Vật liệu hấp phụ khí CO2 trên cơ sở nhựa polystyren tẩm phủ bởi polyetylenimin
Tóm tắt: Vật liệu hấp phụ khí CO2 được chế tạo bằng cách tẩm phủ hạt
nhựa xốp polystyren (PS) bởi polyetylenimin (PEI) theo phương pháp rung siêu
âm. Vật liệu thu được có cấu trúc lỗ xốp trung bình và độ bền nhiệt cao. Vật liệu
có tốc độ hấp phụ nhanh, dung lượng hấp phụ đạt cực đại sau 36 phút ở nhiệt độ
30oC. Vật liệu với lượng PEI tẩm phủ 50% trên nền nhựa PS cho dung lượng hấp
phụ khí CO2 cao nhất đạt 115 mg/g.
Bạn đang xem tài liệu "Vật liệu hấp phụ khí CO2 trên cơ sở nhựa polystyren tẩm phủ bởi polyetylenimin", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vật liệu hấp phụ khí CO2 trên cơ sở nhựa polystyren tẩm phủ bởi polyetylenimin
Hóa học & Kỹ thuật môi trường N. V. Hoành, , T. V. Khanh, “Vật liệu hấp thụ khí CO2 tẩm phủ bởi polyetylenimin.” 180 VẬT LIỆU HẤP PHỤ KHÍ CO2 TRÊN CƠ SỞ NHỰA POLYSTYREN TẨM PHỦ BỞI POLYETYLENIMIN Ngô Văn Hoành*, Nguyễn Minh Trí, Lê Hồng Minh, Đoàn Tuấn Anh, Trần Văn Khanh Tóm tắt: Vật liệu hấp phụ khí CO2 được chế tạo bằng cách tẩm phủ hạt nhựa xốp polystyren (PS) bởi polyetylenimin (PEI) theo phương pháp rung siêu âm. Vật liệu thu được có cấu trúc lỗ xốp trung bình và độ bền nhiệt cao. Vật liệu có tốc độ hấp phụ nhanh, dung lượng hấp phụ đạt cực đại sau 36 phút ở nhiệt độ 30oC. Vật liệu với lượng PEI tẩm phủ 50% trên nền nhựa PS cho dung lượng hấp phụ khí CO2 cao nhất đạt 115 mg/g. Từ khóa: Hấp phụ CO2, Nhựa polystyren, Polyetylenimin, Tẩm phủ, Rung siêu âm. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong môi trường kín và bán kín trên tàu vũ trụ, tàu ngầm, tàu chiến, khí CO2 không ngừng được sinh ra từ các quá trình: hô hấp của con người, oxi hóa của vật liệu và sự vận hành của máy móc cơ khí. Nồng độ khí CO2 tăng cao trong không khí ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, khả năng tác chiến của thủy thủ [1-2]. Những năm gần đây, vật liệu amin dạng rắn đang được nghiên cứu rộng rãi nhằm thay thế vật liệu hấp thụ truyền thống dạng lỏng như monoethanolamin (MEA), etylendiamin (EDA)... để xử lý khí CO2 trong các không gian kín và bán kín [3-5]. Các nghiên cứu chỉ ra rằng vật liệu amin dạng rắn cho dung lượng hấp phụ CO2 cao, năng lượng giải hấp thấp, độ chọn lọc cao, chịu nước tốt [6-8]. Các nhựa hấp phụ có cấu trúc lỗ xốp như polystyren (PS) và polymetylmetacrylat (PMMA) có diện tích bề mặt và thể tích lỗ xốp lớn, đường kính lỗ xốp đồng đều tạo điều kiện tốt cho các phân tử polyetylenimin (PEI) phân tán vào trong và lên trên bề mặt hạt nhựa [9-10]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng phương pháp rung siêu âm để tẩm phủ polyetylenimin có phân tử lượng trung bình Mn=600 lên nhựa PS (Diaion, Mitsubishi) có diện tích bề mặt riêng 717 m2/g, thể tích lỗ xốp 1,6 cm3/g. Các đặc trưng cấu trúc, đặc tính hấp phụ khí CO2 của vật liệu được tập trung nghiên cứu từ đó lựa chọn điều kiện chế tạo phù hợp để tối ưu hóa quá trình chế tạo và điều kiện hấp phụ khí CO2 của vật liệu. 2. THỰC NGHIỆM 2.1. Hóa chất, thiết bị 2.1.1. Hóa chất và thiết bị thí nghiệm- Nhựa