Áp dụng pháp luật quản trị công ty đối với ngân hàng thương mại cổ phần: Thực trạng pháp luật và một số vấn đề đặt ra

Đặc thù của hoạt động quản trị ngân hàng thương mại cổ phần

(NHTMCP) liên quan đến cấp độ vi mô (các ngân hàng đơn lẻ) và

vĩ mô (sự ổn định hệ thống tài chính). Quản trị NHTMCP cần phải

hướng tới mục tiêu tăng cường sự ổn định của thị trường tài chính

thay vì chỉ quan tâm đến tối đa hóa lợi nhuận của cổ đông. Tuy

nhiên, vấn đề quản trị công ty nói chung và đối với NHTMCP nói

riêng còn khá mới và đặt ra nhiều vấn đề đối với Việt Nam, trong đó

có khuôn khổ pháp luật về quản trị công ty. Trong phạm vi bài viết,

tác giả đề cập đến quá trình phát triển quan niệm về quản trị công ty

tại Việt Nam, đánh giá khuôn khổ pháp luật và những vấn đề đặt ra

từ thực tiễn thực thi pháp luật về quản trị công ty đối với NHTMCP

ở Việt Nam hiện nay, là cơ sở cho các giải pháp hoàn thiện khuôn

khổ pháp luật và nâng cao vai trò quản trị các NHTMCP Việt Nam.

pdf 8 trang yennguyen 5020
Bạn đang xem tài liệu "Áp dụng pháp luật quản trị công ty đối với ngân hàng thương mại cổ phần: Thực trạng pháp luật và một số vấn đề đặt ra", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Áp dụng pháp luật quản trị công ty đối với ngân hàng thương mại cổ phần: Thực trạng pháp luật và một số vấn đề đặt ra

