Tiểu luận Phân tích những thành tựu và hạn chế của phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật trước Mác

1. CHỦ NGHĨA DUY VẬT TRƯỚC MÁC

Chủ nghĩa duy vật là một trong hai trường phái cơ bản của triết học.

Xuất hiện ngay từ thời cổ đại khi triết học mới bắt đầu hình thành. Từ đó đến

nay lịch sử phát triển của nó luôn gắn liền với lịch sử phát triển của khoa học

và thực tiễn. Nó đã trải qua nhiều hình thức khác nhau nhưng đều thống nhất

với nhau ở chỗ coi vật chất là cái có trước và cái quyết định ý thức, đề xuất

phát từ bản thân thế giới để giải thích thế giới.

Lịch sử chủ nghĩa duy vật phát triển qua nhiều thời kỳ và ngày càng

hoàn thiện, trở thành một nội dung quan trọng trong chủ nghĩa Mác - Lênin và

được vận dụng rất nhiều trong các lĩnh vực của đời sống. Bây giờ ta sẽ nghiên

cứu từng thời kì lịch sử phát triển của nó.

1.1. Hình thái duy vật chất phác ngây thơ thời cổ đại

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này nói chung là đúng đắn

nhưng mang tính ngây thơ chất phác vì chủ yếu dựa vào quan sát trực tiếp,

chưa dựa vào các thành tựu của các bộ môn khoa học chuyên ngành vì lúc đó

chưa phát triển.

1.1.1. Chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại

Ở Ấn Độ, chủ nghĩa duy vật xuất hiện tương đối sớm và mang những

nét độc đáo, tập trung ở một số trường phái sau:

1.1.1.1. Trường phái Sam Khuya

Vào thời gian đầu, triết lý Samkhuya không thừa nhận "tinh thần vũ trụ

tối cao" phủ nhận sự tồn tại của thần. Ngược lại nó khẳng định thế giới này là

thế giới vật chất. Đã giải thích mọi vật của thế giới là kết quả của sự thống

nhất ba yếu tố. Đó là Sativa (sự trong sáng), Tamas (tính ỳ thụ động) và Rajas

(kích thích động). Khi 3 yếu tố này ở trạng thái cân bằng thì vật chất đầu tiên

chưa biểu hiện nhưng khi cân bằng bị phá vỡ thì sinh thành vạn vật của vũ trụ.Tiểu luận Triết học

Tuy nhiên quan niệm về vật chất của phái Samkhuya còn có nhiều hạn

chế. Họ cho ràng dạng vật chất đầu tiên là không nhận biết được và giải thích

về hình thành vạn vật còn chưa đúng đắn đó là quan niệm về sự hình thành

thế giới hữu hình đa dạng từ thế giới vô hình, đồng nhất.

pdf 21 trang yennguyen 5780
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Phân tích những thành tựu và hạn chế của phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật trước Mác", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Phân tích những thành tựu và hạn chế của phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật trước Mác