PS (Diaion, Mitsubishi) - Polyetylenimin (Mw=600, PA, TQ) - Metanol (PA, TQ) - Cân điện tử OHAUS (Pioneer, Mỹ) - Máy khuấy từ gia nhiệt RH Basic 1 - Máy rung siêu âm UC-4360L - Bộ cất quay chân không RVO 400SD - Tủ sấy Model 101-2 (HuYue, TQ) - Tủ sấy chân không Yamato DPA-30 Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 52, 12 - 2017 181 2.1.2. Thiết bị phân tích - Thiết bị phổ hồng ngoại model Brucker Tensor II. - Thiết bị phân tích hấp phụ và giải hấp phụ khí N2 Micromerictics Tristar 3000 V6.07A. - Thiết bị phân tích nhiệt model NETZSCH STA 409PC. 2.2. Chế tạo vật liệu Vật liệu amin dạng rắn được chế tạo bằng phương pháp rung siêu âm theo các bước: - Xử lý sơ bộ nhựa nền: Sấy nhựa trong tủ sấy chân không ở nhiệt độ 80oC trong 5 giờ để loại bỏ nước, hợp chất hữu cơ (dung môi, chất tạo xốp, chất ổn định) còn sót lại trong quá trình chế tạo. - Cho một lượng nhựa nền nhất định vào dung dịch metanol, rung siêu âm trong vòng 30 phút. - Cho một lượng polyetylenimin vào dung dịch trên, khuấy đều ở nhiệt độ 40oC trong vòng 1 giờ, rung siêu âm trong vòng 30 phút. Loại bỏ dung môi bằng bộ cất quay chân không ở nhiệt độ 60oC, áp suất 200 bar. Sấy mẫu chất thu được trong tủ sấy chân không ở 80oC trong 2 giờ. Mẫu chất được đặt tên PEI/PS-X, trong đó, X là tỉ lệ phần trăm khối lượng PEI so với nhựa nền được sử dụng trong quá trình chế tạo. 2.3. Xác định đặc trưng và đặc tính hấp phụ - Phổ IR mẫu vật liệu được ghi trên thiết bị Brucker Tensor II. - Diện tích bề mặt riêng và cấu trúc lỗ xốp của vật liệu được xác định bằng thiết bị phân tích hấp phụ và giải hấp phụ khí N2 Micromerictics Tristar 3000 V6.07. - Đặc tính hấp phụ khí CO2 của vật liệu được xác định trên thiết bị phân tích nhiệt vi sai NETZSCH STA 409PC theo quy trình như sau: Khí CO2 (độ tinh khiết 99,99%) được dùng cho quá trình hấp phụ, khí N2 (độ tinh khiết 99,995%) được dùng để giải hấp. Cho một lượng mẫu vật liệu hấp phụ vào cốc đựng mẫu, thổi khí N2 qua (lưu lượng 100ml/phút), gia nhiệt mẫu lên 110oC và duy trì nhiệt độ này trong vòng 70 phút để loại bỏ nước và CO2 không khí hấp phụ trên bề mặt vật liệu cho đến khi khối lượng vật liệu không đổi. Hạ nhiệt xuống 30oC, cho dòng CO2 (100ml/phút) đi qua cốc mẫu trong 60 phút. Dung lượng hấp phụ được tính bằng khối lượng mẫu tăng lên sau quá trình hấp phụ. Mẫu vật liệu sau hấp phụ được gia nhiệt lên 110oC và thông khí N2 trong 70 phút để khảo sát khả năng giải hấp khí CO2 của vật liệu. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Kết quả khảo sát đặc trưng vật liệu Kết quả phân tích hồng ngoại các mẫu nhựa PS, vật liệu PEI/PS-20; PEI/PS-40; PEI/PS-60 như hình 1 cho thấy: các tần số đặc trưng cho các liên kết trong phân tử polyetylenimin đều xuất hiện trong các mẫu vật liệu chế tạo. Đó là các tần số tại 3300 cm-1 đặc trưng cho động hóa trị liên kết N-H; Tại 1560 cm-1 và 1490 cm-1 đặc trưng cho dao động biến dạng bất đối xứng và đối xứng của nhóm -NH2; Tại 1290 cm -1 đặc trưng cho dao động hóa trị C-N; Phổ IR của nhựa PS không cho các tần số đặc trưng này. Pic tại 2850 cm-1 đặc trưng cho dao động hóa trị -CH2- có cường độ mạnh dần khi lượng PEI tẩm phủ tăng. Như vậy, phân tử polyetylenimin đã được mang thành công lên nhựa PS. Đồng thời, cường độ các đỉnh đặc trưng cho phân tử PEI có xu hướng mạnh lên khi lượng PEI tăng dần chứng tỏ phân tử PEI có khả năng phân tán tốt vào các lỗ xốp bên trong và trên bề mặt hạt nhựa PS. Hóa học & Kỹ thuật môi trường N. V. Hoành, , T. V. Khanh, “Vật liệu hấp thụ khí CO2 tẩm phủ bởi polyetylenimin.” 