Tiếp cận yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn ngôn viết tiếng Anh theo đường hướng ngữ pháp chức năng
TÓM TẮT
Mạch lạc được xem là một trong những đặc điểm thiết yếu để có một văn bản viết hiệu quả. Mạch
lạc đề cập đến kết cấu của diễn ngôn viết mà qua đó tất cả những yếu tố phải được nối kết với
nhau một cách rõ ràng và hợp lý. Có nhiều phương pháp tiếp cận đề cập đến vấn đề nâng cao nhận
thức của người học tiếng Anh như một ngoại ngữ về tầm quan trọng của yếu tố mạch lạc trong
diễn ngôn viết. Trong bài viết này, chúng tôi sơ lược một vài nét về các phương pháp tiếp cận
yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn ngôn tiếng Anh theo đường hướng của Ngữ pháp chức năng.
Cụ thể, bài viết trình bày một số nét về vấn đề mạch lạc và các mối quan hệ của mạch lạc được
giải thích trong khuôn khổ của Ngữ pháp chức năng (Functional Grammar). Qua đó, tìm hiểu các
phương pháp tiếp cận mối quan hệ giữa ngữ pháp và diễn ngôn: phương pháp tiếp cận theo tầng
bậc (Layering approaches); phương pháp tiếp cận theo mô-đun; phương pháp tiếp cận hợp nhất
(Integrative), hay còn gọi là Ngữ pháp diễn ngôn chức năng (Functional Discourse Grammar),
nhằm định hướng cho người dạy và học tiếng về việc hiểu yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn
ngôn một cách khoa học hơn.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiếp cận yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn ngôn viết tiếng Anh theo đường hướng ngữ pháp chức năng
111KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v PHAN THỊ LỆ HOA * *Đại học Ngân hàng TPHCM, ✉ hoaptl@buh.edu.vn Ngày nhận bài: 17/01/2018; ngày sửa chữa: 10/5/2018; ngày duyệt đăng: 20/5/2018 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Theo tác giả Butler và các cộng sự (2000), những gì diễn ra bên trong ngôn ngữ của một văn bản bao gồm hai mức độ: mức độ nội dung và mức độ diễn đạt. Học ngôn ngữ là học cách diễn đạt nghĩa bằng cách hình thành ngôn bản hay văn bản thành một thể thống nhất trong ngữ cảnh. Việc dạy ngữ pháp của một ngôn ngữ nào đó cũng vậy: ngữ pháp chức năng khuyến khích người dạy suy nghĩ về việc dạy ngữ pháp theo mô hình chức năng của TIẾP CẬN YẾU TỐ MẠCH LẠC TRONG VĂN BẢN DIỄN NGÔN VIẾT TIẾNG ANH THEO ĐƯỜNG HƯỚNG NGỮ PHÁP CHỨC NĂNG TÓM TẮT Mạch lạc được xem là một trong những đặc điểm thiết yếu để có một văn bản viết hiệu quả. Mạch lạc đề cập đến kết cấu của diễn ngôn viết mà qua đó tất cả những yếu tố phải được nối kết với nhau một cách rõ ràng và hợp lý. Có nhiều phương pháp tiếp cận đề cập đến vấn đề nâng cao nhận thức của người học tiếng Anh như một ngoại ngữ về tầm quan trọng của yếu tố mạch lạc trong diễn ngôn viết. Trong bài viết này, chúng tôi sơ lược một vài nét về các phương pháp tiếp cận yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn ngôn tiếng Anh theo đường hướng của Ngữ pháp chức năng. Cụ thể, bài viết trình bày một số nét về vấn đề mạch lạc và các mối quan hệ của mạch lạc được giải thích trong khuôn khổ của Ngữ pháp chức năng (Functional Grammar). Qua đó, tìm hiểu các phương pháp tiếp cận mối quan hệ giữa ngữ pháp và diễn ngôn: phương pháp tiếp cận theo tầng bậc (Layering approaches); phương pháp tiếp cận theo mô-đun; phương pháp tiếp cận hợp nhất (Integrative), hay còn gọi là Ngữ pháp diễn ngôn chức năng (Functional Discourse Grammar), nhằm định hướng cho người dạy và học tiếng về việc hiểu yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn ngôn một cách khoa học hơn. Từ khóa: diễn ngôn viết, mạch lạc, ngữ pháp chức năng cú, những cú này được diễn đạt và khả năng tạo nghĩa trong toàn bộ ngôn bản hay văn bản như thế nào. Đặc biệt là, khi giảng dạy kỹ năng viết cho sinh viên, người dạy nên chú trọng đến khía cạnh này, tức là làm thế nào để sinh viên khi hoàn tất một văn bản thì văn bản đó hay về nội dung và mạch lạc về ý. Bài viết này nghiên cứu một vài nét về các phương