Tiểu luận Phân tích những thành tựu và hạn chế của phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật trước Mác
Tiểu luận Triết học 
A. LỜI NÓI ĐẦU 
Lịch sử Triết học là một phần học trong chương trình môn Triết học 
Mác - Lênin ở các trường Đại học và Cao đẳng giúp người học nắm được quá 
trình hình thành phân tích những khái niệm, phạm trù, nguyên lý, qui luật của 
tư duy triết học nhân loại, đồng thời nhận thấy rõ sự ra đời của phát triển của 
triết học Mác - Lênin là một tất yếu hợp qui luật chứ không phải là một trào 
lưu biệt lập nằm ngoài dòng chảy của văn minh nhân loại. 
Hạt nhân lí luận trong Triết học Mác - Lênin là chủ nghĩa duy vật và 
phép biện chứng là những phát sinh lớn nhất của Mác - Ănghen và được 
Lênin kế tục phát triển, là cơ sở lí luận và kim chỉ nam cho hoạt động của các 
Đảng Cộng sản. Tuy nhiên không phải Mác - Ănghen xây dựng nên chúng từ 
mảnh đất không mà phải chọn lựa kế thừa những tư tưởng tiến bộ trong lịch 
sử phát triển trước đó. Vậy quá trình phát triển của chủ nghĩa duy vật và phép 
biện chứng diễn ra như thế nào. Điều đó tôi sẽ làm sáng tỏ trong nội dung bài 
tiểu luận với đề tài: "Phân tích những thành tựu và hạn chế của phép biện 
chứng và chủ nghĩa duy vật trước Mác". 
Mặc dù tôi đã cố gắng tìm tòi với tinh thần trách nhiệm, song do mới 
tiếp xúc với triết học, kiến thức còn nhiều hạn chế chắc chắn không tránh khỏi 
những thiếu sót. Rất mong thầy chủ nhiệm bộ môn cùng các bạn đọc góp ý bổ 
sung để tôi có thể hoàn thiện thêm kiến thức của mình. 
Tôi xin cảm ơn! 
Tiểu luận Triết học 
B. NỘI DUNG 
1. CHỦ NGHĨA DUY VẬT TRƯỚC MÁC 
Chủ nghĩa duy vật là một trong hai trường phái cơ bản của triết học. 
Xuất hiện ngay từ thời cổ đại khi triết học mới bắt đầu hình thành. Từ đó đến 
nay lịch sử phát triển của nó luôn gắn liền với lịch sử phát triển của khoa học 
và thực tiễn. Nó đã trải qua nhiều hình thức khác nhau nhưng đều thống nhất 
với nhau ở chỗ coi vật chất là cái có trước và cái quyết định ý thức, đề xuất 
phát từ bản thân thế giới để giải thích thế giới. 
Lịch sử chủ nghĩa duy vật phát triển qua nhiều thời kỳ và ngày càng 
hoàn thiện, trở thành một nội dung quan trọng trong chủ nghĩa Mác - Lênin và 
được vận dụng rất nhiều trong các lĩnh vực của đời sống. Bây giờ ta sẽ nghiên 
cứu từng thời kì lịch sử phát triển của nó. 
1.1. Hình thái duy vật chất phác ngây thơ thời cổ đại 
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này nói chung là đúng đắn 
nhưng mang tính ngây thơ chất phác vì chủ yếu dựa vào quan sát trực tiếp, 
chưa dựa vào các thành tựu của các bộ môn khoa học chuyên ngành vì lúc đó 
chưa phát triển. 
1.1.1. Chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại 
Ở Ấn Độ, chủ nghĩa duy vật xuất hiện tương đối sớm và mang những 
nét độc đáo, tập trung ở một số trường phái sau: 
1.1.1.1. Trường phái Sam Khuya 
Vào thời gian đầu, triết lý Samkhuya không thừa nhận "tinh thần vũ trụ 
tối cao" phủ nhận sự tồn tại của thần. Ngược lại nó khẳng định thế giới này là 
thế giới vật chất. Đã giải thích mọi vật của thế giới là kết quả của sự thống 
nhất ba yếu tố. Đó là Sativa (sự trong sáng), Tamas (tính ỳ thụ động) và Rajas 
(kích thích động). Khi 3 yếu tố này ở trạng thái cân bằng thì vật chất đầu tiên 
chưa biểu hiện nhưng khi cân bằng bị phá vỡ thì sinh thành vạn vật của vũ trụ. 
Tiểu luận Triết học 
Tuy nhiên quan niệm về vật chất của phái Samkhuya còn có nhiều hạn 
chế. Họ cho ràng dạng vật chất đầu tiên là không nhận biết được và giải thích 
về hình thành vạn vật còn chưa đúng đắn đó là quan niệm về sự hình thành 
thế giới hữu hình đa dạng từ thế giới vô hình, đồng nhất. 
1.1.1.2. Trường phái Nyaya: 
Thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất rất phong phú đa dạng bao 
gồm nhiều sự vật, hiện tượng. Thế giới này tồn tại trong không gian do các 
hạt nhỏ cấu tạo nên và được gọi là nguyên tử. Nguyên tử của thực thể này 
khác nguyên tử của thực thể kia ở chất lượng, hình dạng và cách kết hợp. Các 
vật thể chỉ tồn tại nhất thời, thường xuyên thay đổi và chuyển hoá. Đây quả là 
một quan niệm thiên tài hết sức đúng đắn trong điều kiện khoa học tự nhiên 
thời bấy giờ chưa phát triển. Đã để lại một tư tưởng quý báu cho nhân loại mà 
các nhà duy vật sau này tiếp tục kế thừa và phát huy. 
Tuy nhiên chủ nghĩa duy vật của phái Nyaya còn hạn chế ở chỗ coi thế 
giới vật chất tạo nên bởi 4 yếu tố đất, nước, lửa, không khí, cho rằng nguyên 