182 Hình 1. Phổ hồng ngoại các mẫu vật liệu với lượng PEI khác nhau. Đường hấp phụ - giải hấp phụ đẳng nhiệt của nhựa PS và vật liệu chế tạo cho thấy nhựa PS và vật liệu chế tạo có đường hấp phụ khí N2 dạng IV. Diện tích bề mặt riêng và thể tích lỗ xốp có xu hướng giảm khi lượng PEI tẩm phủ tăng. Vật liệu thu được cho dung lượng hấp phụ N2 giảm rõ rệt so với nhựa nền, nhưng vẫn có đường hấp phụ đẳng nhiệt khí N2 của vật liệu có lỗ xốp trung bình. Điều này chứng tỏ các phân tử PEI đã khuếch tán vào các lỗ xốp bên trong hạt nhựa, bịt kín các lỗ xốp kích thước nhỏ, chỉ còn lại các lỗ xốp có kích thước lớn hơn. Các lỗ xốp còn lại này trở thành đường khuếch tán khí CO2 vào bên trong vật liệu khi tiến hành hấp phụ. (a) (b) Hình 2. Đường đẳng nhiệt hấp phụ - giải hấp phụ (a) và phân bố lỗ xốp BJH (b) của các mẫu vật liệu. Kết quả phân tích nhiệt hình 3 cho thấy, hiệu ứng giảm khối lượng của vật liệu chế tạo được chia thành 3 giai đoạn rõ rệt. Ở nhiệt độ dưới 100oC, sự bay hơi của nước và các chất khí hấp phụ trên bề mặt vật liệu gây ra hiệu ứng sụt giảm khối lượng hình thành pic tại 82,2oC. Sự phân hủy của các liên kết trong phân tử polyetylenimin dẫn đến hiệu ứng sụt giảm khối lượng tại 351,8oC. Từ 400oC, mẫu vật liệu bắt đầu phân hủy mạnh, sự phân hủy của phân tử nhựa PS gây ra hiệu ứng sụt giảm khối lượng tại 452,1oC. Đến 600oC, vật liệu hầu như phân hủy hoàn toàn và không còn tiếp tục sụt giảm khối lượng, lượng cốc hóa chiếm khoảng 10% khối lượng mẫu. Tiến hành so sánh giản đồ phân tích nhiệt của vật liệu PEI/PS-40 với nguyên liệu là polyetylenimin và nhựa PS cho thấy, giản đồ DTG của vật liệu chế tạo xuất hiện đầy đủ các pic của nguyên liệu, khả năng chịu nhiệt được tăng cường. Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 52, 12 - 2017 183 Hình 3. Giản đồ phân tích nhiệt mẫu vật liệu PEI/PS-40. Như vậy, khi tẩm phủ PEI lên nhựa nền PS thu được vật liệu khá bền nhiệt, có thể sử dụng lâu dài ở điều kiện nhiệt độ cao. 3.2. Khảo sát đặc tính hấp phụ Để đánh giá ảnh hưởng lượng PEI tẩm phủ đến dung lượng hấp phụ của vật liệu chế tạo, chúng tôi chế tạo và khảo sát dung lượng hấp phụ của các mẫu vật liệu PEI/PS-20, PEI/PS-30, PEI/PS-40, PEI/PS-50 và PEI/PS-60 ở nhiệt độ hấp phụ 30oC. Kết quả cho thấy dung lượng hấp phụ khí CO2 tăng dần khi lượng PEI tẩm phủ tăng dần từ 20% đến 50% và đạt giá trị cao nhất là 115 mg/g với mẫu PEI/PS-50. Tuy nhiên, khi lượng PEI tăng lên 60% thì dung lượng hấp phụ sụt giảm khá mạnh. Hình 4. Ảnh hưởng của tỷ lệ tẩm phủ đến dung lượng hấp phụ. Dung lượng hấp phụ phụ thuộc rất lớn vào diện tích bề mặt và thể tích lỗ xốp của chất hấp