Ảnh hưởng của rủi ro trường thọ đối với Việt Nam

Tuổi thọ trung bình của con người đang ngày một tăng cao do điều

kiện y tế được cải thiện, chế độ dinh dưỡng đầy đủ hơn và mức sống

cao hơn. Bên cạnh mặt tích cực, tuổi thọ trung bình tăng cao cũng

đặt ra vấn đề rủi ro trường thọ (longevity risk)- đó là sự không chắc

chắn xung quanh mức kỳ vọng/dự báo mà tuổi thọ trong tương lai sẽ

tăng. Điều này đặt ra mối đe doạ nghiêm trọng về tài chính cho các

cá nhân, hệ thống hưu trí, các công ty bảo hiểm xã hội, chính phủ

khi chưa có sự chuẩn bị kỹ càng các nguồn lực nhằm chăm sóc sức

khoẻ cũng như đảm bảo an sinh xã hội cho phần tuổi thọ dân số tăng

ngoài kỳ vọng. Do đó, mỗi quốc gia cần nhận diện và đánh giá đầy

đủ những rủi ro này nhằm đưa ra những giải pháp đồng bộ, đảm bảo

an toàn cho hệ thống an sinh xã hội cũng như ổn định hệ thống tài

chính quốc gia, đặc biệt ở những nước mà các hệ thống này còn tồn

tại nhiều yếu kém.

pdf 12 trang yennguyen 4920
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của rủi ro trường thọ đối với Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của rủi ro trường thọ đối với Việt Nam

