thể bao gồm một hoặc hai cú (Cl), mỗi một cú bao 
gồm một hoặc hai cụm vị từ (PrP) hoặc cụm quy 
chiếu (RP), mỗi một cụm quy chiếu bao gồm một 
hoặc hai từ vị (Lex).
Ngoài cấu trúc tầng bậc hướng xuống dưới ở 
cả hai mức độ liên nhân và biểu trưng, Hengeveld 
cũng nhận xét rằng, cấu trúc tầng bậc hướng lên 
trên là một đặc tính của tất cả các cấp độ phân tích. 
Do đó, ở cấp độ liên nhân, kết cấu tầng bậc hướng 
lên trên có thể bao gồm các lớp lượt vai (turn) và 
trao lời (exchange) trong các đối thoại, và ở cấp độ 
biểu trưng các lớp hồi (episode) và truyện (story) 
trong thể loại kể truyện, và ví dụ như ở cấp độ biểu 
đạt có phần (section) và chương (chapter) trong 
giao tiếp dưới dạng văn bản.
Mặc dù khả năng các lớp hướng lên trên này 
cung cấp đầu mối về bản chất cho mô hình diễn 
ngôn trong phạm vi Ngữ pháp diễn ngôn chức 
năng, nhưng để giải thích đầy đủ về mạch lạc và 
những mối quan hệ mạch lạc và cách mà các mối 
quan hệ này có liên quan đến nhau như thế nào 
trong ngữ cảnh diễn ngôn, rõ ràng là chúng ta cần 
phải giải thích sâu hơn những vấn đề này dựa trên 
sự phân tích toàn bộ những chuỗi diễn ngôn xác 
thực theo đường hướng khiến nghị của Connolly 
(1997, tr.89-116).
119KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ: ĐỊNH HƯỚNG 
CHO NGƯỜI DẠY TIẾNG VỀ VIỆC HIỂU 
YẾU TỐ MẠCH LẠC TRONG VĂN BẢN 
DIỄN NGÔN 
Nói chung, các phương pháp tiếp cận trên 
nhằm giúp người dạy có một cái nhìn khá bao quát 
về mạch lạc và các mối quan hệ về mạch lạc theo 
các mô hình theo đường hướng của Ngữ pháp chức 
năng (Functional Grammar), làm mục tiêu định 
hướng khi giảng dạy ngôn ngữ hướng người học 
học ngôn ngữ là để sử dụng gắn liền với ngữ cảnh 
sử dụng cụ thể (language to use in context). Người 
dạy không nên gượng ép người học học các quy 
tắc được lý tưởng hóa với những hình thức ngữ 
pháp cố định tách rời với ngữ cảnh sử dụng. Cụ 
thể là, ở Việt nam, ngay từ những năm học tiếng 
Anh ở bậc phổ thông, khi giảng dạy kỹ năng viết, 
giáo viên nên xem lại và bổ sung những bài tập 
về luyện viết, chẳng hạn như, giảng dạy cách biểu 
đạt những cấu trúc ngữ pháp dùng trong đoạn văn 
trong ngữ cảnh và tình huống sử dụng, thay vì chỉ 
dừng ở giới hạn là những câu tách biệt. 
Khi đó, việc giảng dạy và nhấn mạnh với người 
học rằng, liên kết và mạch lạc là một trong những 
yếu tố quan trọng để đánh giá chất lượng một văn 
bản viết. Vì trong một chừng mực nào đó, các loại 
liên kết và tần suất sử dụng các mối liên kết trong 
văn bản phản ánh kỹ năng sáng tạo của người viết 
và ảnh hưởng đến những đặc tính về phong cách 
và bố cục của văn bản mà người viết tạo lập. 
Do đó, khi đánh giá văn bản viết của sinh viên 
(ngay từ cấp độ thấp) về tính thống nhất mạch lạc 
trong văn bản, người dạy nên áp dụng cách đánh 
giá theo đề nghị của Feez (1998) qua cách mà 
người học sử dụng: trường từ vựng (lexical sets), 
liên kết được tạo lập thông qua các hình thức biểu 
đạt mối quan hệ đẳng lập (coordinators) hay quan 
hệ phụ thuộc (subordinators), phép quy chiếu, sự 
phân phối thông tin trong đoạn văn và cú. Rõ ràng 
rằng, việc dạy và học ngôn ngữ ngày nay ngay từ 
cơ sở ban đầu người dạy không những giảng dạy 
cấu trúc ngữ pháp, mà còn hướng người học nắm 
vững những kỹ năng tạo lập một diễn ngôn biết 
chú trọng và thể hiện nội dung cần diễn đạt cũng 
như mục đích giao tiếp của văn bản hay ngôn bản.
5. KẾT LUẬN
Tóm lại, vấn đề về lỗi diễn đạt rời rạc, dài 
dòng, lủng củng hoặc ngắn ngủn, khô khan, không 
mạch lạc chiếm đa số trong các bài luận của sinh 
viên Việt Nam viết tiếng Anh là một trong những 
vấn đề đáng được quan tâm nghiên cứu để có 
những biện pháp giúp họ khắc phục và tạo lập văn 
bản có hiệu quả hơn về mặt học thuật. Hơn nữa, 
mức độ nhận định về mạch lạc của một văn bản 
chủ yếu tuỳ thuộc vào khả năng tư duy, thái độ 
tình cảm, trình độ hiểu biết và kiến thức nền của 
người đọc. Bên cạnh đó, cũng còn có một số yếu tố 
cơ bản khác giúp người đọc/người nghe xác định 
được chuỗi câu mạch lạc và chuỗi câu không mạch 
lạc. Do đó, việc giảng dạy cho người học hiểu tầm 
quan trọng của vấn đề mạch lạc và viết diễn đạt 
trôi chảy để tạo sự rõ ràng cho một văn bản là vô 
cùng cần thiết. Điều đó đòi hỏi người dạy phải có 
cái nhìn có hệ thống về mạch lạc và các mối quan 
hệ về mạch lạc.