Áp dụng pháp luật quản trị công ty đối với ngân hàng thương mại cổ phần: Thực trạng pháp luật và một số vấn đề đặt ra
44
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 190- Tháng 3. 2018
Áp dụng pháp luật quản trị công ty đối với 
ngân hàng thương mại cổ phần: Thực trạng 
pháp luật và một số vấn đề đặt ra
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ 
Bùi Hữu Toàn
Ngày nhận: 24/01/2018 Ngày nhận bản sửa: 12/02/2018 Ngày duyệt đăng: 22/03/2018
Đặc thù của hoạt động quản trị ngân hàng thương mại cổ phần 
(NHTMCP) liên quan đến cấp độ vi mô (các ngân hàng đơn lẻ) và 
vĩ mô (sự ổn định hệ thống tài chính). Quản trị NHTMCP cần phải 
hướng tới mục tiêu tăng cường sự ổn định của thị trường tài chính 
thay vì chỉ quan tâm đến tối đa hóa lợi nhuận của cổ đông. Tuy 
nhiên, vấn đề quản trị công ty nói chung và đối với NHTMCP nói 
riêng còn khá mới và đặt ra nhiều vấn đề đối với Việt Nam, trong đó 
có khuôn khổ pháp luật về quản trị công ty. Trong phạm vi bài viết, 
tác giả đề cập đến quá trình phát triển quan niệm về quản trị công ty 
tại Việt Nam, đánh giá khuôn khổ pháp luật và những vấn đề đặt ra 
từ thực tiễn thực thi pháp luật về quản trị công ty đối với NHTMCP 
ở Việt Nam hiện nay, là cơ sở cho các giải pháp hoàn thiện khuôn 
khổ pháp luật và nâng cao vai trò quản trị các NHTMCP Việt Nam.
Từ khóa: Pháp luật quản trị công ty, ngân hàng thương mại cổ phần
1. Đặt vấn đề
Việt Nam, ngân hàng thương 
mại (NHTM) là loại hình ngân 
hàng được thực hiện tất cả các 
hoạt động ngân hàng và các 
hoạt động kinh doanh khác 
theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng 
(TCTD) nhằm mục tiêu lợi nhuận (Khoản 3 
Điều 4 Luật Các TCTD 2010). Về mô hình tổ 
chức, “NHTM trong nước được thành lập, tổ 
chức dưới hình thức công ty cổ phần” (Khoản 
1 Điều 6 Luật Các TCTD 2010). Do đó, hoạt 
động quản trị NHTMCP vừa phải tuân thủ quy 
định pháp luật quản trị công ty (luật chung) và 
quy định của Luật Các TCTD (luật riêng áp 
dụng đối với doanh nghiệp có hoạt động ngân 
hàng), Luật Chứng khoán (luật riêng áp dụng 
đối với các doanh nghiệp có cổ phần niêm yết 
trên thị trường chứng khoán). Hoạt động quản 
trị NHTMCP nhằm mục đích thiết lập cơ chế, 
quy trình để bảo đảm sự giám sát của cổ đông, 
nhà đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
45Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018
(NHNN) và thị trường đối với 
hoạt động quản lý, điều hành 
của người quản lý, điều hành 
NHTMCP. 
Xuất phát từ đặc thù của 
hoạt động ngân hàng, hoạt 
động quản trị NHTMCP liên 
quan đến cả hai cấp độ vi mô 
(các ngân hàng đơn lẻ) và vĩ 
mô (sự ổn định hệ thống tài 
chính), bởi vì nó cung cấp 
động lực để kiểm soát ngân 
hàng, hiệu quả hóa việc kiểm 
soát và khuyến khích niềm 
tin của thị trường. Ngoài ra, 
trong thực tiễn thực hiện hoạt 
động quản trị công ty, các 
NHTMCP chịu sự can thiệp, 
tác động trực tiếp từ phía cơ 
quan giám sát ngân hàng- cơ 
quan có nhiệm vụ đánh giá 
lĩnh vực quản trị công ty của 
từng ngân hàng, bao gồm cả 
trình độ và đạo đức của các 
nhà quản lý cấp cao (Hội đồng 
quản trị, ban giám đốc) và cơ 
quan này phải có đủ quyền 
lực để can thiệp khi quản trị 
công ty của ngân hàng bất 
ổn. Do đó, quản trị NHTMCP 
cần phải hướng tới mục tiêu 
tăng cường sự ổn định của 
thị trường tài chính thay vì 
tối đa hóa lợi nhuận của cổ 
đông. Khi tiếp cận quản trị 
ngân hàng theo hướng này, cả 
cộng đồng cũng như cổ đông 