Ảnh hưởng của rủi ro trường thọ đối với Việt Nam
20
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 194- Tháng 7. 2018
Ảnh hưởng của rủi ro trường thọ đối với Việt Nam
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ 
Trần Thị Xuân Anh
Trần Đức Lương
Nguyễn Việt Hà
Mai Thu Trang
Ngày nhận: 09/07/2018 Ngày nhận bản sửa: 18/07/2018 Ngày duyệt đăng: 24/07/2018
Tuổi thọ trung bình của con người đang ngày một tăng cao do điều 
kiện y tế được cải thiện, chế độ dinh dưỡng đầy đủ hơn và mức sống 
cao hơn. Bên cạnh mặt tích cực, tuổi thọ trung bình tăng cao cũng 
đặt ra vấn đề rủi ro trường thọ (longevity risk)- đó là sự không chắc 
chắn xung quanh mức kỳ vọng/dự báo mà tuổi thọ trong tương lai sẽ 
tăng. Điều này đặt ra mối đe doạ nghiêm trọng về tài chính cho các 
cá nhân, hệ thống hưu trí, các công ty bảo hiểm xã hội, chính phủ 
khi chưa có sự chuẩn bị kỹ càng các nguồn lực nhằm chăm sóc sức 
khoẻ cũng như đảm bảo an sinh xã hội cho phần tuổi thọ dân số tăng 
ngoài kỳ vọng. Do đó, mỗi quốc gia cần nhận diện và đánh giá đầy 
đủ những rủi ro này nhằm đưa ra những giải pháp đồng bộ, đảm bảo 
an toàn cho hệ thống an sinh xã hội cũng như ổn định hệ thống tài 
chính quốc gia, đặc biệt ở những nước mà các hệ thống này còn tồn 
tại nhiều yếu kém.
Từ khoá: Rủi ro trường thọ, Tác động tài chính, Hệ thống an sinh xã 
hội, Ổn định tài chính quốc gia.
1. Rủi ro trường thọ và ảnh 
hưởng đối với mỗi quốc gia 
ủi ro trường thọ là 
rủi ro mà các cá 
nhân sống lâu hơn 
so với kỳ vọng, 
do đó chưa chuẩn 
bị đủ nguồn thu nhập để đảm 
bảo cho phần thời gian sống 
kéo dài hơn này. Rủi ro trường 
thọ gồm có rủi ro trường thọ 
cá biệt và rủi ro trường thọ hệ 
thống. Loại hình thứ nhất xảy 
ra trong trường hợp những 
người sẽ chết sau ngưỡng tuổi 
thọ trung bình. Loại hình thứ 
hai xảy ra do sự tiến bộ về y 
học hoặc môi trường sống, 
hoặc các yếu tố khác làm cải 
thiện đáng kể tuổi thọ trung 
bình của con người nhưng 
không thể dự đoán chắc chắn 
trong tương lai (Milevsky, 
2006). Về cơ bản, khi nói đến 
rủi ro trường thọ, người ta 
thường hàm định theo loại thứ 
hai và độ lệch chuẩn (standard 
deviation) được dùng làm 
thước đo rủi ro trường thọ- đo 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
21Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018
lường mức sai lệch giữa tuổi 
thọ thực tế (actual life span) 
và tuổi thọ kỳ vọng trong 
tương lai (expected life span). 
Trên thực tế, tuổi thọ kỳ vọng 
được dự báo bằng các phương 
pháp, kỹ thuật khác nhau 
nhưng thường sai lệch dự báo 
rất ít khi bằng không (IMF, 
2012). 
Số liệu thống kê tại Bảng 1 
cho thấy tuổi thọ bình quân 
thực tế tăng lên trong giai 
đoạn 1970- 2010 tại Mỹ và 
Canada là 8,2 năm, khu vực 
Châu Âu là 8,6 năm, Nhật Bản 
và Úc, New-Zi-Lân là 10,8 
năm. Song điều đáng 
nói là những con 
số này so với mức 
kỳ vọng trong cùng 
thời kỳ có độ lệch 
chuẩn (sai lệch) ở 
mức từ 0,13 đến 0,27. 
Bongaarts và Bulatao 
(2000) nghiên cứu cụ 
thể hơn về mức sai 
lệch dự báo tuổi thọ 
tại các quốc gia nêu 
trên trong vòng 20 
năm từ 1990-2010, 
kết quả cho thấy các 
nước này dự báo tuổi 
thọ bình quân thấp 
hơn thực tế khoảng 3 
năm. Những con số 
này là minh chứng 
thực nghiệm cho thấy việc dự 
báo tuổi thọ bình quân luôn 
có sai số nhất định, nói cách 
khác mỗi cá nhân hay Chính 
phủ đều không hoàn toàn chắc 
chắn về mức tuổi thọ trung 
bình sẽ đạt được trong tương 
lai. 
Ngoài ra, các dự báo về tuổi 
thọ tăng chỉ là các giá trị 
trung bình và mức tăng của 
từng quốc gia và vùng lãnh 
thổ lại cho thấy khác biệt 
đáng kể, thậm chí mức tăng 
tuổi thọ giữa nam và nữ cũng 
khác nhau. Cụ thể, tại Châu 
Á từ những năm 1950, tuổi 
thọ trung bình ở Indonesia 
và Trung Quốc được dự báo 
có mức tăng cao nhất, tuy 
nhiên, hiện tại Nhật Bản lại là 
một trong những quốc gia có 
tuổi thọ trung bình cao nhất 
thế giới, tiếp đến là Hồng 
Kông và Singapore. Theo 
dự báo đến năm 2031, tỷ lệ 
trường thọ ở Hồng Kông và 
Singapore sẽ vượt xa Nhật 
Bản, ngược lại Phillipine được 
dự báo có tuổi thọ trung bình 
thấp hơn Nhật Bản 15 năm. 
Mặc dù vậy, tuổi thọ trung 
bình tăng không đồng đều 
giữa nam giới và nữ giới. Vào 
Bảng 1. Thống kê tuổi thọ bình quân thực tế và mức sai lệch so với tuổi thọ bình quân kỳ vọng 
giai đoạn 1970-2010
Quốc gia Tổng mức tăng tuổi thọ giai đoạn 1970-2010