pháp tiếp cận yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn ngôn tiếng Anh theo đường hướng của Ngữ pháp chức năng. Bài viết trình bày: nghiên cứu vấn đề mạch lạc và các mối quan hệ 112 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI của mạch lạc được giải thích trong khuôn khổ của Ngữ pháp chức năng (Functional Grammar). Qua đó, tìm hiểu các phương pháp tiếp cận mối quan hệ giữa ngữ pháp và diễn ngôn: phương pháp tiếp cận theo tầng bậc (Layering approaches), phương pháp tiếp cận theo Mô-đun (Modular approaches) hay phương pháp tiếp cận Hợp nhất (Integrative) (phỏng theo Butler, 2000; Mackenze, 2004, tr.1- 21), nhằm định hướng cho người dạy tiếng về việc hiểu yếu tố mạch lạc trong văn bản diễn ngôn một cách khoa học hơn. 2. MẠCH LẠC VÀ LIÊN KẾT Thuật ngữ mạch lạc chỉ mới xuất hiện trong những thập kỷ gần đây, cụ thể là trong giai đoạn thứ hai của việc nghiên cứu văn bản. Tuy nhiên, khái niệm mạch lạc văn bản là một vấn đề hoàn toàn không mới nhưng lại rất phức tạp. Một diễn ngôn mạch lạc là một diễn ngôn mà người nghe/ người đọc tạo lập một mối quan hệ giữa một diễn ngôn cụ thể nào đó với những diễn ngôn trước đó (Nunan, 1998). Sự liên kết này thường được giải thích là mối liên kết giữa các đơn vị diễn ngôn, nhưng cũng có thể quy chiếu đến các mối quan hệ giữa một diễn ngôn hiện hành và ngữ cảnh. Theo quan điểm Halliday và Hasan (1976), mạch lạc và liên kết không phải là một. Mạch lạc thể hiện ở bề sâu của quan hệ nghĩa, còn liên kết thể hiện ở bề mặt bằng các hình thức liên kết khứ chỉ, hồi chỉ, quy chiếu, lặp lại, đồng nghĩa,... giữa các yếu tố giả định và được giả định trong một văn bản và là một phương thức góp phần tạo nên mạch lạc trong văn bản. Trong ví dụ (1) sau đây ‘it’ trong câu thứ hai giả định ‘the bread’ trong câu thứ nhất. Chúng có quan hệ thông qua mối quan hệ quy chiếu. (1) The bread is stale. You can feed it to the birds. (Bánh mì đã để lâu hư rồi. Con có thể đem cho lũ chim ăn đi.) Trong những trường hợp khác, liên kết được tạo lập thông qua các hình thức biểu đạt như ‘but’, ‘so’, ‘in that case’. Những quan hệ này là quan hệ liên hợp, nghĩa là những quan hệ cấu trúc được báo hiệu bởi từ nối biểu thị mối quan hệ đẳng lập hay quan hệ phụ thuộc. Halliday và Hasan (1976) cho rằng, để có tính mạch lạc trong một văn bản, người đọc phần nào dựa vào các công cụ liên kết được sử dụng trong văn bản như quan hệ liên hợp, quan hệ phi liên hợp, phép quy chiếu, phép lặp lại,... Hai ví dụ sau (2) và (3) đưa ra hai trường hợp về quan hệ chỉ thời gian, một trong hai mối quan hệ liên hợp cơ bản nhất về công cụ liên kết văn bản. (2) As soon as she finished that project, she started working on the next. (as soon as: từ nối biểu thị mối quan hệ phụ thuộc) (Ngay khi cô ấy hoàn tất đề án đó, cô ấy bắt tay vào đề án tiếp theo.) (3) She finished her work at her office. Afterwards, she rushed to her daughter’s school. (Cô ấy hoàn tất công việc ở văn phòng. Sau đó, cô vội vã đến trường của con gái.) Ví dụ (3) có thể được diễn đạt lại bằng cách dùng công cụ liên kết hai câu thành một câu nhưng nghĩa của văn bản không thay đổi. (3a) After she finished her work at her office, she rushed to her daughter’s school. (after: từ nối biểu thị mối quan hệ phụ thuộc) (3b) She finished her work at her office; afterwards, she rushed to her daughter’s school. (afterwards: từ nối biểu thị mối quan hệ đẳng lập) Tuy nhiên, theo tác giả Brown và Yule (1983, tr.196), sự tồn tại các mối liên kết tuyệt nhiên không phải là điều kiện tiên quyết cho sự mạch lạc. Nghĩa là, có nhiều chuỗi phát ngôn/câu được thể hiện rõ ràng dưới dạng văn bản mà không có mối liên kết được đánh dấu rõ ràng nào. 113KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v 3. CÁC PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN SỰ MẠCH LẠC TRONG VĂN BẢN THEO QUAN ĐIỂM NGỮ PHÁP CHỨC NĂNG 3.1. Phương pháp tiếp cận theo tầng bậc (Layering Approaches) Theo phương pháp tiếp cận theo tầng bậc, về mặt cơ bản, Dik (1977) và Hengeveld (1997, tr.1-16) đưa ra mô hình so sánh sự tương quan giữa diễn ngôn với ngữ pháp. Nói chung, phương pháp tiếp cận này là khung lý thuyết dựa trên cơ sở quan điểm từ vựng – ngữ nghĩa học (lexico- semantically), có kết cấu gồm ba tầng bậc trên câu. Theo kết cấu này, mô hình/cấu trúc ngữ pháp có thể được mở rộng hướng lên trên bậc câu nhằm khẳng định mối tương quan giữa đơn vị cao nhất trong kết cấu cú theo tầng bậc là cú phức (complex clause), và đơn vị thấp nhất trong kết cấu diễn ngôn là hành động ngôn từ (speech act)/phát ngôn (utterance). Qua đó, có thể thấy rằng, cả hai tác giả Dik và Hengeveld, đặc biệt là Hengeveld có xu hướng bàn về mối quan hệ liên kết hơn là mạch lạc, có lẽ là do họ theo quan điểm từ hình thức đến chức năng (form-to-function) trong khuôn khổ của Thuyết Chức năng luận (Functionalism). 3.1.1. Mô hình diễn ngôn của Dik (1997) Khi giới thiệu khái niệm về mạch lạc, Dik (1977, tr.433-441) có đề cập đến nghiên cứu về mạch lạc và liên kết của Halliday và Hasan (1976). Công trình của hai tác giả này chủ yếu bàn về liên kết và liệt kê nhiều công cụ mà các nhà ngôn ngữ học (đặc biệt là các nhà ngôn ngữ học theo Thuyết Hệ thống) phân loại là công cụ liên kết như phép trùng lặp (anaphora), chuỗi quy chiếu (reference chains). Theo Dik (1977, tr.415-422), các phương thức mạch lạc được phân biệt thành: mô hình diễn ngôn phổ quát (global discourse decisions) và mô hình cấu trúc phổ quát (global structural patterns), theo quan điểm diễn ngôn là sản phẩm (discourse- as-product) (Dik, 1977, tr.422-432). Trong số những phương thức diễn ngôn bậc cao, Dik (1977) miêu tả mối quan hệ mạch lạc theo mô hình dưới lên trên gọi là mô hình diễn ngôn phổ quát được tiếp cận theo cả hai quan điểm: cấu trúc và quan hệ. Để giải thích cấu trúc của diễn ngôn, Dik dùng lại những tên gọi đã được Hengeveld sử dụng cho các cấp độ trong phạm vi cấu trúc cú và giải thích rằng một sự kiện diễn ngôn có tầng bậc liên nhân (interpersonal layer) bao gồm các bộ phận tương tác và thái độ; và tầng bậc đại diện (representational layer) bao gồm bố cục về nội dung và các yếu tố truyền tải nội dung. Tương đương với hai tầng bậc này là hai bộ đơn vị được sắp xếp theo thứ bậc. Xét theo tầng bậc liên nhân, cả hai hành động ngôn từ (được nhận biết là cú đơn hoặc cú phức) và lượt (hay chuỗi ngôn ngữ do cùng một người phát ngôn) có thể được kết hợp thành chuỗi liên tục qua các mối quan hệ phụ thuộc. Còn xét theo tầng bậc quan hệ biểu trưng, chuỗi các mệnh đề và vị ngữ trong cú đơn hoặc cú phức tạo thành hồi (truyện) (có thể bao gồm những hồi phụ) (Hình 1). Hình 1: Sự kiện diễn ngôn (Dik, 1977, tr.428) Mặc dù tác giả Dik (1977, tr.430) lưu ý rằng: mối quan hệ giữa các đơn vị của hai tầng bậc này không cần phải là một đối một (one-to-one), nhưng tác giả lại thừa nhận rằng, một chuỗi lượt lời thông thường xảy ra đồng thời với một cuộc hội thoại (ví dụ như một lời đồng ý đến dự một bữa ăn tối được tạo lập bằng một chuỗi gồm có năm thành tố nêu trên). 114 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Theo quan điểm quan hệ hay chức năng, tác giả Dik (1997, tr.432) một lần nữa tán đồng mối tương quan giữa kết cấu chức năng của cú phức và cấu trúc tu từ trong diễn ngôn. Tác giả cho rằng “mô hình cấu trúc cú có thể được xem là một mô hình bộ phận của diễn ngôn nói chung”. Ngoài ra, tác giả còn giải thích thêm rằng, những mối quan hệ này liên tục được điều chỉnh bởi các vai tương tác (interectants) thông qua các đặc trưng về hình thức và nghĩa (ví dụ như thức và thì) và thông qua dấu hiệu siêu giao tiếp rõ ràng. Những dấu hiệu này đánh dấu của sự chuyển tiếp giữa các giai đoạn hay phản ánh cấu trúc diễn ngôn theo thứ bậc. Trở lại vấn đề mạch lạc, tác giả Dik liên đới khái niệm này với các nguyên tắc về sự sắp chuỗi tự nhiên hoặc