ngân hàng đều có lợi. Đối với 
cộng đồng, sự ổn định của 
thị trường tài chính mang lại 
những ảnh hưởng tích cực đối 
với nền kinh tế và sau đó là 
đối với toàn xã hội. Đối với cổ 
đông ngân hàng, việc không 
hướng tới mục tiêu tối đa hóa 
lợi nhuận đương nhiên mang 
lại ít lợi nhuận hơn nhưng lại 
tăng thêm tính an toàn cho các 
khoản đầu tư của họ (Nguyễn 
Ngọc Cường, 2016). Trong 
phạm vi bài viết này, tác giả 
đề cập đến quá trình phát triển 
quan niệm về quản trị công ty 
tại Việt Nam, đánh giá khuôn 
khổ pháp luật và những vấn 
đề đặt ra từ thực tiễn thực thi 
pháp luật về quản trị công ty 
đối với NHTMCP ở Việt Nam 
hiện nay.
2. Quá trình phát triển 
quan niệm về quản trị công 
ty: Những nội dung cần làm 
rõ
Trên bình diện quốc tế, các 
vấn đề về quản trị công ty 
không còn là vấn đề mới. Các 
học thuyết, các mô hình quản 
trị công ty trên thế giới không 
ngừng vận động và cũng 
từ đó, các lý thuyết mới về 
doanh nghiệp cũng xuất hiện 
nhằm phúc đáp những đòi hỏi 
từ thực tiễn quản lý, điều hành 
các doanh nghiệp. Ở khía 
cạnh kinh tế, các nghiên cứu 
về quản trị công ty tập trung 
hai mục tiêu chính là tối đa 
hoá giá trị cổ đông và bảo vệ 
quyền và lợi ích hợp pháp của 
các cổ đông nhỏ và người có 
quyền lợi liên quan. Quản trị 
công ty tốt có ý nghĩa quan 
trọng trong việc thúc đẩy tăng 
trưởng kinh tế lành mạnh, tạo 
nên sự hài hòa của một loạt 
các mối quan hệ giữa Ban 
Giám đốc công ty, Hội đồng 
quản trị, các cổ đông và các 
bên có quyền lợi liên quan, từ 
đó tạo nên định hướng và sự 
kiểm soát công ty. Quản trị 
công ty tốt sẽ thúc đẩy hoạt 
động và tăng cường khả năng 
tiếp cận của công ty với các 
nguồn vốn bên ngoài, góp 
phần tích cực vào việc tăng 
cường giá trị công ty, giảm 
thiểu rủi ro, tăng cường đầu 
tư và phát triển bền vững cho 
doanh nghiệp và nền kinh 
tế, từ đó góp phần thúc đẩy 
hoạt động và nâng cao hiệu 
quả kinh doanh, nâng cao khả 
năng tiếp cận thị trường vốn, 
giảm chi phí vốn và tăng giá 
trị tài sản, nâng cao uy tín của 
công ty. Ở khía cạnh pháp lý, 
các nghiên cứu về quản trị 
công ty đề cập nhiều đến việc 
bảo đảm quyền cho các cổ 
đông; trách nhiệm của người 
quản lý, điều hành công ty 
và phân định trách nhiệm của 
Hội đồng quản trị với Tổng 
Giám đốc hoặc Giám đốc, 
nghĩa là phân định chức năng 
quản lý và chức năng điều 
hành và sự thể chế hóa những 
tiêu chuẩn, điều kiện, mô hình 
quản trị vào trong pháp luật 
doanh nghiệp và nghiên cứu 
kinh nghiệm của một số nước 
trên thế giới về xây dựng và 
thực thi pháp luật về quản trị 
công ty.
Tại Việt Nam, vấn đề quản trị 
công ty và pháp luật quản trị 
công ty xuất hiện muộn. Nếu 
lấy Luật Công ty năm 1990 
làm mốc đánh dấu sự xuất 
hiện của pháp luật quản trị 
công ty thì quá trình lập pháp 
về quản trị công ty của Việt 
Nam cũng đã đi được một 
phần tư thế kỷ với nhiều biến 
động, đan xen giữa cũ và mới, 
giữa quản lý chặt chẽ từ phía 
Nhà nước tới việc tăng cường 
tính độc lập, tự chịu trách 
nhiệm của người quản trị, 
điều hành công ty. Những thất 
bại về quản trị doanh nghiệp 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
46 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 190- Tháng 3. 2018
nhà nước gây thất thoát nhiều 
nghìn tỷ đồng cùng với những 
yêu cầu của tiến trình hội 
nhập quốc tế cũng như sự 
vào cuộc tích cực của các nhà 
nghiên cứu, người hoạt động 
chính sách, khuôn khổ pháp 
luật về quản trị công ty ở Việt 