Mức tăng tuổi thọ bình 
quân năm, 1970-2010
Mức sai lệch so với kỳ 
vọng (Độ lệch chuẩn)
Mỹ và Canada 8,2 0,20 0,14
Khu vực Châu Âu 8,6 0,21 0,13
Úc và Newzeland 10,8 0,27 0,27
Nhật bản 10,8 0,27 0,23
Nguồn: Human Monthly Database ngày 13/12/2011, IMF (2011)
Hình 1. Thay đổi chênh lệch tuổi thọ trung bình giữa nam và nữ 
(năm)
Nguồn: Cơ quan Dân số Liên hợp quốc, Cục thống kê quốc gia (Đài Loan)
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
22 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018
Bảng 2. Mức tăng tuổi thọ giai đoạn 1970- 2050 tại một số nước (năm)
Quốc gia
Mức tăng tuổi thọ giai đoạn 1970-2010 Mức tăng tuổi thọ dự báo giai đoạn 2010 - 2050
Tính từ lúc sinh Tính từ độ tuổi 60 Tính từ lúc sinh Tính từ độ tuổi 60
Mỹ và Canada 8,2 4,9 4,3 3,1
Khu vực Châu Âu 8,6 5,7 4,7 3,7
Úc và Newzeland 10,8 7,2 4,9 3,7
Nhật bản 10,8 7,7 4,6 3,7
Nguồn: Human Monthly Database ngày 13/12/2011, Dự báo của IMF (2011)
Hình 2. Cấu trúc tháp dân số thế giới theo độ tuổi, giới tính (Triệu người)
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
23Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018
những năm 1950, chênh lệch 
tuổi thọ trung bình giữa nam 
và nữ là dưới 1 tuổi, nhưng 
đến năm 2010 con số này đã 
tăng lên tới gần 4 tuổi và với 
Việt Nam là khoảng 10 tuổi 
(Manulife Asset Management, 
2014). Những khác biệt này 
càng làm gia tăng thách thức 
trong việc dự báo tuổi thọ 
trung bình ở mỗi quốc gia. 
Do tính thiếu chính xác trong 
việc dự báo tuổi thọ bình 
quân, các quốc gia dễ rơi 
vào khả năng bị động trong 
việc chuẩn bị nguồn lực đảm 
bảo cuộc sống lâu hơn của 
con người. Đặc biệt, nghiên 
cứu của Manulife Asset 
Management (2014) cho thấy 
tuổi thọ trung bình trước đây 
tăng chủ yếu do tỷ lệ tử vong 
ở trẻ sơ sinh hoặc những 
người trẻ tuổi giảm xuống, 
nhưng hiện tại lại phụ thuộc 
vào hiện tượng kéo dài tuổi 
thọ- người cao tuổi ngày càng 
sống lâu hơn. Số liệu trong 
Bảng 2 so sánh mức tăng tuổi 
thọ trong giai đoạn 1970- 
2010, tính từ lúc sinh và tính 
từ độ tuổi từ 60, hơn một nửa 
mức tuổi thọ tăng xảy ra ở 
nhóm tuổi về hưu. Các số liệu 
dự báo trong giai đoạn 2010- 
2050 cũng cho kết quả tương 
tự. Nếu tuổi thọ cao hơn ở lứa 
tuổi trẻ rõ ràng không phải là 
một rủi ro. Cuộc sống khỏe 
mạnh và sống lâu hơn (trước 
khi nghỉ hưu) sẽ làm tăng 
thêm thu nhập, tiền tiết kiệm 
hưu trí cho cá nhân và doanh 
thu thuế cho chính phủ. Vấn 
đề chỉ thực sự trở nên rủi ro 
nếu tuổi thọ tăng lên ở giai 
đoạn nghỉ hưu nhưng cả người 
lao động và Chính phủ đều 
chưa chuẩn bị sẵn sàng nguồn 
lực cho phần tuổi thọ gia tăng 
này. Chính vì vậy, hiện nay 
rủi ro trường thọ được hiểu là 
rủi ro khi người nghỉ hưu sống 
lâu hơn nguồn thu nhập họ có 
được và mức ảnh hưởng đến 
nền kinh tế trở nên nghiêm 
trọng hơn theo các khía cạnh 
khác nhau.
(1) Ảnh hưởng đến tốc độ tăng 
trưởng kinh tế (GDP): Ảnh 
hưởng của rủi ro trường thọ 
đối với nền kinh tế tương tự 
như ảnh hưởng của vấn đề già 
hoá dân số, song nó nghiêm 
trọng hơn do Chính phủ không 
lường hết được mức độ già 
hoá dân số. Tuổi thọ tăng cao 
đồng nghĩa với tình trạng già 
hoá dân số tăng, và cũng có 
nghĩa là lực lượng lao động 
bị thu hẹp lại và GDP tiềm 
năng giảm, khiến tiêu chuẩn 
sống xuống thấp hơn. Phân 
tích của Quỹ Dân số Liên Hợp 
Quốc (2017) về cấu trúc tháp 
dân số thế giới theo độ tuổi, 
giới tính cho thấy tỷ lệ người 
trong độ tuổi lao động thay 
đổi theo hướng bất cân xứng 
với nhóm chưa đến tuổi lao 
động và ngoài tuổi lao động 
trong giai đoạn 1950- 2017 
và cả trong giai đoạn dự báo 
2050- 2100 (Hình 2). Thực 
tế nguồn cung ứng lao động 
của Trung Quốc đã giảm hơn 
một nửa so với nhu cầu tính 
đến cuối 2015; chỉ trong 10 
năm tới, tổng lực lượng lao 
động của Nhật Bản sẽ giảm 
đến 10% nếu nước này không 
có sự điều chỉnh phù hợp 
(OECD, 2015). Lực lượng lao 
động già hóa, đi đôi với thiếu 
hụt lao động trầm trọng, làm 
mất đi lợi thế của lao động trẻ, 
một động lực quan trọng thúc 
đẩy tăng trưởng kinh tế. Thực 
trạng này mang đến những 
thách thức mới cho các chính 
phủ do triển vọng tăng trưởng 
giảm sẽ gây khó trong việc cắt 
giảm tỷ lệ nợ công và tư tại 
các nền kinh tế tiên tiến và tạo 
ra những thách thức lớn hơn 
trong việc tái xây dựng vùng 
đệm tài chính đối với các nền 
kinh tế thị trường mới nổi 