theo cú (mạch lạc cục bộ – local coherence) hoặc theo các đơn vị diễn ngôn (mạch lạc phổ quát – global coherence). Dik khẳng định rằng, nói chung những công cụ ngôn ngữ giống nhau đều được sử dụng để tạo ra sự mạch lạc ở cả hai cấp độ, gồm có sáu loại công cụ có thể được miêu tả như sau: khung (frames), chuỗi hình tượng (iconic sequences), tính liên tục của đề ngữ (topic continuity), tiêu điểm (focus), liên kết đuôi-đầu (Tail-Head linking) và từ nối (connectors). Khung (frames) được định nghĩa là “sự biểu đạt về tinh thần và mặt kết cấu của những hành động có thể được chấp nhận và những sự kiện ngôn từ trong mối quan hệ với bối cảnh theo thể chế đã biết” (Dik, 1977, tr.434). Nếu cấu trúc thể chế bao gồm một chuỗi các sự kiện theo tiêu chuẩn, thì khung (frames) được gọi là “bản thảo (script)” (ví dụ như các công thức nấu ăn). Cho dù khung/bản thảo có liên quan đến cấu trúc hay nội dung hay không thì vẫn được xem là một phần của kiến thức nền tổng quát của người phát ngôn giúp họ đánh giá sự mạch lạc của diễn ngôn (xét về tính tương thích với các điều kiện đặt ra bởi khung thích hợp) hay để tạo ra sự mạch lạc trong một diễn ngôn nhờ vào phép suy luận (nghĩa là bằng cách điền vào những giả thiết bắc cầu có liên quan đến khung nhưng không nêu rõ trong văn bản). Chuỗi biểu tượng được xem như một nguồn mạch lạc khác trên giả định rằng, những chuỗi đó phản ánh những sắp xếp theo thứ tự mặc định trên cơ sở tri nhận, như trong ví dụ (4) dưới đây: (4a) She got caught in the rain yesterday and fell ill. (Hôm qua cô ấy bị mắc mưa và cô ấy bị bệnh.) (4b) Before falling ill, Mary got caught in the rain. (Trước khi bị bệnh, cô ấy đã bị mắc mưa.) Ví dụ trên đưa ra chuỗi nguyên nhân – kết quả. Những mặc định tự nhiên khác cũng được đề cập đến đó là đặt sự kiện trước khi kết quả xảy ra, điều kiện trước khi hậu quả gây ra hay đặt hành động trước mục đích. Tính liên tục của chủ đề được đề cập như là một phương thức quan trọng khác để đạt được sự mạch lạc thông qua những cơ cấu như phép quy chiếu hồi chỉ, phép song song cú pháp, quy chiếu chuyển mạch, hiện tượng tỉnh lược và mối quan hệ giữa chủ đề đã biết (chủ đề cũ) (given topics) và chủ đề phụ (sub-topics) dựa trên giả định rằng chủ đề diễn ngôn cùng với khung cấu trúc và khung nội dung (sub-topics) tạo ra một bố cục tự nhiên của diễn ngôn. Dik (1977) giải thích rằng, ví dụ như khi miêu tả một căn hộ (chủ đề) người ta mong đợi rằng, các yếu tố trong khung này như nhà bếp, các phòng,... sẽ được chọn làm đề thể phụ và sẽ được khai triển thành chủ đề đã biết trong những sản phẩm thể hiện tương đương (episodes) (trong một sản phẩm tổng thể) theo một thể loại nào đó – nguyên tắc sắp xếp cụ thể. Ngoài ra, tác giả Dik (1977) còn nhận xét thêm rằng mức độ mạch lạc cũng bị ảnh hưởng bởi việc đặt yếu tố trọng tâm của diễn ngôn trong chuỗi diễn ngôn, như trong ví dụ (5) sau đây. (5) Q: Who are you going to meet in Paris? (Bạn dự định sẽ gặp ai ở Paris?) A1: MY BEST CHILDHOOD FRIEND in Paris. A2: My best childhood friend in PARIS. 115KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v Trong ví dụ (5), trên yếu tố trọng tâm được xác định trước trong câu hỏi, bởi từ để hỏi là “who” yêu cầu một tiêu điểm song song như trong ví dụ A1. Các tham tố của Tiêu điểm (Focality) và Chủ đề (Topicality) được xem là ảnh hưởng đến tính mạch lạc của diễn ngôn theo nghĩa là chúng cùng xác định: sự lựa chọn khung vị ngữ mà qua đó một cú/hành động ngôn từ được phối hợp; sự lựa chọn loại cú/hành động ngôn từ; sự diễn đạt thực sự của đơn vị diễn ngôn đã biết. Cái gọi là liên kết đuôi-đầu (Tail-Head linking) được xem như một công cụ khác trong đó “một cú bắt đầu bởi một thành tố được tóm tắt một cách ngắn gọn là một thành phần thiết yếu của cú hay ngữ cảnh đi trước”. Rõ ràng là loại kết cấu này có điểm chung với những loại phát triển Đề ngữ khác theo trường phái Prague Scholars và trong phạm