phụ. Khi lượng PEI tẩm phủ tăng, hàm lượng nhóm amin của vật liệu tăng khiến dung lượng hấp phụ tăng. Nhưng khi lượng PEI tẩm phủ tăng cao, lấp đầy vào các lỗ xốp của nhựa nền, cản trở sự khuếch tán của CO2 khiến không thể tiếp xúc với các nhóm amin trong lòng vật liệu để xảy ra phản ứng hấp phụ khiến dung lượng hấp phụ giảm. Điều này hoàn toàn phù hợp với kết quả đo diện tích bề mặt riêng và thể tích lỗ xốp của các mẫu vật liệu chế tạo trong bảng 1. Bảng 1. Độ xốp của các mẫu vật liệu chế tạo. Mẫu vật liệu Diện tích bề mặt riêng (SBET) (m 2/g) Thể tích lỗ xốp (Vp) (cm3/g) Nhựa nền PS 717 1,60 Mẫu PEI/PS-20 276 1,18 Hóa học & Kỹ thuật môi trường N. V. Hoành, , T. V. Khanh, “Vật liệu hấp thụ khí CO2 tẩm phủ bởi polyetylenimin.” 184 Mẫu PEI/PS-30 189 1,14 Mẫu PEI/PS-40 154 0,88 Mẫu PEI/PS-50 99 0,72 Mẫu PEI/PS-60 88 0,70 Từ đặc tính hấp phụ của các vật liệu chế tạo, chúng tôi quyết định lựa chọn vật liệu có lượng PEI tẩm phủ là 50% trên nền nhựa PS để tiến hành các nghiên cứu tiếp theo. Hấp phụ hóa học thường tỏa nhiệt do quá trình tạo liên kết giữa chất hấp phụ và chất bị hấp phụ. Tiến hành hấp phụ ở nhiệt độ cao thường cho tốc độ hấp phụ khá nhanh, nhưng dung lượng hấp phụ thường thấp hơn khi hấp phụ ở nhiệt độ thấp. Sử dụng hai mức nhiệt độ là 30oC và 50oC để khảo sát đặc tính hấp phụ của mẫu PEI/PS-50 với CO2, từ đó, làm rõ ảnh hưởng của nhiệt độ đến đặc tính hấp phụ CO2 của vật liệu. Hình 5. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến dung lượng hấp phụ. Kết quả khảo sát trong hình 5 cho thấy, tốc độ hấp phụ ở nhiệt độ 50oC cao hơn nhiều so với ở 30oC. Ở nhiệt độ 50oC, hấp phụ đạt bão hòa sau khi tiến hành hấp phụ 16 phút, trong khi ở 30oC, hấp phụ bão hòa đạt được sau 36 phút. Sau khi đạt hấp phụ bão hòa, nếu tiếp tục tiến hành hấp phụ, ở nhiệt độ 50oC sẽ diễn ra quá trình sụt giảm khối lượng. Điều đó chứng tỏ đã diễn ra quá trình giải hấp yếu ở dải nhiệt độ này. Thời gian hấp phụ là một yếu tố để đánh giá khả năng ứng dụng của vật liệu hấp phụ. Kết quả hình 5 cho thấy, tùy vào nhiệt độ hấp phụ mà thời gian đạt dung lượng hấp phụ cực đại cũng khác nhau. Tiến hành hấp phụ ở nhiệt độ cao khiến vật liệu đạt dung lượng hấp phụ cực đại nhanh hơn nhưng tiếp tục kéo dài thời gian hấp phụ không làm tăng thêm dung lượng hấp phụ mà khiến dung lượng sụt giảm. Kết hợp các yếu tố nhiệt độ, thời gian hấp phụ, dung lượng hấp phụ, chúng tôi lựa chọn điều kiện để tiến hành hấp phụ của vật liệu là ở nhiệt độ hấp phụ là 30oC với thời gian hấp phụ là 36 phút. 4. KẾT LUẬN Vật liệu hấp phụ khí CO2 được chế tạo thành công bằng việc tẩm phủ polyetylenimin (PEI) lên nhựa polystyren có cấu trúc lỗ xốp. Vật liệu chế tạo có cấu trúc lỗ xốp trung bình (Vp=0,72 cm 3/g) và diện tích bề mặt khá cao (SBET=99 m 2/g). Nhựa nền PS làm tăng độ bền nhiệt cho polyetylenimin, vật liệu thu được có khả năng làm việc ổn định ở nhiệt độ dưới 300oC. Vật liệu có khả năng hấp phụ khí tốt khí CO2, mẫu PEI/PS-50 với tỷ lệ tẩm phủ 50% cho dung lượng hấp phụ khí CO2 lớn nhất đạt 115 mg/g sau 36 phút ở nhiệt độ 30oC. Lời cảm ơn: Nhóm tác