(IMF, 2017).
(2) Ảnh hưởng đến hệ thống 
an sinh xã hội: Theo Tổ chức 
Lao động quốc tế (ILO): “An 
sinh xã hội là sự cung cấp 
phúc lợi cho các hộ gia đình 
và cá nhân thông qua cơ chế 
của nhà nước hoặc tập thể 
nhằm ngăn chặn sự suy giảm 
mức sống hoặc cải thiện mức 
sống thấp”. Định nghĩa này 
nhấn mạnh khía cạnh bảo 
hiểm xã hội và mở rộng tạo 
việc làm cho người lao động. 
Về cơ bản, bảo hiểm xã hội 
sẽ cung cấp các khoản trợ cấp 
dưới dạng tiền mặt hoặc dưới 
dạng hiện vật cho người lao 
động theo một số hoặc các 
chế độ như: trợ cấp dịch vụ y 
tế chăm sóc sức khoẻ, trợ cấp 
ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ 
cấp gia đình người lao động 
(con cái), trợ cấp thất nghiệp, 
trợ cấp tai nạn lao động và 
bệnh nghề nghiệp, trợ cấp tàn 
tật, trợ cấp hưu trí, chế độ tử 
tuất (trợ cấp cho người còn 
sống- vợ/chồng, con cái, bố 
mẹ) trong đó, trợ cấp hưu 
trí từ Chính phủ được xem 
là nguồn thu nhập chính của 
người về hưu tại một số quốc 
gia (Hình 3). Do đó, rủi ro 
trường thọ là một thách thức 
lớn đối với quỹ lương hưu 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
24 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018
quốc gia trong bối cảnh kinh 
tế toàn cầu suy thoái như 
hiện nay. Số người về hưu và 
thời gian hưởng lương hưu 
tăng lên ngoài dự tính đòi hỏi 
phải hình thành một hệ thống 
lương hưu dài hạn, gia tăng 
gánh nặng cho ngân sách quốc 
gia và ảnh hưởng đến tính bền 
vững lâu dài của nền tài chính 
công. Đến năm 2050, quỹ 
lương hưu của Trung Quốc sẽ 
chiếm 10% GDP, so với mức 
3,4% năm 2010. Tại một số 
quốc gia châu Âu như Đức, 
Pháp, Ý, con số này dao động 
từ 14%-16% GDP của mỗi 
nước năm 2050 (IMF, 2017).
(3) Ảnh hưởng đến ổn định hệ 
thống tài chính quốc gia: Ổn 
định hệ thống tài chính quốc 
gia là một trạng thái trong 
đó hệ thống tài chính gồm 
các trung gian tài chính, thị 
trường và hạ tầng tài chính có 
khả năng chống đỡ được các 
cú sốc và những rủi ro do sự 
mất cân đối tài chính gây ra, 
từ đó làm giảm bớt khả năng 
sụp đổ của các trung gian tài 
chính vốn có tác động tiêu cực 
đối với việc phân bổ tiết kiệm 
và đầu tư (Ngân hàng Trung 
ương Châu Âu- ECB). Rủi ro 
trường thọ đang được xem là 
mối đe dọa làm suy yếu sự 
bền vững hệ thống tài chính 
trong những năm và thập kỉ 
sắp tới, làm phức tạp các nỗ 
lực củng cố để đáp ứng với 
những khó khăn tài chính gần 
đây (IMF, 2017). Điều này là 
vì nguy cơ kéo dài tuổi thọ 
ảnh hưởng đến cách vận hành, 
gia tăng mức rủi ro cũng như 
là giảm hiệu quả hoạt động 
của các định chế tài chính 
tham gia cung ứng các dịch vụ 
tài chính hưu trí. 
Đối với các công ty bảo hiểm 
nhân thọ hay các quỹ hưu trí, 
rủi ro trường thọ xảy ra đồng 
nghĩa với việc họ sẽ phải chi 
trả các khoản lương hưu nhiều 
Ghi chú: * Số liệu thống kê tại năm 2012 hoặc năm công bố số liệu gần nhất, tuỳ theo quốc gia
1.Public transfers: Các khoản trợ cấp từ nhà nước, gồm trợ cấp hưu trí từ chương trình hưu trí nhà nước 
(dựa trên thu nhập người lao động) và các trợ cấp khác.
2.Occupational transfers: Trợ cấp hưu trí nghề nghiệp.
3.Work: Nguồn thu nhập từ lao động trong đơn vị sử dụng lao động hoặc tự kinh doanh.
4. Capital: Thu nhập từ các chương trình hưu trí tư nhân cũng như thu nhập đầu tư từ các khoản tiết kiệm phi 
hưu trí.
Nguồn: OECD (2015)
Hình 3. Nguồn thu nhập chính của người về hưu tại các quốc gia OECD
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
25Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018
hơn so với dự tính ban đầu. 
Thực tế này xuất phát từ cơ 
chế hoạt động đặc thù của 
loại hình công ty nêu trên. 
Cụ thể, Quỹ hưu trí (Pension 
fund) là một dạng quỹ mà 
chủ lao động (đơn vị tài trợ) 
đóng tiền thay mặt cho người 
lao động với mục đích đầu tư 
nhằm đảm bảo quyền lợi hưu 
trí cho người lao động khi về 
hưu. Khoản tiền thanh toán 
cho người về hưu có thể thanh 
toán nhiều lần hoặc thanh 
toán một lần. Quỹ hưu trí chia 
thành hai loại: Quyền lợi xác 
định và đóng tiền xác định.
Quỹ hưu trí có quyền lợi xác 
định (Defined Benefit- DB) 
là một dạng quỹ hưu trí mà 
doanh nghiệp cam kết sẽ thanh 
toán những khoản tiền nhất 
định cho người lao động bắt 
đầu vào giai đoạn nghỉ hưu 
nếu người lao động làm việc 
tại doanh nghiệp và có tham 
gia vào quỹ. Người lao động 
được xác định mức lương 
hưu dựa vào các nhân tố như 