tử không biến đổi, không chia cắt được. Âu cũng là do hạ chế về khoa học tự 
nhiên lúc bấy giờ. 
1.1.2. Chủ nghĩa duy vật Trung Hoa cổ đại 
Trung Quốc là một trong những trung tâm văn minh lớn của Phương 
Đông cổ - trung đại. Cùng với những phát minh có tính chất vạch đường trên 
mọi lĩnh vực khoa học tự nhiên , y học, Trung Quốc còn là quê hương của 
nhiều hệ thống triết học lớn. Nhìn một cách tổng thể, các trường phái triết học 
cổ đại Trung Quốc đa phần theo khuynh hướng duy tâm, tuy nhiên vẫn có 
một số tư tưởng duy vật tiến bộ có ý nghĩa to lớn mà điển hình là Mạc Gia. 
Mạc Gia đầu tiên đề xuất quan hệ giữa thực và danh như một phạm trù 
triết học. Chủ trương "lấy thực đặt tên để nêu ra cái thực","cái dùng để gọi 
tên, cái được gọi lên là thực". Điều đó có nghĩa khách quan là tồn tại thực. 
Đồng thời, Mạc Gia cho rằng để đánh giá đúng sai trong thực tế khách 
quan phải dựa vào 3 tiêu chuẩn: trước hết lập luận phải có căn cứ, thứ hai phải 
Tiểu luận Triết học 
được chứng minh và thứ ba lập luận cần có hiệu quả. Thuyết "tam biểu" này 
của Mạc Gia thể hiện thuyết phản ánh của chủ nghĩa duy vật chất phác, các 
học thuyết cùng thời khó sánh kịp. 
Về sau thời Hậu Mạc đã phát triển khía cạnh duy vật lên một tầm cao 
mới. Họ cho rằng sự tồn tại của vật chất là bất diệt, hình thái tồn tại của sự vật 
thì có thay đổi, thời gian, không gian liên hệ mật thiết với sự vận động của sự 
vật. Vật thể vận động trong không gian và thời gian và muốn nhận thức được 
thế giới, trước hết nhờ các khí quan cảm giác (tai, mũi, miệng, mắt, thân) 
đồng thời để nhận thức sâu sắc sự vật, con người phải nhờ tâm, tức là hoạt 
động tư duy là quá trình phân tích so sánh, tổng hợp trừu tượng hoá để đạt 
đến ý nghĩa của nó. Vì vậy họ đã làm rõ mối quan hệ giữa cảm giác và tư duy. 
Các triết gia hậu Mạc còn phân ra tri thức thành 3 loại: "Văn tử" là sự 
hiểu biết nhờ sự truyền thụ của người khác, "Thuyết trị" là kết quả do sự hoạt 
động suy luận đem lại, "Thân trị" là kết quả do sự quan sát, đúc kết kinh 
nghiệm đem lại. 
Những quan điểm duy vật của phái Mạc Gia đã hơn hẳn những phái 
khác về nhận thức lý luận. Hệ thống lôgic của họ đã tấn công vào thuyết hoài 
nghi và bất khả thi của phái Trang - Chu. Đồng thời phê phán khía cạnh duy 
tâm trong học thuyết của phái Công Tôn Long. 
Tuy vậy, học thuyết của Mạc Gia vẫn không tránh khỏi một số sai lầm 
như xem trời là đấng anh minh có quyền lực tối cao, trời tạo ra muôn loài. 
Mạc Tử còn tin có cả quỉ thần giám sát hành vi con người. Dù vậy, những tư 
tưởng của Mạc Gia đã khiến cho thế hệ sau này phải ngưỡng mộ bởi tính 
đúng đắn tiến bộ của nó trong điều kiện hết sức lạc hậu như vậy. Cũng có lẽ 
vì thế mà học phái Mạc Gia đã không có chỗ đứng trong tư tưởng của giai cấp 
phong kiến và bị tuyệt diệt vào đời Tần hán. 
Tiểu luận Triết học 
1.2. Chủ nghĩa duy vật Phương Tây cổ đại 
1.2.1.Triết học Hy Lạp cổ đại 
Thời cổ đại, các ngành khoa học của Hy Lạp đã rất phát triển, đặc biệt 
thiên văn, toán học, y học Triết học duy vật nhờ đó phát triển rực rỡ, chứa 
đựng hầu hết các nội dung cơ bản của nó. Sau đây ta sẽ xem xét một số 
trường phái tiêu biểu. 
1.2.1.1. Hêraclit (530-470 TCN) 
Ông cho rằng thế giới muôn vật không do thần thánh nào tạo nên, cũng 
không phải con người tạo ra mà là do ngọn lửa vĩnh viễn, linh động nhen 
nhóm lên. Mọi sự vật luôn ở trạng thái vận động, biến đổi và chuyển hoá qua 
lại. Ông nêu lên tư tưởng hiện vật đều trôi đi, hiện vật đều biến đổi "người ta 
không thể tắm 2 lần trên 1 dòng sông". 
"Mặt trời luôn luôn luôn đổi mới và vĩnh viễn đổi mới" 
Theo ông nguồn gốc của mọi sự vật thay đổi là sự thống nhất và đấu 
tranh giữa các mặt đối lập trong sự vật. Mọi vật đều nảy nở trong quá trình 
đấu tranh và sự vận động, phát triển liên tục của sự vật tuân theo các yếu tố 
khách quan, qui luật quyết định. 
Về lý luận nhận thức, Hêraclit cho rằng nhận thức là phản ánh hiện 
tượng khách quan. Ông chia quá trình nhận thức ra làm 2 giai đoạn cảm tính 
và lí tính. Hai giai đoạn này có quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể chỉ có 
một giai đoạn tồn tại độc lập. 
Về hạn chế: Hêraclit đã quan niệm lửa là nguồn gốc tạo ra vạn vật. Mọi 
vật trao đổi với lửa và lửa trao đổi với tất cả. Mọi sự biến hoá của sự vật dựa 
trên sự chuyển hoá của chúng thành những dạng vật chất đối lập với bản thân 
chúng. "Nước sinh ra từ cái chết của đất, không khí sinh ra từ cái chết của 