vi Ngữ pháp Chức năng Hệ thống. Cuối cùng, tác giả Dik (1977, tr.440) đề cập đến những liên kết như một nguồn mạch lạc khác mà vai trò chính của chúng là liên kết một cú mới với một cú trước đó, đồng thời xác định mối quan hệ nghĩa học giữa hai cú như trong ví dụ (6) sau đây. (6) He says that he saw nothing. However, I don’t believe what he says is the truth. (Anh ấy nói đã không nhìn thấy gì cả. Tuy nhiên, tôi không tin những gì anh nói là sự thật.) Trong ví dụ (6) trên, “however” báo trước mệnh đề tiếp theo trái với nội dung được đề cập trong mệnh đề trước đó. Dik (1977) cho rằng từ nối (connectors) không phải là từ liên kết đẳng lập (coordinators). Từ liên kết đẳng lập có chức năng trong phạm vi ngữ pháp câu mặc dù rất nhiều từ nối (connectors) l ... theo phương thức kết hợp; ‘ran’ và ‘crying’ xảy ra đồng thời) (Cậu bé vừa chạy về nhà vừa khóc.) (10b) I am exhausted because I have overworked all this week. (Vị ngữ (e) ‘am exhausted’ biểu đạt nghĩa theo phương thức kết hợp với mệnh đề (X) ‘because I have overworked all this week’ để giải thích lý do vì sao bị mệt.) (Tôi mệt nhoài vì suốt tuần nay tôi làm việc quá sức.) (11c) If you try harder, you will pass the xam with distinction. (Mệnh đề (X): ‘If you try harder’ biểu đạt nghĩa theo phương thức kết hợp.) (Nếu bạn cố gắng hơn nữa, bạn sẽ thi đậu với thứ hạng danh dự.) (12d) Watch out, because the wall is going to collapse. (Phát ngôn (E) ‘Watch out’ biểu đạt nghĩa theo phương thức kết hợp.) (Coi chừng! Bức tường sắp đổ.) (11) Ví dụ về phương thức chuỗi (phỏng theo Hengeveld, Kees (1997), tr. 6-7) (a) but we had a seamstress (nhưng chúng tôi có một cô thợ may) (b) and we were calling her Mietje (và chúng tôi gọi cô ấy là Mietje) (c) But I think we were calling everyone Mietje back then. (Nhưng tôi nghĩ chúng ta đang gọi mọi người là Mietje.) (d) You know, I don’t know why. (Bạn biết đấy, tôi không hiểu tại sao.) (e) but anyway, (nhưng dẫu sao) (f) so that was also a Mietje (cũng là một Mietje) 117KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v (g) And uh – she was from Belgium (Và ơ cô ấy đến từ Bỉ) (h) And there were – she was a Belgian refugee, (Và cô ấy là một người tị nạn người Bỉ) (i) ‘cause during the war, during the First World War (vì trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất) (j) all those refugees were coming from Belgium, (tất cả người tị nạn đó đều đến từ Bỉ) (k) and they were coming to Zealand (và họ đang đến Zealand) (l) and they were looking for work there (và họ đang tìm kiếm việc làm ở đó) (m) And so SHE was ouir seamstress, () Trở lại vấn đề về mối quan hệ liên kết, Hengeveld cũng như Halliday và Hasan (1976) miêu tả các mối liên kết này theo hiện tượng ngôn ngữ học để nhận biết chúng. Tuy nhiên, thêm vào đó, Hengeveld phân loại chúng theo thứ bậc, bản chất và miền, và tùy theo khả năng chúng có thể kết hợp hay liên kết chuỗi hay không (Bảng 2). Bảng 2: Quan hệ liên kết Quan hệ liên kết Cấp độ Chuỗi chủ thể ở cấp độ thuật từ Liên kết từ vựng ở cấp độ vị từ (f) Chuỗi thời gian và tiền/ hậu cảnh sự kiện ở cấp độ vị ngữ (e) Chuỗi tham luận ở cấp độ mệnh đề (X) Chuỗi các hành động ngôn trung (câu hỏi/trả lời) ở cấp độ ngôn trung (F) Động lực của chuỗi ngôn từ ở cấp độ phát ngôn (E) Liên kết Đuôi-Đầu ở cấp độ đoạn văn (M) 3.1.3. Các phương pháp tiếp cận diễn ngôn theo Mô-đun (Modular Approaches) Theo Kroon (1997, tr.17-32) tác giả tiêu biểu của đường hướng tiếp cận theo Mô-đun, đơn vị nhỏ nhất của cấu trúc diễn ngôn không phải là hành động ngôn từ (như theo Hengeveld (1997, tr.1-16), mà là “hành động diễn ngôn.” Tác giả Kroon (1997, tr.17-32) cho rằng, trong khi chức năng giao tiếp của hành động diễn ngôn phụ thuộc vào cấu trúc giao tiếp lớn hơn thì “hành động ngôn từ” được xếp vào loại trong phạm vi câu, mà các đặc điểm ngôn trung được xác định bởi các đặc tính từ vựng và ngữ pháp của cú tách biệt. Tác