bậc lương, số năm công tác, 
tuổi về hưu và một số nhân tố 
khác. Thông thường, người về 
hưu sẽ được lĩnh một khoản 
lương hưu cố định đến khi qua 
đời. Do đó, chủ lao động phải 
gánh chịu các rủi ro đầu tư. 
Quỹ hưu trí đóng tiền xác định 
(Defined Contribution- DC) là 
mô hình quỹ hưu trí trong đó 
chủ lao động đóng một số tiền 
nhất định theo tỷ lệ phần trăm 
(%) lương cơ bản của người 
lao động theo tháng. Chủ lao 
động không cam kết số tiền 
sau này người lao động nhận 
được khi về hưu và do đó 
không chịu rủi ro đầu tư. 
Như vậy, nếu tuổi thọ con 
người kéo dài hơn dự kiến, 
các quỹ hưu trí, công ty bảo 
hiểm sẽ phải chịu rủi ro khi 
tiếp tục việc thanh toán dài 
hạn theo đúng cam kết ban 
đầu cho người lao động cho 
đến khi người đó qua đời. Với 
việc sụt giảm của thị trường 
chứng khoán trong thời gian 
vừa qua, quỹ hưu trí đóng tiền 
xác định không thu được hiệu 
quả đầu tư như kỳ vọng. Cùng 
với rủi ro tuổi thọ kéo dài, 
rõ ràng việc đảm bảo thanh 
toán lương hưu như kỳ vọng 
của người lao động là điều rất 
khó khăn. Chính vì vậy có thể 
nói nguy cơ kéo dài tuổi thọ 
có thể dẫn đến sự nghèo đói 
của người hưởng lương hưu, 
cũng như khiến các định chế 
tài chính hưu trí, bảo hiểm 
phải xem xét lại cách thức 
vận hành chi trả hưu trí, chiến 
lược đầu tư, quản trị rủi ro 
nhằm đảm bảo cam kết chi trả 
cho người lao động theo đúng 
cam kết. 
2. Ảnh hưởng rủi ro trường 
thọ đối với Việt Nam
Số liệu thống kê dân số của 
Hình 4. Tuổi thọ bình quân tại Việt Nam theo khu vực địa lý
Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp từ GSO (2017)
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
26 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018
Việt Nam (GSO, 2017) cho 
thấy tuổi thọ trung bình của 
người dân Việt Nam từ 2005 
đến 2016 đạt khoảng 72,2 
năm, đứng thứ 5 trong khu 
vực về nước có tuổi thọ trung 
bình cao nhất. Tuy nhiên, mức 
tăng tuổi thọ bình quân có sự 
khác nhau giữa các khu vực 
địa lý, trong đó khu vực Đồng 
bằng sông Hồng  ... ng đó tỷ lệ lao động 
làm công hưởng lương trên 
tổng số người có việc làm 
chiếm 42,16%. Như vậy, nếu 
xét ở thời điểm hiện tại, số 
người lao động đóng BHXH 
chiếm tỷ trọng tương đối cao, 
quỹ BHXH để chi trả lương 
hưu vẫn duy trì được khi mức 
tăng tuổi thọ trung bình không 
diễn biến quá nhanh mặc dù 
tỷ lệ người già tại Việt Nam 
đang có xu hướng tăng nhanh 
hơn. Tuy nhiên, nếu xét trong 
dài hạn, khi lực lượng lao 
động đông đảo hiện tại về 
hưu và tuổi thọ tăng lên sẽ 
làm gia tăng số lượng người 
hưởng trợ cấp hưu trí trong 
tương lai, cùng với việc giảm 
tỷ lệ sinh ở hiện tại sẽ dẫn tới 
sự sụt giảm số lượng người 
đóng quỹ hưu trí. Điều này 
cho thấy rủi ro tiềm ẩn về số 
tiền chi trả bảo hiểm sẽ bị kéo 
dài, khoản thu sẽ không đủ 
bù chi trả trợ cấp hưu trí cho 
người lao động khi đến tuổi 
về hưu, và sau cùng sẽ là nguy 
cơ vỡ quỹ hưu trí, quỹ không 
đủ khả năng chi trả cho những 
đối tượng lao động đã về hưu 
tiếp sau đó. Theo dự báo của 
Liên Hiệp Quốc, đến khoảng 
năm 2035, quỹ hưu trí của 
Việt Nam sẽ bắt đầu cạn kiệt. 
Nếu chính phủ không thay đổi 
cách đóng/hưởng, thì đến năm 
2035, chính phủ sẽ phải bù 
đắp tiền để tránh vỡ quỹ. Tiền 
bù đắp này có thể chiếm từ 
30 đến 50% GDP (Báo Nhân 
dân, 2017). Như vậy, đất nước 
sẽ rơi vào tình trạng thâm hụt 
ngân sách vô cùng lớn.
3. Khuyến nghị chính sách
Một là, trong bối cảnh Việt 
Nam đã bước vào thời kỳ “già 
hoá dân số” thì “thâm hụt” 
trong tương lai của toàn bộ 
nền kinh tế có xu hướng tăng 
lên và phần lớn chịu tác động 
ngày càng tăng của “thâm hụt” 
từ nhóm người cao tuổi. Do 
đó, nhà nước cần có các chính 
sách phù hợp để tận dụng lao 
động lớn tuổi vẫn có khả năng 
lao động để góp phần tạo thêm 
thu nhập cho nhóm dân số 
này cũng như làm giảm thiểu 
“thâm hụt” có thể có. Đồng 
thời, nhà nước cũng cần xây 
dựng một hệ thống y tế phù 
hợp để đáp ứng với mô hình 
chăm sóc sức khoẻ cho nhóm 
dân số cao tuổi ngày càng 
tăng ở Việt Nam.
Ngoài ra, cần thúc đẩy tăng 
năng suất lao động và tạo việc 
làm cho nhóm tuổi lao động 
với những công việc theo nhu 
cầu và phù hợp với khả năng 
là định hướng quan trọng nhất 
nhằm phát huy hoạt động tích 
cực của biến đổi cơ cấu dân 
số tới tăng trưởng kinh tế, 
đảm bảo “dư lợi dân số” sẽ 
kéo dài hơn, đặc biệt trong bối 