nước, lửa sinh ra từ cái chết của không khí. 
1.2.1.2. Triết học Hy Lạp thế kỷ V 
* Đêmôcrit 
Tiểu luận Triết học 
Ông là nhà Triết học duy vật cổ đại nhất trong thế giới cổ đại. Ông là 
người hiểu biết sâu rộng rất nhiều lĩnh vực: Triết học, toán học, đạo đức học, 
sinh vật học là học trò và người kế tục phát triển quan điểm của Lơxip. 
Đêmôcrit cho rằng nguyên tử không nhìn thấy được, không âm thanh, 
màu sắc và mùi vị. Chúng đồng nhất với nhau về chất nhưng khác nhau về 
hình thức, thứ tự và tư thế. Ông quan niệm nguyên tử là vô hạn về lượng và 
hình thức. Mỗi sự vật đều được cấu tạo bởi những nguyên tử do sự kết hợp 
giữa chúng với nhau theo một trật tự và thế nhất định. 
Sự biến đổi vật chất là do sự thay đổi trình tự sắp xếp của những 
nguyên tử tạo thành còn bản thân nguyên tử thì không thay đổi. 
Nguyên tử luôn vận động trong không gian ông thấy rõ quan hệ chặt 
chẽ giữa vật chất và vận động. Vận động là vốn có của nguyên tử chứ không 
phải được đưa từ ngoài vào. Nhưng ông chưa thấy được nguồn gốc của vận 
động và vận động không chỉ là sự di chuyển trong chân không của các nguyên 
tử. 
Dựa vào thuyết nguyên tử, Đêmôcrit thừa nhận sự ràng buộc lẫn nhau 
theo quy luật nhân quả tính khách qan trong tính tất yếu của sự vật, hiện 
tượng tự nhiên. Đó là đóng góp quan trọng của Đêmôcrit vào triết học duy 
vật. Song ông lại phủ nhận tính ngẫu nhiên, ông coi ngẫu nhiên là một hiện 
tượng không có nguyên nhân. 
Đêmôcrit bác bỏ quan nhiệm về sự sản sinh ra sự sống và con người 
của thần thánh. Theo ông sự sống là kết quả của quá trình biến đổi dần đần từ 
thấp đến cao cảu tự nhiên. Sinh vật đầu tiên sống ở dưới nước, sau đó chuyển 
lên cạn, cuối cùng con người được ra đời. Ông coi cái chết là sự phân tích của 
các nguyên tử tạo nên xác và của những nguyên tử cấu tạo lên tinh hồn chứ 
không phải linh hồn rời khởi thể xác. Tuy quan niệm của Đêmôcrit còn mang 
tính mộc mạc song nó giữ vai trò rất quan trọng trong việc chống các quan 
điểm duy tâm và tôn giáo về tính bất tử của linh hồn người. 
Tiểu luận Triết học 
Đêmôcrit đã có công lao to lớn trong xây dựng lý luận nhận thức giải 
quyết một cách duy vật vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trò của cảm giác 
là điểm khởi đầu của nhận thức và tư duy trong việc nhận thức thế giới. 
Ông cho rằng đối tượng của nhận thức là vật chất, là thế giới xung 
quanh con người và nhờ sự tác động của đối tượng nhận thức vào con người 
nên con người mới nhận thức được. 
Đêmôcrit phân chia nhận thức thành nhận thức mờ tối và nhận thức 
chân lý. Nhận thức mờ tối do các giác quan đem lại còn nhận thức chân lý là 
do sự phân tích sâu sắc về sự vật để nắm bắt bản chất bên trong của nó. 
Triết học duy vật của Đêmôcrit đã đóng vai trò quan trọng trog chủ 
nghĩa vô thần. Ông cho rằng sự tồn tại của thần chẳng qua là sự cách hoá 
những hiện tượng của tự nhiên hay những thuộc tính của con người chẳng hạn 
thần Dớt là sự nhân cách hoá mặt trời, thần ATêna là sự nhân cách hoá thuộc 
tính của con người. 
1.3. Duy vật Tây Âu Trung Cổ Phục Hưng và cận đại: đây là những 
thời kỳ mà chủ nghĩa duy vật có nhiều thắng lợi rực rỡ. 
1.3.1. Fran xiBêcơn (1561 - 1621): 
Là người sáng lập triết học duy vật Anh. Becơn thừa nhận sự tồn tại 
khách quan của Thế giới vật chất khoa học không biết cái gì khác ngoài thế 
giới vật chất, ngoài giới tựnhiên ông cho rằng con người cần phải thống trị 
làm chủ tựnhiên. Điều đó thực hiện được hay không phụ thuộc vào hiểu biết 
của con người. 
Theo BêCơn, nhận thức tốt nhất là đi từ cái riêng lẻ đến cái chung, cái 
trừu tượng. Tri thức chỉ có thể đạt được bằng cách giải quyết những quan hệ 
nhân quả hiểu biết đúng là hiểu biết bằng nguyên nhân. 
Song chủ nghĩa duy vật của Bêcơn là duy vật siêu hình. Ông quy sự 
vận động của vật chất thất thành sự lặp lại vĩnh viễn những hình tứhc bất biến. 
Ông cũng chưa vượt qua được bức tường tôn giáo và nhà thờ để hoàn toàn tự 
do với những tư tưởng khoa học và biết học đặc sắc của mình. 
Tiểu luận Triết học 
1.3.2. Lút Vích Phoi ơ bắc (1807 - 1872): 
Là một nhà nhân vật kiệt suất trước Mác, là nhà tư tưởng của giai cấp 
tư sản dân chủ. Có công lớn trong phê phán chủ nghĩa duy tâm công Hêghen 
nói riêng và chủ nghĩa duy tâm nói chung phê phán tôn giáo, khôi phục chủ 
nghĩa duy vật cổ đại. 
Phoi ơ bắc cho rằng thế giới vật chát không do ai sáng tạo ra, tồn tại 