giả thừa nhận rằng, cấu trúc ngữ pháp và cấu trúc diễn ngôn có quan hệ với nhau thông qua hành động ngôn từ (Mô-đun thứ nhất) và hành động diễn ngôn (Mô-đun thứ hai). Giống như miêu tả tầng bậc ngôn từ của Hengeveld (1997, tr.1-16), mô-đun diễn ngôn của Kroon chứng minh cấu trúc thứ bậc và quan hệ. Kết cấu thứ bậc được mô hình dưới tên gọi thuật ngữ là hành động (act), lượt lời (move), trao lời (exchange), giao dịch và tương tác. Trong khi đó kết cấu quan hệ bao gồm ít nhất ba loại quan hệ: đẳng lập, phụ thuộc, hoặc hai lượt lời trong một trao lời có thể tham gia trong một quan hệ tương tác. Mối quan hệ này xác định mối quan hệ chức năng giữa hai lượt lời trong một tương tác (ví dụ như mời và chấp nhận lời mời). Ngoài ra, Kroon (1997) nhận xét rằng một nghiên cứu đầy đủ về các yếu tố diễn ngôn cần phải cân nhắc đến: mối quan hệ giữa các đơn vị diễn ngôn và bối cảnh ngoài văn bản, kết cấu đề ngữ trong chuỗi chủ đề. 3.1.4. Các phương pháp tiếp cận Diễn ngôn tích hợp (Integrative Approaches): Ngữ pháp diễn ngôn chức năng (Functional Discourse Grammar) Ngữ pháp Diễn ngôn Chức năng đạt đến sự hòa hợp giữa đường hướng tầng lớp và đường hướng theo Mô-đun. Trong mô hình này (2004a), 118 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Hengeveld cho rằng, thành tố khái niệm (có liên quan đến sự phát triển ý định giao tiếp và sự kết hợp các khái niệm hóa thích hợp), thành tố bối cảnh (được hiểu là vùng diễn ngôn bao gồm phạm vi kiến thức của các bên giao tiếp). Thành tố âm học hay yếu tố tương đương của nó dưới dạng tình thái vô thanh, và thành tố ngữ pháp từ trên xuống (top-down) bao gồm các cấp độ: liên nhân, biểu trưng và biểu đạt. Mỗi một cấp độ này được nhận hiểu là một mô-đun riêng biệt và mỗi một mô-đun được xếp theo tầng bậc nội tại. Bảng 3 minh họa các quy tắc nhằm liên kết các mô-đun bao gồm các cấp độ và các đơn vị phân tích. Bảng 3: Mô hình về các cấp độ liên kết (phỏng theo Kroon, Caroline, 1997, tr.17-32) Mức độ Đơn vị cơ bản Liên nhân Khung ngôn trung Từ vị Vận hành tố Biểu trưng Khung vị ngữ Từ vị Vận hành tố Mô hình cấu trúc Hình vị Âm học Mô hình ngôn điệu Âm thanh Hengeveld (1997) nhận xét rằng, sự phân biệt trên xác định vị trí thành tố khái niệm một mặt giữa ý định giao tiếp và mặt khác là các khái niệm hóa được phản ánh trong thành tố ngữ pháp ở cấp độ liên nhân và biểu trưng. Do đó, tiếp theo nghiên cứu của Kroon (1997, tr.17-32), Hengeveld (1997, tr.1-16) giải thích thêm rằng, đơn vị thấp hơn ở mức độ liên nhân không phải là hành động ngôn từ như được thừa nhận trong mô hình của ông mà là hành động diễn ngôn. Ngoài ra, tác giả còn khuyến nghị rằng, một lượt lời, đơn vị tối thiểu trong cấu trúc trao lời, có thể bao gồm chỉ một hành động trung tâm hoặc có thể được bổ sung bởi một hoặc hai hành động phụ. Mỗi một hành động phụ biểu đạt khung ngôn trung của nó (bao gồm tham thể, và luận cứ trong nội dung được giao tiếp). Cấp độ biểu trưng có liên quan đến những miêu tả các thực thể thuộc thứ tự khác nhau khi chúng xuất hiện trong thế giới phi ngôn ngữ (nghĩa là thực thể thuộc thứ tự thứ ba hay nội dung mệnh đề (p), thực thể ở thứ tự thứ hai hay trạng thái sự vụ (e), thực thể ở thứ tự thứ nhất hay cá thể (x), và thực thể không có thứ tự hay đặc tính (f)). Cuối cùng, cấp độ biểu đạt là sự biểu trưng của cấu trúc thành tố. Cấu trúc này bắt đầu ở mức độ đoạn văn (Para), có thể bao gồm một hoặc hai câu (S). Mỗi một câu có thể bao gồm một hoặc hai cú (Cl), mỗi một cú bao gồm một hoặc hai cụm vị từ (PrP) hoặc cụm quy chiếu (RP), mỗi một cụm quy chiếu bao gồm một hoặc hai từ vị (Lex). Ngoài cấu trúc tầng bậc hướng xuống dưới ở cả hai mức độ liên nhân và biểu trưng, Hengeveld cũng nhận xét rằng, cấu trúc tầng bậc hướng lên trên là một đặc tính của tất cả các cấp độ phân tích. Do đó, ở cấp độ liên nhân, kết cấu tầng bậc hướng lên trên có thể bao gồm các lớp lượt vai (turn) và trao lời (exchange) trong các đối thoại, và ở cấp độ biểu trưng các lớp hồi (episode) và truyện (story) trong thể loại kể truyện, và ví dụ như ở cấp độ biểu đạt có phần (section) và chương (chapter) trong giao tiếp dưới dạng văn bản. Mặc dù khả năng các lớp hướng lên trên này cung cấp đầu mối về bản chất cho mô hình diễn ngôn trong phạm vi Ngữ pháp diễn ngôn chức năng, nhưng để giải thích đầy đủ về mạch lạc và những mối quan hệ mạch lạc và cách mà các mối quan hệ này có liên quan đến nhau như thế nào trong ngữ cảnh diễn ngôn, rõ ràng là chúng ta cần phải giải thích sâu hơn những vấn đề này dựa trên sự phân tích toàn bộ những chuỗi diễn ngôn xác thực theo đường hướng khiến nghị của Connolly (1997, tr.89-116). 119KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v 4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ: ĐỊNH HƯỚNG CHO NGƯỜI DẠY TIẾNG VỀ VIỆC HIỂU YẾU TỐ MẠCH LẠC TRONG VĂN BẢN DIỄN NGÔN Nói chung, các phương pháp tiếp cận trên nhằm giúp người dạy có một cái nhìn khá bao quát về mạch lạc và các mối quan hệ về mạch lạc theo các mô hình theo đường hướng của Ngữ pháp chức năng (Functional Grammar), làm mục tiêu định hướng khi giảng dạy ngôn ngữ hướng người học học ngôn ngữ là để sử dụng gắn liền với ngữ cảnh sử dụng cụ thể (language to use in context). Người dạy không nên gượng ép người học học các quy tắc được lý tưởng hóa với những hình thức ngữ pháp cố định tách rời với ngữ cảnh sử dụng. Cụ thể là, ở Việt nam, ngay từ những năm học tiếng Anh ở bậc phổ thông, khi giảng dạy kỹ năng viết, giáo viên nên xem lại và bổ sung những bài tập về luyện viết, chẳng hạn như, giảng dạy cách biểu đạt những cấu trúc ngữ pháp dùng trong đoạn văn trong ngữ cảnh và tình huống sử dụng, thay vì chỉ dừng ở giới hạn là những câu tách biệt. Khi đó, việc giảng dạy và nhấn mạnh với người học rằng, liên kết và mạch lạc là một trong những yếu tố quan trọng để đánh giá chất lượng một văn bản viết. Vì trong một chừng mực nào đó, các loại liên kết và tần suất sử dụng các mối liên kết trong văn bản phản ánh kỹ năng sáng tạo của người viết và ảnh hưởng đến những đặc tính về phong cách và bố cục của văn bản mà người viết tạo lập. Do đó, khi đánh giá văn bản viết của sinh viên (ngay từ cấp độ thấp) về tính thống nhất mạch lạc trong văn bản, người dạy nên áp dụng cách đánh giá theo đề nghị của Feez (1998) qua cách mà người học sử dụng: trường từ vựng (lexical sets), liên kết được tạo lập thông qua các hình thức biểu đạt mối quan hệ đẳng lập (coordinators) hay quan hệ phụ thuộc (subordinators), phép quy chiếu, sự phân phối thông tin trong đoạn văn và cú. Rõ ràng rằng, việc dạy và học ngôn ngữ ngày nay ngay từ cơ sở ban đầu người dạy không những giảng dạy cấu trúc ngữ pháp, mà còn hướng người học nắm vững những kỹ năng tạo lập một diễn ngôn biết chú trọng và thể hiện nội dung cần diễn đạt cũng như mục đích giao tiếp của văn bản hay ngôn bản. 5. KẾT LUẬN Tóm lại, vấn đề về lỗi diễn đạt rời rạc, dài dòng, lủng củng hoặc ngắn ngủn, khô khan, không mạch lạc chiếm đa số trong các bài luận của sinh viên Việt Nam viết tiếng Anh là một trong những vấn đề đáng được quan tâm nghiên cứu để có những biện pháp giúp họ khắc phục và tạo lập văn bản có hiệu quả hơn về mặt học thuật. Hơn nữa, mức độ nhận định về mạch lạc của một văn bản chủ yếu tuỳ thuộc vào khả năng tư duy, thái độ tình cảm, trình độ hiểu biết và kiến thức nền của người đọc. Bên cạnh đó, cũng còn có một số yếu tố cơ bản khác giúp người đọc/người nghe xác định được chuỗi câu mạch lạc và chuỗi câu không mạch lạc. Do đó, việc giảng dạy cho người học hiểu tầm quan trọng của vấn đề mạch lạc và viết diễn đạt trôi chảy để tạo sự rõ ràng cho một văn bản là vô cùng cần thiết. Điều đó đòi hỏi người dạy phải có cái nhìn có hệ thống về mạch lạc và các mối quan hệ về mạch lạc. Do đó, mạch lạc và các mối quan hệ về mạch lạc theo các mô hình tầng bậc, mô-đun và tích hợp trong phạm vi quan