cảnh dân số đang đi vào giai 
đoạn cuối của “quá độ dân số” 
với biểu hiện của một dân số 
già ngày càng rõ nét. Nếu có 
những chiến lược sử dụng lao 
động tốt, có thể phát huy và 
hiện thực hoá sự đóng góp của 
nhóm lao động trẻ khi dân số 
trong tuổi lao động của Việt 
Nam ít nhất trong vòng 15-
20 năm nữa. Cụ thể, đào tạo 
nghề và hướng nghiệp cho lực 
lượng này vào những ngành, 
nghề có tính cạnh tranh sẽ tạo 
việc làm bền vững ngay cả khi 
hội nhập và cạnh tranh quốc tế 
ngày càng sâu rộng. “Học tập 
suốt đời” cần được coi là một 
chủ trương quan trọng và hiện 
thực hoá bằng nhiều chương 
trình đa dạng để các nhóm dân 
số, đặc biệt những người có ít 
cơ hội học tập ngay từ nhỏ, có 
thể tham gia và được đào tạo, 
bồi dưỡng kỹ năng cần thiết 
cho công việc.
Hai là, phát triển hệ thống 
quỹ hưu trí tự nguyện, giúp 
người lao động có cơ hội đa 
dạng hoá hình thức tài trợ hưu 
trí nhằm chủ động đảm bảo 
nguồn thu nhập cho phần tuổi 
thọ kéo dài.
Nếu theo chế độ chi trả trợ 
cấp hưu trí và quy định về 
đóng BHXH bắt buộc hiện 
nay, người lao động đang chịu 
khá nhiều áp lực khi đủ tuổi 
nghỉ hưu, đặc biệt là áp lực về 
thu nhập sau giai đoạn nghỉ 
hưu để đảm bảo điều kiện 
sống tốt nhất. Bởi vậy, việc 
tham gia thêm các loại hình 
hưu trí tự nguyện là một cách 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
29Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018
để người lao động tự bảo vệ 
mình khi đến tuổi nghỉ hưu. 
Để hiện thực hoá điều này, 
cần tăng cường vai trò của 
các trung gian tài chính trong 
việc xây dựng, phát triển và 
cung ứng các dịch vụ tài chính 
hưu trí. Hệ thống trung gian 
tài chính không chỉ giới hạn 
đối với hệ thống các công ty 
quản lý quỹ, quỹ đầu tư, mà 
còn bao gồm cả các ngân hàng 
đầu tư/công ty chứng khoán, 
công ty bảo hiểm và định chế 
tài chính khác được phép cung 
ứng dịch vụ uỷ thác đầu tư. 
Mặc dù hành lang pháp lý 
đã được xây dựng đồng bộ, 
phù hợp với thông lệ quốc 
tế nhưng việc phát triển các 
trung gian này cần thêm một 
số điều kiện từ phía người 
sử dụng dịch vụ hưu trí. Cụ 
thể, UBCKNN và Bộ Tài 
Chính cần ban hành thông 
tư hướng dẫn thỏa ước giữa 
người sử dụng lao động và 
người lao động về việc tham 
gia chương trình hưu trí bổ 
sung tự nguyện do Bộ Lao 
động- Thương binh và Xã hội 
chủ trì. Vì với việc ban hành 
thông tư này, khuôn khổ pháp 
lý cho tổ chức, hoạt động và 
huy động vốn cho quỹ hưu trí 
bổ sung tự nguyện (HTBSTN) 
sẽ được hoàn thiện. Với tiến 
trình thành lập quỹ HTBSTN 
hiện tại, việc ban hành thông 
tư trên sẽ góp phần quan trọng 
cho việc hình thành hệ thống 
hưu trí tự nguyện trên thị 
trường.
Ba là, tăng cường nhận thức 
của người lao động về các kế 
hoạch hưu trí. Hiện tại, đối 
với người lao động, lượng 
thông tin liên quan tới chế độ 
hưu trí bắt buộc, tự nguyện 
hay các lợi ích của hưu trí tự 
nguyện còn rất hạn chế. Đây 
là nguyên nhân chính dẫn tới 
tỷ lệ người lao động tham gia 
vào các quỹ hưu trí tại Việt 
Nam chưa cao, thậm chí, đối 
với chế độ hưu trí bắt buộc 
theo quy định của BHXH, họ 
cũng chưa nhận thức được hết 
những lợi ích mang lại cho 
mình. Thêm vào đó, số lượng 
người lao động tự do còn 
chiếm tỷ lệ cao, đây lại chính 
là đối tượng lao động không 
tham gia hưu trí bắt buộc hoặc 
hưu trí tự nguyện. Bởi vậy, 
nếu người lao động nhận thức 
được lợi ích mà các chương 
trình hưu trí tự nguyện hay tự 
nguyện bổ sung mang lại, hoạt 
động hưu trí nói chung và các 
quỹ hưu bổng sẽ thu hút được 
một lượng lớn người tham gia. 
Để đạt được mục tiêu này, 
bên cạnh việc xây dựng khung 
pháp lý cho hoạt động hưu trí, 
thực hiện tuyên truyền thông 
qua các phương tiện thông tin 
đại chúng, doanh nghiệp cũng 
cần thực hiện việc phổ biến 
kiến thức về các chương trình 
hưu trí trong doanh nghiệp 
mình. Cụ thể, việc tham gia 
các kế hoạch hưu trí sẽ giúp 
người lao động an tâm và tập 
trung hơn vào công việc, thực 
hiện việc tiết kiệm chi tiêu lúc 
trẻ, để dành cho kế hoạch nghỉ 
hưu khi hết tuổi lao động, 
đồng thời tạo sự độc lập về tài 
chính, không phải phụ thuộc 
người thân. Tham gia quỹ hưu 
trí vừa đáp ứng được nhu cầu 
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Kế hoạch Đầu tư (2015), Báo cáo nghiên cứu Tác động của biến đổi cơ cấu tuổi dân số đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam 