khách quan không phụ thuộc vào ý thức của con người. Giới tự nhiên vận 
động biến đổi do những nguyên nhân bên trong của nó. 
Ông cho rằng ý thức là sản phẩm của con người. Nếu vật chất chưa tiến 
hoá đến con người thì chưa có ý thức. 
Phoi ơ bắc giải quyết vấn đề nhận thức trên quan điểm duy vật và 
không có gì con người không nhận thức được, chỉ có cái chưa nhận thức được 
mà thôi. 
Tuy nhiên khi khẳng định nhận thức của con người, Phoi ơ bắc nhấn 
mạnh mặt quan sát chứ không quan tâm đến mặt quan trọng tạo nên nhận thức 
là hoạt động thực tiễn. Ông coi thường thực tiễn, hạ thấp vai trò thực tiễn. 
Đồng thời con người mà Phoi ơ bắc nghiên cứu là con người thuần tuý động 
vật. Tức ông chỉ quan tâm đến mặt sinh học mà không quan tâm đến mặt xã 
hội. Vì vậy, con người của Phoi ơ bắc là con người trừu tượng. 
2. PHÉP BIỆN CHỨNG TRƯỚC MÁC 
2.1. Phép biện chứng thời cổ đại 
Phép biên chứng thời cổ đại là phép biện chứng tự phát, ngây thơi và mang 
nặng tính trực quan được hình thành trên cơ sở quan sát tự nhiên, xã hội hoặc 
thông qua kinh nghiệm của bản thân. Ba trung tâm triết học lớn nhất thời bấy 
giờ là: Triết học Trung Hoa cổ đại, triết học Ấn Độ cổ đại và triết học Hy Lạp 
cổ đại. Bên cạnh những đặc điểm chung, do đặc điểm văn hoá cũng như hoàn 
cảnh lịch sử khác nhau nên sự thể hiện tư tưởng biện chứng trong học thuyết 
triết học mỗi trung tâm đều có những đặc điểm riêng không giống nhau. 
Tiểu luận Triết học 
2.1.1. Triết học Trung Hoa cổ đại 
Triết học Trung hoa cổ đại là một nền triết học lớn của nhân loại, có tới 
103 trường phái triết học. Do đặc điểm của bối cảnh lịch sử Trung Hoa lúc đó 
là xã hội loạn lạc, đời sống nhân dân cơ cực, đạo đức suy đồi nên triết học 
Trung hoa cổ đại tập trung vào giải quyết các vấn đề về chính trị - xã hội. 
Những tư tưởng biện chứng thời này chỉ thể hiện khi các nhà triết học kiến 
giải những vấn đề về vũ trụ quan. 
Một trong những học thuyết triết học mang tư tưởng biện chứng sâu sắc là 
Học thuyết Âm - Dương. Đây là một học thuyết triết học được phát triển trên 
cơ sở một bộ sách có tên là Kinh Dịch ... c Hy Lạp cổ đại đã phát triển hết 
sức rực rỡ, trở thành nền tảng cho sự phát triển của triết học phương Tây sau 
này. 
Một trong những nhà triết học điển hình có tư tưởng biện chứng là Heraclit 
(540 - 480 TCN). Theo đánh giá của các nhà kinh điển Mác - Lênin thì 
Heraclit là người sáng lập ra phép biện chứng. Ông cũng là người đầu tiên 
xây dựng phép biện chứng dựa trên lập trường duy vật. 
 Phép biện chứng của Heraclit chưa được trình bày dưới dạng một hệ 
thống các luận điểm khoa học mà hầu như các luận điểm cốt lõi của phép biện 
chứng được đề cập dưới dạng các câu danh ngôn mang tính thi ca và triết lý. 
Tư tưởng biện chứng của Heraclit được thể hiện như sau: 
Một là Quan niệm về sự vận động vĩnh cửu của vật chất. Theo Heraclit thì 
không có sự vật, hiện tượng nào của thế giới là đứng im tuyệt đối, mà trái lại, 
Tiểu luận Triết học 
tất cả đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá. Ông nói: "Chúng ta không 
thể tắm hai lần trên một dòng sông vì nước mới không ngừng chảy trên sông"; 
"Ngay cả mặt trời cũng mỗi ngày một mới". Theo quan điểm của Heraclit thì 
lửa chính là bản nguyên của thế giới, là cơ sở duy nhất và phổ biến nhất của 
tất cả mọi sự vật, hiện tượng. Đồng thời lửa cũng chính là gốc của mọi vận 
động, tất cả các dạng khác nhau của vật chất chỉ là trạng thái chuyển hoá của 
lửa mà thôi. 
Hai là Heraclit nêu lên tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn 
trong mọi sự vật, hiện tượng. Điều đó thể hiện trong những phỏng đoán về 
vai trò của những mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên về "sự 
trao đổi của những mặt đối lập", về "sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối 
lập". Ông nói: "cùng một cái ở trong chúng ta - sống và chết, thức và ngủ, trẻ 
và già. Vì rằng cái này biến đổi là cái kia; và ngược lại, cái kia mà biến đổi 
thành cái này ...". Heraclit đã phỏng đoán về sự đấu tranh và thống nhất của 
những mặt đối lập. Lê nin viết: "Phân đôi cái thống nhất và nhận thức các bộ 
phận đối lập của nó là thực chất của phép biện chứng. Điều này chúng ta đã 
thấy xuất hiện ngay từ nhà biện chứng Heraclit". 
Ba là Theo Heraclit thì sự vận động phát triển không ngừng của thế giới 
do quy luật khách quan (mà ông gọi là Logos) quy định. Logos khách quan là 
trật tự khách quan là mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ 