Do đó, mạch lạc và các mối quan hệ về mạch 
lạc theo các mô hình tầng bậc, mô-đun và tích hợp 
trong phạm vi quan điểm Ngữ pháp chức năng 
(Functional Grammar) có mối tương quan đến 
đường hướng Ngữ pháp chức năng. Tuy có những 
giống nhau rõ ràng giữa mô hình của Hengeveld, 
Kroon và Dik, nhưng cũng có những khác biệt 
đáng lưu ý. Ý niệm về đường hướng tiếp cận theo 
mô-đun dường như được nêu rõ trong nghiên cứu 
của Dik (1977, tr. 409), trong khi đó, đường hướng 
tiếp cận theo thứ bậc về diễn ngôn và ngữ pháp 
được xem là tách biệt mặc dù chúng quan hệ và 
kết cấu diễn ngôn được xem là chứa các thứ bậc 
biểu trưng và liên nhân. Kroon tách biệt rõ ràng 
hai thứ bậc này thành hai mô-đun tương đương 
dù quan hệ nhau, còn Hengeveld (1997, tr.1-16) 
mặc nhận một thứ bậc đơn gồm chín tầng lớp được 
nhóm thành ba cấp độ: tu từ (rhetorical), liên nhân 
(interpersonal) và biểu trưng (representational). 
Hơn nữa, Hengeveld còn miêu tả lại ngữ pháp 
trong phạm vi Ngữ pháp chức năng như là một 
120 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
đơn vị cấu thành của mô hình phát sinh ngôn ngữ 
học/mô hình khái niệm bao gồm cấp bậc liên nhân 
(interpersonal), biểu trưng (representational), và 
cấu trúc (structural)./.
Tài liệu tham khảo:
1. Nunan, D. (1998), Dẫn nhập phân tích diễn 
ngôn, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Butler, D., et al (2000), Using Functional 
Grammar: An Explorer’s Guide. Sydney NSW: 
Macquaie Univeristy.
3. Brown, G. and Yule, G. (1983), Discourse 
Analysis. Cambridge: Cambridge University Press.
4. Connolly, J. H. (2004), “The Question of 
Discourse Representation in Functional Discourse 
Grammar”. In Machenzie, J. Lachlan/Gosmez-
Gonza1lez, Mária de los A1ngeles (eds), pp.89-116.
5. Coulihard, M. (1977), An Introduction to 
Discourse Analysis. Longman, London.
6. Dik, S. C. (1977), The Theory of Functional 
Grammar. Part II: Complex and derived 
constructions (Functional Grammar Series 21). 
Edited by Kees Hengeveld. Berlin/New York: 
Mouton de Gruyter.
7. Feez, S. (1998), Text-based Syllabus Design. 
NCELTR, Sydney: Macquarie Univeristy.
8. Halliday, M.A.K. and Hasan, Ruqalya 
(1976), Cohesion in English. London: Longman.
9. Hengeveld, K. (1997), Cohesion in 
Functional Grammar. In Butler, Christopher S./ 
Connelly, John H./Gatward, Richard A./Vismans, 
Roel M. (eds) Discourse and Pragmatics in 
Functional Grammar. Mouton de Gruyter, Berlin/
New York, pp. 1-16.
10. Kroon, C. (1997), Discourse Markers, 
Discourse Structure and Functional Grammar. In 
Butler, Christopher S./Connolly, John H./Gatward, 
Richard A. and Vismans, Roel M. (eds). Discourse 
and Pragmatics in Functional Grammar, Mouton 
de Gruyter, New York, pp. 17-32.
11. Sinclair, J. and Coulihard, M. (1975), 
Toward an Analysis of Discourse, Oxford: Oxford 
University Press.
APPROACHES TO COHERENCE IN ENGLISH WRITTEN DISCOURSE USING 
FUNCTIONAL GRAMMAR
PHAN THI LE HOA
Abstract: Coherence is considered one of the characteristics of effective writing. Coherence 
refers to the organization of written discourse of text by which all elements are clearly and 
logically connected to each other. There have been a variety of approaches which discuss on 
how to raise EFL learners’ awareness of importance of textual coherence. This article aims to 
briefly discuss charactersitics of some approaches using Functional Grammar on coherence in 
English written discourse. Specifically the paper discusses coherence and its relations explained 
in the scope of Functional Grammar; through which it tries to investigate some approaches on 
relations between grammar and discourse: Layering approaches, Modular approaches, Integrative 
approach: Functional Discourse Grammar in order to direct the teacher and learners to fully 
comprehending coherence in written discourse in a more systematic way.
Keywords: written discourse, coherence, functional grammar 
Received: 17/01/2018; Revised:10/5/2018; Accepted for publication: 20/5/2018

File đính kèm:

  • pdftiep_can_yeu_to_mach_lac_trong_van_ban_dien_ngon_viet_tieng.pdf