và các đề xuất chính sách. 
2. Bongaarts, John, and Rodolfo A. Bulatao, eds., 2000, Beyond Six Billion: Forecasting the Worlds’ population, Panel on 
Population Projections, Committee on Population, Commission on Behavioral and Social Sciences and Education (Washington: 
National Academy Press), tại www.nap.edu /catalog.php?record_id=9828.
3. Báo Nhân dân, Những thách thức tiềm ẩn, 
html 
4. ECD (2005), “Private Pensions: OECD Classification and Glossary”.
5. GSO (2017), Dân số và lao động Việt Nam, 
6. Hữu Hoè (2014), “Đề xuất triển khai quỹ hưu trí bổ sung từ 2014”, truy cập: https://webbaohiem.net/de-xuat-trien-khai-quy-
huu-tri-bo-sung-tu-2014.html
7. IMF (2012), The financial impact of longevity risk, Global financial stability report
8. IMF (2017), Cảnh báo dân số già nhanh ở Châu Á làm chậm tăng trưởng kinh tế, https://www.rfa.org/vietnamese/news/
internationalnews/ageing-populations-will-drag-on-growth-in-asia-imf-chief-09072017095026.html
9. Luật số 58/2014/QH13, Luật Bảo hiểm xã hội
10. Lương Xuân Trường (2013), “Bảo hiểm hưu trí tự nguyện trong hoạch định kế hoạch tài chính hưu trí”, truy cập: http://
www.baoviet.com.vn/Uploads/Library/Document/Tap%20chi%20BV/tapchi%20TC-BHso3%202013.pdf
11. Lưu Hải Vân (2013), “Hệ thống hưu trí Việt Nam: Hiện trạng và thách thức”, truy cập: 
xem tiếp trang 54
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
30 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018
Library/Document/Tap%20chi%20BV/tapchi%20TC-BHso3%202013.pdf
12. Manulife Asset Management (2014), Sống lâu và thịnh vượng? Hưu trí và rủi ro trường thọ, 
population-vietnam/
13. Milevsky, Moshe A., 2006, The Calculus of Retirement Income: Financial Models for Pension Annuities and Life Insurance 
(New York: Cambridge University Press).
14. Nghị định 88/2016/NĐ-CP về Chương trình hưu trí bổ sung tự nguyện.
15. Nguyễn Viết Tiến (2014), Thách thức dân số già, https://baomoi.com/thach-thuc-dan-so-gia/c/15026029.epi 
16. OECD (2015), “Pensions at a Glance 2015: OECD and G20 indicators”, OECD Publishing, Paris. Retrieved from: http://
dx.doi.org/10.1787/pension_glance-2015-en
17. Quyết định số 595/QĐ-BHXH về Ban hành quy trình thu Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai 
nạn lao động-bệnh nghề nghiệp, quản lý sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo hiểm y tế, ban hành năm 2017.
18. Quyết định số 959/QĐ-BHXH về Ban hành quy định về quản lý thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, 
quản lý sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo hiểm y tế, ban hành năm 2015.
19. Thông tư 115/2013/TT-BTC Hướng dẫn bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện.
20. Thông tư 130/2015/TT-BTC Sửa đổi, bổ sung Thông tư số 115/2013/TT-BTC ngày 20/8/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn 
bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện.
21. Thông tư 86/2017/TT-BTC Hướng dẫn một số điều của Nghị định số 88/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ về 
Chương trình hưu trí bổ sung tự nguyện
22. UNESCAP (2017), Báo cáo điều tra xã hội học khu vực Châu Á Thái Bình Dương của Liên Hợp Quốc, 
vn/vi/spotlight-articles-press-centre-submenu-253/news-highlights-press-centre-submenu-254/4014-launch-of-un-economic-and-
social-survey-of-asia-and-the-pacific-2016.html
23. UNFPA (2017), “Già hoá dân số và người cao tuổi ở Việt Nam: Thực trạng, dự báo và một số khuyến nghị chính sách”, truy 
cập: 
Thông tin tác giả
Trần Thị Xuân Anh, Tiến sĩ
Khoa tài chính, Học viện Ngân hàng
Email: anhttx@hvnh.edu.vn
Trần Đức Lương, 
Lớp CLC K18, Học viện Ngân hàng
Email: luong21hp@gmail.com 
Nguyễn Việt Hà, 
Lớp CLC K18, Học viện Ngân hàng
Email: ngvietha96@gmail.com 
Mai Thu Trang,
Lớp CLC K18, Học viện Ngân hàng
Email: mtrang.1605@gmail.com
Summary
The efect of longevity risk in vietnam
Populations age is on the rise because of better medical conditions, more adequate nutrition and higher living 
standards. It is clearly beneficial for individuals and society as a whole, but also leading to a longevity risk that 
refers to consistently underestimated how long people live. Unexpected longevity is recognised as a financial 
risk for government and private pensions providers, who will have to pay out more in social security benefits and 