ngữ học thuyết của con người. Logos chủ quan phải phù hợp với logos khách 
quan. Người nào càng tiếp cận được logos khách quan bao nhiêu thì càng 
thông thái bấy nhiêu. Lý luận nhận thức của Heraclit mang tính biện chứng và 
duy vật sơ khai nhưng cơ bản là đúng. 
Ở thời cổ đại, xét trong nhiều hệ thống triết học khác không có được tư 
tưởng biện chứng sâu sắc như vậy. Chính là những tư tưởng biện chứng sơ 
khai của Heraclit sau này đã được các nhà biện chứng cổ điển Đức kế thừa và 
các nhà sáng lập triết học Macxít đánh giá cao. C.Mác và Ph.Ănghen đã đánh 
Tiểu luận Triết học 
gía một cách đúng đắn giá trị triết học của Heraclit và coi ông là đại biểu xuất 
sắc nhất của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại: "Quan niệm về thế giới một 
cách nguyên thuỷ, ngây thơ nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của các 
nhà Hy Lạp thời cổ và người đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan niệm ấy là 
Heraclit". (1) 
Trong học thuyết về nguyên tử của mình, Đêmôcrit (460 - 370 TCN) đã kế 
thừa quan điểm của Heraclit về vận động. Ông cho rằng vận động của nguyên 
tử là vĩnh cửu và ông đã cố gắng giải thích nguyên nhân vận động của nguyên 
tử là ở bản thân nguyên tử, ở động lực tự thân. Ông cho rằng còn khoảng 
trống hay còn "chân không" trong nguyên tử là điều kiện vận động của nó. 
Tuy nhiên Đêmôcrit đã không lý giải được nguồn gốc của vận động. 
Sau Đêmôcrit là Arixtốt (384 - 322 TCN) ông cho rằngvận động gắn liền 
với các vật thể với mọi sự vật, hiện tượng của giới tự nhiên. Ông cũng khẳng 
định vận động là không thể bị tiêu diệt "Đã có vận động và mãi mãi sẽ có vận 
động". Arixtốt là người đầu tiên đã hệ thống hoá các hình thức vận động 
thành 6 dạng: Phát sinh, tiêu diệt, thay đổi trạng thái, tăng, giảm, di chuyển vị 
trí . 
Tuy nhiên Arixtốt lại dơi vào duy tâm vì cho rằng thần thánh là nguồn gốc 
của mọi vận động. 
Tóm lại, phép biện chứng thời cổ đại về căn bản là đúng nhưng chủ yếu 
mới dựa trên những phỏng đoán, những trực kiến thiên tài. Phép biện chứng 
tự phát thời cổ đại đã nhìn thấy bức tranh chung của thế giới trong sự tác 
động, liên hệ của các mặt đối lập, song chưa đi sâu vào chi tiết của bức tranh. 
Vì vậy, nó không tránh khỏi bị phủ định bởi phép siêu hình trong thời kỳ cận 
đại. 
(1) Ph. Ănghen: Chống Đuyrinh, NXB Sự Thật Hà nội, 1971, tr33. 
Tiểu luận Triết học 
2.2. Phép biện chứng Tây Âu thế kỷ XIV - XVIII 
Suốt trong 4 thế kỷ (từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVIII), sự trưởng thành của 
tư tưởng biện chứng Tây Âu mang nhiều ý nghĩa độc đáo. Phép biện chứng 
trong thời kỳ này phát triển trong thời kỳ thống trị của tư duy siêu hình. 
Sau đêm trường Trung cổ, triết học là thứ triết học kinh viện giáo điều gắn 
với đạo Thiên chúa. Đến thời kỳ Phục hưng, triết học thời kỳ này đã khôi 
phục lại những tư tưởng duy vật cổ đại nhưng vẫn còn mang tính phiếm thần, 
yếu tố duy vật xen lẫn duy tâm. Tuy nhiên phép biện chứng thời kỳ này vẫn 
có bước phát triển như tư tưởng về "sự phù hợp của các mặt đối lập" của 
Gioocdanơ Brunô (1548 -1600). Theo G.Brunô mọi cái đều liên hệ với nhau 
và đều vận động, kể từ các hạt vật chất nhỏ nhất - nguyên tử đến vô số thế 
giới của vũ trụ vô tận, cái này tiêu diệt cái kia ra đời. Nếu không theo nguyên 
tắc "các mặt đối lập phù hợp với nhau" thì dù là nhà toán học, nhà vật lý, cả 
nhà triết học cũng không làm việc được. 
Một trong những đại biểu của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại là Ph.Bêcơn 
(1561 - 1626). Ph.Bêcơn khẳnh định vật chất không tách rời vận động, nhận 
thức bản chất của sự vật là nhận thức sự vận động của chúng. Ông đã tiến 
hành phân vận động thành 19 loại. Tuy nhiên tính chất siêu hình của ông thể 
hiện: Ông quy mọi loại vận động về vận động cơ học. Song cống hiến của ông 
là ở chỗ coi đứng yên là một hình thức của vận động, coi vận động là đặc tính 
cố hữu của vật chất, ông là người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất 
của thế giới. 
Trong thời kỳ cận đại, khoa học tự nhiên đã phát triển và đi sâu mổ xẻ 
phân tích giới tự nhiên thành những bộ phận nhỏ để nghiên cứu. Những 
phương pháp đó đã tạo ra thói quen nghiên cứu xem xét sự vật trong trạng 
thái cô lập, tách rời và bất biến. Từ khi Ph.Bêcơn và Lốccơ đem phương pháp 
trong khoa học tự nhiên áp dụng vào triết học thì phương pháp siêu hình trở 
thành phương pháp thống trị trong triết học. 