điểm Ngữ pháp chức năng (Functional Grammar) có mối tương quan đến đường hướng Ngữ pháp chức năng. Tuy có những giống nhau rõ ràng giữa mô hình của Hengeveld, Kroon và Dik, nhưng cũng có những khác biệt đáng lưu ý. Ý niệm về đường hướng tiếp cận theo mô-đun dường như được nêu rõ trong nghiên cứu của Dik (1977, tr. 409), trong khi đó, đường hướng tiếp cận theo thứ bậc về diễn ngôn và ngữ pháp được xem là tách biệt mặc dù chúng quan hệ và kết cấu diễn ngôn được xem là chứa các thứ bậc biểu trưng và liên nhân. Kroon tách biệt rõ ràng hai thứ bậc này thành hai mô-đun tương đương dù quan hệ nhau, còn Hengeveld (1997, tr.1-16) mặc nhận một thứ bậc đơn gồm chín tầng lớp được nhóm thành ba cấp độ: tu từ (rhetorical), liên nhân (interpersonal) và biểu trưng (representational). Hơn nữa, Hengeveld còn miêu tả lại ngữ pháp trong phạm vi Ngữ pháp chức năng như là một 120 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI đơn vị cấu thành của mô hình phát sinh ngôn ngữ học/mô hình khái niệm bao gồm cấp bậc liên nhân (interpersonal), biểu trưng (representational), và cấu trúc (structural)./. Tài liệu tham khảo: 1. Nunan, D. (1998), Dẫn nhập phân tích diễn ngôn, NXB Giáo dục, Hà Nội. 2. Butler, D., et al (2000), Using Functional Grammar: An Explorer’s Guide. Sydney NSW: Macquaie Univeristy. 3. Brown, G. and Yule, G. (1983), Discourse Analysis. Cambridge: Cambridge University Press. 4. Connolly, J. H. (2004), “The Question of Discourse Representation in Functional Discourse Grammar”. In Machenzie, J. Lachlan/Gosmez- Gonza1lez, Mária de los A1ngeles (eds), pp.89-116. 5. Coulihard, M. (1977), An Introduction to Discourse Analysis. Longman, London. 6. Dik, S. C. (1977), The Theory of Functional Grammar. Part II: Complex and derived constructions (Functional Grammar Series 21). Edited by Kees Hengeveld. Berlin/New York: Mouton de Gruyter. 7. Feez, S. (1998), Text-based Syllabus Design. NCELTR, Sydney: Macquarie Univeristy. 8. Halliday, M.A.K. and Hasan, Ruqalya (1976), Cohesion in English. London: Longman. 9. Hengeveld, K. (1997), Cohesion in Functional Grammar. In Butler, Christopher S./ Connelly, John H./Gatward, Richard A./Vismans, Roel M. (eds) Discourse and Pragmatics in Functional Grammar. Mouton de Gruyter, Berlin/ New York, pp. 1-16. 10. Kroon, C. (1997), Discourse Markers, Discourse Structure and Functional Grammar. In Butler, Christopher S./Connolly, John H./Gatward, Richard A. and Vismans, Roel M. (eds). Discourse and Pragmatics in Functional Grammar, Mouton de Gruyter, New York, pp. 17-32. 11. Sinclair, J. and Coulihard, M. (1975), Toward an Analysis of Discourse, Oxford: Oxford University Press. APPROACHES TO COHERENCE IN ENGLISH WRITTEN DISCOURSE USING FUNCTIONAL GRAMMAR PHAN THI LE HOA Abstract: Coherence is considered one of the characteristics of effective writing. Coherence refers to the organization of written discourse of text by which all elements are clearly and logically connected to each other. There have been a variety of approaches which discuss on how to raise EFL learners’ awareness of importance of textual coherence. This article aims to briefly discuss charactersitics of some approaches using Functional Grammar on coherence in English written discourse. Specifically the paper discusses coherence and its relations explained in the scope of Functional Grammar; through which it tries to investigate some approaches on relations between grammar and discourse: Layering approaches, Modular approaches, Integrative approach: Functional Discourse Grammar in order to direct the teacher and learners to fully comprehending coherence in written discourse in a more systematic way. Keywords: written discourse, coherence, functional grammar Received: 17/01/2018; Revised:10/5/2018; Accepted for publication: 20/5/2018
File đính kèm:
- tiep_can_yeu_to_mach_lac_trong_van_ban_dien_ngon_viet_tieng.pdf