pensions than expected. It may also be a financial risk to individuals, who could run out of retirement resources 
themselves. These risks build slowly overtime, but if not addresed soon could have large negative effects on 
already weakened private and public sector balance sheets, making them more vulnerable to other shocks and 
potentially affecting financial stability. 
Keywords: Longevity risk, financial impact, social security system, financial stability. 
Anh Thi Xuan Tran, PhD.
Faculty of Finance, Banking Academy
Luong Duc Tran
Ha Viet Nguyen
Trang Thu Mai
Organization of all: Student of K18-TC, Advanced Program, Banking Academy
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 
54 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018
Thông tin tác giả
Nguyễn Quốc Nghi, Tiến sĩ
Đại học Cần Thơ
Email: quocnghi@ctu.edu.vn
Summary
The effects of stress on the work performance of the employees in the banking sector
In this study, Structural Equation Modeling (SEM) was used in the study aiming to test the effects of stress 
on the work performance of bank employees. The research data were collected by direct interview of 253 
employees working in the banking system. Research results indicated that work pressures, higher pressures, 
income pressures, time pressures, relationships and working conditions are factors that contribute to job stress. 
Research has shown that job stress negatively impacts job performance. A number of recommendations have 
been proposed to help manage stress and improve work performance for bank employees.
Keywords: stress on the work, performance, employees, bank. 
Nghi Quoc Nguyen, PhD.
Cantho University
nhân tố tác động đến thời gian kiểm toán có thể 
sẽ đóng góp vào lý luận về kiểm toán BCTC tại 
Việt Nam, vì hiện nay chưa có công trình nào 
trong nước đề cập đến vấn đề này. Bên cạnh 
đó, tác giả kỳ vọng từ tổng quan nghiên cứu 
được tổng hợp từ bài viết này sẽ giúp tác giả 
có những định hướng rõ ràng hơn để đi sâu vào 
tìm hiểu và giúp các chuyên gia trong lĩnh vực 
tại Việt Nam có những gợi ý nhằm thực hiện 
cuộc kiểm toán hiệu quả, sử dụng nguồn lực 
kiểm toán hợp lý mà vẫn đảm bảo chất lượng 
kiểm toán ở mức độ cao. ■
tiếp theo trang 46
HOSE. Trên cơ sở tham khảo bộ tiêu chí của 
S&P, hệ thống pháp luật Việt Nam về CBTT và 
điều kiện của TTCK Việt Nam, chỉ số CBTT đã 
được xây dựng để đo lường mức độ CBTT của 
các công ty niêm yết trên HOSE. Sử dụng số 
liệu của 207 công ty trong năm 2015, kết quả 
cứu cho thấy mức độ CBTT bình quân của các 
công ty là 73,1 điểm. Ngoài ra, kết quả phân 
tích hồi quy đã chỉ ra rằng quy mô HĐQT và tỷ 
lệ nữ trong HĐQT có mối tương quan thuận với 
mức độ CBTT của các công ty. Ngược lại, việc 
kiêm nhiệm chức danh chủ tịch HĐQT và tổng 
giám đốc/giám đốc làm giảm mức độ CBTT 
của các công ty. Ngoài ra, nghiên cứu còn chỉ 
ra rằng quy mô công ty và tỷ suất lợi nhuận có 
mối tương quan thuận với mức độ CBTT của 
tiếp theo trang 38
các công ty. Cuối cùng, nghiên cứu còn chỉ ra 
rằng các công ty được kiểm toán bởi một trong 
bốn công ty kiểm toán lớn nhất (Big 4) có mức 
tài chính khi về hưu, vừa đáp ứng được nhu cầu 
đầu tư tăng trưởng. Trên cơ sở tài khoản hưu trí 
được ủy thác và quản lý bởi các tổ chức quản 
lý quỹ, sinh lời của khoản tiền hưu trí sẽ được 
theo dõi và báo cáo thường xuyên. Người lao 
động sẽ chủ động được khoản thu nhập mình sẽ 
nhận trong tương lai thông qua các quỹ hưu trí. 
Thêm vào đó, tham gia quỹ hưu trí, khoản tiền 
tiết kiệm trên tài khoản hưu trí của người lao 
động sẽ được miễn thuế. 
Bốn là, tăng cường chính sách miễn giảm thuế. 
Cần thiết có chính sách ưu đãi thuế đối với 
người lao động và doanh nghiệp tham gia vào 
quỹ hưu trí. Đây là yếu tố cốt lõi để thu hút 
các đối tượng tham gia vào quỹ hưu trí trong 
thời gian đầu mới thành lập loại hình quỹ này. 
Hiện nay với Nghị định 88/2016/NĐ-CP ngày 
01/7/2016 về Chương trình Hưu trí bổ sung tự 
nguyện, chính sách ưu đãi thuế của chính phủ 
chưa thực sự hấp dẫn các đối tượng tham gia. 
Cụ thể, mức miễn thuế tối đa cho phép hiện nay 
chỉ là 1 triệu đồng/tháng, được áp dụng cho cả 
người lao động và người sử dụng lao động khi 
tham gia vào quỹ hưu trí tự nguyện. ■
tiếp theo trang 29

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_rui_ro_truong_tho_doi_voi_viet_nam.pdf