Tiểu luận Triết học 
Phương pháp siêu hình đó đóng một vai trò tích cực nhất định trong quá 
trình nhận thức giới tự nhiên, phương pháp đó chỉ thích ứng với trình độ sưu 
tập, mô tả giới tự nhiên. Do đó khi khoa học chuyển sang nghiên cứu các quá 
trình phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tượng thì nó bộc lộ rõ những hạn 
chế. Vì vậy nó không tránh khỏi bị phủ định bởi phép biện chứng của triết học 
cổ điển Đức với đỉnh cao là phép biện chứng Hêghen. 
2.3. Phép biện chứng cổ điển Đức 
Như Lênin đã từng đánh giá: Dù có sự thần bí hoá duy tâm, nhưng phép 
biện chứng cổ điển Đức đã đặt ra sự thống nhất giữa phép biện chứng và logic 
học và lý luận nhận thức. Trong các nền triết học trước C. Mác thì triết học cổ 
điển Đức có trình độ khái quát hoá và trừu tượng hoá cao với kết cấu hệ thống 
chặt chẽ, logic. Đây là tiến bộ của nền triết học Đức so với các nền triết học 
khác. Nền triết học cổ điển Đức bắt đầu từ Kantơ, đạt đỉnh cao ở Hêghen sau 
đó suy tàn ở triết học Phoiơbắc. 
Kantơ (1724 - 1804) là người sáng lập ra trường phái triết học cổ điển 
Đức. Ông cho rằng chỉ khi nhận thức ở trình độ lý tính thì mới có mâu thuẫn 
mà chưa thấy được rằng mâu thuẫn là vốn có trong hiện thực khách quan. 
Mâu thuẫn chưa phải là mâu thuẫn biện chứng giữa chính đề và phản đề, chưa 
có sự thống nhất và chuyển hoá lẫn nhau. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng 
trong vấn đề này Kantơ đã tiến gần đến phép biện chứng. 
Hêghen (1770 -1831) là nhà biện chứng lỗi lạc. Phép biện chứng của ông 
là một tiền đề lý luận quan trọng của triết học Mácxit. Triết học của ông có 
ảnh hưởng rất mạnh đến tư tưởng của nước Đức và cả Châu Âu đương thời, 
triết học của ông được gọi là "tinh thần Phổ". Phép biện chứng của Hêghen là 
phép biện chứng duy tâm tức là phép biện chứng về sự vận động và phát triển 
của các khái niệm được ông đồng nhất với biện chứng sự vật. Ông viết: "phép 
biện chứng nói chúng là nguyên tắc của mọi vận động, mọi sự sống và mọi 
hoạt động trong phạm vi hiện thực. Cái biện chứng là linh hồn của mọi nhận 
Tiểu luận Triết học 
thức khoa học chân chính "(1). Luận điểm xuyên suốt trong hệ thống triết học 
của Hêghen là: "Tất cả cái gì là hiện thực đều là hợp lý và tất cả những gì hợp 
lý đều là tồn tại"(2). 
Hêghen là người đã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và là 
người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, xã hội và tư duy một cách biện 
chứng, có nghĩa là trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. 
Trong logic học, Hêghen không chỉ trình bày các phạm trù triết học như 
lượng - chất, vật chất - vận động mà còn đề cập đến các quy luật khác như 
lượng đổi dẫn đến chất đổi, quy luật phủ định biện chứng. Nhưng tất cả chỉ là 
những quy luật vận động, phạm trù của tư duy, của khái niệm. 
Khi nghiên cứu xã hội, Hêghen khẳng định sự phát triển cuả xã hội là sự đi 
lên. Quá trình phát triển của lịch sử có tính kế thừa. Lịch sử là tính thống nhất 
giữa tính khách quan và chủ quan trong hoạt động của con người. Hêghen đã 
có công xây dựng một hệ thống các phạm trù và quy luật của phép biện chứng 
như là những công cụ của tư duy biện chứng. 
Trong khi hệ thống triết học của Hêghen chứa đựng những tư tưởng biện 
chứng sâu sắc thì cách trình bày của ông lại mang tính duy tâm bảo thủ, thể 
hiện ở: Sự vận động của xã hội là do sự vận động của tư duy (ý niệm tuyệt 
đối) sinh ra. Do đó mà C.Mác gọi phép biện chứng của Hêghen là: "Phép biện 
chứng đi lộn đầu xuống đất". Vì vậy, cần phải đặt nó đứng bằng hai chân trên 
mảnh đất hiện thực, nghĩa là trên quan điểm duy vật. 
(1) Triết học dành cho cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên nghành triết học, NXB Chính trị quốc 
gia, 1997, tập 1, tr331. 
(2) C.Mác -Ph.Ănghen, Tuyển tập, NXB Sự Thật, Hà nội, 1984, tr361. 
Tiểu luận Triết học 
Tiểu luận Triết học 
C. KẾT LUẬN 
Chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong lịch sử trước Mác là 
những kho tàng quý giá để lại cho thế giới loài người mà sau này Mác và Ăng 
ghen là những người kế tục hoàn hảo nhất. Đặc biệt là duy vật HyLạp cổ đại, 
duy vật phoi ơ bắc và phép biện chứng của Hêghen. Hai ông nhiều lần nói 
rằng, trong sự phát triển của mình, hai ông chịu ơnnhièu nhà triết học Đức và 
là học trò của triết học HyLạp cổ đại. 
Tuy trong từng thời kỳ các tư tưởng duy vật và biện chứng còn có 