giả cảm ơn sự tài trợ về kinh phí của đề tài cấp Viện Hóa học - Vật liệu cho nghiên cứu này. Nghiên cứu khoa học công nghệ Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 52, 12 - 2017 185 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Martin B. Hocking, “Air Quality in Airplane Cabins and Similar Enclosed Spaces”, The Handbook of Environmental Chemistry (2005). [2]. Susan A. Rice et al, “Health effects of acute and prolonged CO2 exposure in normal and sensitive population”, Second annual conference on carbon sequestration, Alexandria, Virgnia, USA, (2003), pp. 2-7. [3]. Satyapal. S., Filburn. T. P, Trela. J, Strange. J, “Novel solid amine sorbents and applications for carbon dioxide removal”, Abstracts of Papers of the American Chemical Society, Vol 220, No. 43, (2000), pp. 655 - 659. [4]. Sunita Satyapal, Tom Filburn, H. Havey Michels, John Graf, “A unique solid amine sorbent useful for capturing low concentrations of carbon dioxide”, Greeenhouse Gas Control Technologies, (1999), pp. 113 - 119. [5]. V. Zelenak, D. Halamova, L. Gaberova, E. Bloch, P. Llewellyn, “Amine-modified SBA-12 mesoporous silica for carbon dioxide capture: Effect of amine basicity on sorption properties”, Microporous and Mesoporous Materials, Vol 116 (2008), pp. 358 - 364. [6]. Lin Jie, Jiang Wei, “Development of amine-based solid sorbent for separation of low- concentration CO2 from confined space”, Environment Engineering, Vol 32 (2004), pp. 376 - 380. [7]. D.W.F. Brilman, R. Veneman, “Capturing atmospheric CO2 using supported amine sorbents”, Energy Procedia, Vol 37 (2013), pp. 6070 - 6078. [8]. Xiaoxing Wang, Chunshan Song, “Temperature-programmed desorption of CO2 from polyethylenimine-loaded SBA-15 as molecular basket sorbents”, Catalysis Today, Vol 194 (2012), pp. 44 - 52. [9]. Zhenhe Chen, et al, “Polyethylenimine-Impregnated Resin for High CO2 Adsorption: An Efficient Adsorbent for CO2 Capture from Simulated Flue Gas and Ambient Air”, Applied Materials & Interfaces, Vol 6, No 16 (2014), pp.13617 - 13626. [10]. Hyunchul Jung, et al, “Carbon Dioxide Capture Using Poly(ethylenimine)- Impregnated Poly(methyl methacrylate)-Supported Sorbents”, Energy Fuels, Vol 28 (2014), pp. 3994 - 4000. ABSTRACT POLYETHYLENIMINE IMPREGNATED POLYSTYRENE RESIN AS CARBON DIOXIDE SORBENT Polystyrene resin supports were functionalized via wet ultrasound-impregnation with polyethylenimine (PEI) for use as CO2 adsorbents. Adsorbents were porosity and high temperature stability. The adsorption of CO2 on the adsorbent was very fast and sorption equilibrium was achieved within 36 min at 30oC. The maximum CO2 adsorption volumn was 115 mg/g when the adsorbent contained 50 wt % PEI. Keywords: CO2 adsorption, Polystyrene resin, Polyethylenimin, Ultrasound-impregnation. Nhận bài ngày 28 tháng 12 năm 2016 Hoàn thiện ngày 14 tháng 3 năm 2017 Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 12 năm 2017 Địa chỉ: Viện Hóa học - Vật liệu. *Email: nvhchem@gmail.com.
File đính kèm:
- vat_lieu_hap_phu_khi_co2_tren_co_so_nhua_polystyren_tam_phu.pdf