những hạn chế riêng song đã đóng góp tích cực vào kho tàng nhận thức của 
nhân loại. Lịch sử tư tưởng và thực tiễn cho thấy chỉ khi nào đứng trên quan 
điểm duy vật và nắm vững lý luận phép biện chứng, chúng ta mới có thể nhận 
thức được các sự vật, một cách khoa học, bản chất và giải quyết các mối quan 
hệ một cách đúng đắn, mới có thể cải tạo tự nhiên biến đổi xã hội theo hướng 
phát triển. Ngược lại các quan điểm duy tâm duy ý chí siêu hình sẽ dẫn đến 
sai lầm, khuyết điểm gây tổn thất cho quá trình phát triển của xã hội. 
Vì vậy học tập nghiên cứu sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa 
duy vật và phép biện chứng là hết sức cần thiết. Nó giúp ta nắm vững phép 
biện chứng duy vật, thấu suốt những phương pháp luận đồng thời nắm được 
nguồn gốc ra đời, hình thành, phát triển qua quá trình đấu tranh gay gắt với 
chủ nghĩa duy tâm và các quan điểm siêu hình để khẳng định được vị trí to 
lớn của nó trong nhận thức và cải tạo thế giới. 
Hiện nay đất nước ta đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, 
việc nghiên cứu lịch sử chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng là nhu cầu bức 
thiết để đổi mới tư duy. Nghiên cứu từ lịch sử của nó cũng à một phương 
pháp biện chứng trong nghiên cứu triết học. Đảng ta khảng định nguyênt ắc 
là phải trung thành với Mác - Lênin, giữ đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, 
không che giấu sai lầm và phải vận dụng sáng tạo phương pháp biện chứng 
Tiểu luận Triết học 
Mác Xít để khắc phục những sai lầm xây dựng thành công nhà nước xã hội 
chủ nghĩa. 
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1- GT Triết học Mác- Lê Nin - NXB Chính trị Quốc gia. 
2- Tạp chí Triết học số 423 
3- Tạp chí Cộng sản số tháng 2/2000; 10/2004 
4- Tạp chí phát triển kinh tế. 
5- Tạp chí Thời báo kinh tế. 
Tiểu luận Triết học 
MỤC LỤC 
A. Lời nói đầu ................................................................................................... 1 
B. Nội dung ....................................................................................................... 2 
1. Chủ nghĩa duy vật trước Mác.................................................................... 2 
1.1. Hình thái duy vật chất phác ngây thơ thời cổ đại .............................. 2 
1.1.1. Chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại................................................. 2 
1.1.1.1. Trường phái Sam Khuya...................................................... 2 
1.1.1.2. Trường phái Nyaya: ............................................................. 3 
1.1.2. Chủ nghĩa duy vật Trung Hoa cổ đại .......................................... 3 
1.2. Chủ nghĩa duy vật Phương Tây cổ đại............................................... 5 
1.2.1.Triết học Hy Lạp cổ đại ............................................................... 5 
1.2.1.1. Hêraclit (530-470 TCN)....................................................... 5 
1.2.1.2. Triết học Hy Lạp thế kỷ V ................................................... 5 
1.3. Duy vật Tây Âu Trung Cổ Phục Hưng và cận đại: đây là những thời 
kỳ mà chủ nghĩa duy vật có nhiều thắng lợi rực rỡ. ................................ 7 
1.3.1. Fran xiBêcơn (1561 - 1621):....................................................... 7 
1.3.2. Lút Vích Phoi ơ bắc (1807 - 1872): ............................................ 8 
2. Phép biện chứng trước Mác ...................................................................... 8 
2.1. Phép biện chứng thời cổ đại ............................................................... 8 
2.1.1. Triết học Trung Hoa cổ đại ......................................................... 9 
2.1.2. Triết học Ấn độ cổ đại.............................................................. 10 
2.1.3 Triết học Hy Lạp cổ đại ............................................................. 11 
2.2. Phép biện chứng Tây Âu thế kỷ XIV - XVIII ................................. 14 
2.3. Phép biện chứng cổ điển Đức .......................................................... 15 
C. Kết luận....................................................................................................... 18 
D. Tài liệu tham khảo...................................................................................... 19 
Tiểu luận Triết học 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_phan_tich_nhung_thanh_tuu_va_han_che_cua_phep_bien.pdf