Nam đã có nhiều thay đổi để 
đáp ứng những đòi hỏi ở trên. 
Các nghiên cứu về quản trị 
công ty ở Việt Nam được 
triển khai ở nhiều khía cạnh 
khác nhau như: Nghiên cứu 
các mô hình quản trị công ty 
và khả năng tiếp nhận ở Việt 
Nam (Bùi Xuân Hải, 2012); 
bảo đảm sự tách bạch giữa 
quyền sở hữu và quản lý điều 
hành trong quản trị công ty 
(Hà Thị Thanh Bình, 2015); 
bảo đảm sự công bằng giữa 
các cổ đông trong dự thảo 
Luật Doanh nghiệp sửa đổi 
(Nguyễn Thị Lan Hương, 
2014); đảm bảo quyền lợi của 
cổ đông công ty cổ phần theo 
các nguyên tắc quản trị công 
ty của OECD (Nguyễn Thị 
Dung, Nguyễn Như Chính, 
2009), hay bảo vệ quyền của 
cổ đông công ty cổ phần theo 
Luật Doanh nghiệp năm 2014 
(Phan Ngọc Hoàng, 2016); 
nghiên cứu pháp luật về quản 
trị công ty đại chúng ở Việt 
Nam theo quy định của Luật 
Doanh nghiệp 2014 (Lê Minh 
Toàn, 2015) Nói chung, các 
nghiên cứu, đánh giá pháp 
luật về quản trị công ty ở Việt 
Nam đã đạt được những kết 
quả nhất định, các quy định 
pháp luật về quản trị công ty 
đã được điều chỉnh đáp ứng 
các tiêu chuẩn, điều kiện về 
quản trị công ty đã được điều 
chỉnh đáp ứng các tiêu chuẩn, 
điều kiện về quản trị công ty 
theo khuyến cáo của nhiều tổ 
chức quốc tế, góp phần quan 
trọng vào việc bảo đảm sự 
minh bạch, công bằng, khách 
quan trong thực tiễn thực hiện 
nhiệm vụ quản trị công ty của 
người quản lý, điều hành. Tuy 
nhiên, tổng kết những vấn đề 
lý luận và thực tiễn về quản 
trị công ty với tính chất là nền 
tảng cho hoạt động quản trị 
công ty nói chung, quản trị 
NHTMCP nói riêng, cho thấy:
Thứ nhất, chưa có quan niệm 
thống nhất về nội hàm khái 
niệm quản trị công ty. Thực 
trạng này là do nguồn gốc thể 
chế luật pháp, đặc tính quốc 
gia, văn hóa và trình độ phát 
triển của thị trường tài chính 
tại mỗi nước (Trần Hoàng 
Ngân, Phạm Quốc Việt, 2016) 
và cũng chính sự khác biệt 
này đã làm ảnh hưởng đáng kể 
đến quyền của cổ đông, quyền 
của chủ nợ và thực thi quyền 
sở hữu. Quản trị công ty là 
một hệ thống các mối quan hệ, 
được xác định bởi các cơ cấu 
và các quy trình, nhiều khi 
liên quan tới các bên có các 
lợi ích khác nhau, đôi khi là 
những lợi ích xung đột. Quản 
trị công ty hướng tới việc giải 
quyết và đảm bảo sự cân bằng 
giữa những lợi ích xung đột 
này. Điều này đặt ra đòi hỏi 
phân chia quyền lợi và trách 
nhiệm một cách phù hợp- và 
qua đó làm gia tăng giá trị lâu 
dài của các cổ đông. Chẳng 
hạn như làm thế nào để các cổ 
đông nhỏ lẻ bên ngoài có thể 
ngăn chặn việc một cổ đông 
kiểm soát nào đó tư lợi thông 
qua các giao dịch với các bên 
liên quan, giao dịch ngầm hay 
các thủ đoạn tương tự. Tuy 
nhiên, cũng cần nhấn mạnh 
quản trị công ty không chỉ 
liên quan đến cổ đông mà còn 
chi phối và ảnh hưởng đến 
các bên liên quan đến công 
ty. Vì vậy, các công ty (dù là 
niêm yết hay chưa niêm yết), 
khi xây dựng quy chế quản trị 
công ty, cần hết sức lưu ý đến 
những người liên quan đến 
công ty, bao gồm cổ đông, 
khách hàng, đối tác, chủ nợ, 
nhân viên, các cơ quan quản 
lý nhà nước, cộng đồng (Tổ 
chức Tài chính Quốc tế, Uỷ 
ban Chứng khoán Nhà nước, 
2010).
Thứ hai, một quy chế quản 
trị công ty tốt, ngoài việc phải 
đáp ứng các yêu cầu bắt buộc 
trong pháp luật doanh nghiệp 
như Luật Doanh nghiệp, Luật 
Chứng khoán và các văn bản 
dưới luật còn phải thể hiện 
được cách thức quản trị công 
ty chuyên nghiệp, minh bạch 
và hiệu quả cũng như đảm 
bảo được sự công bằng trong 
cả quyền, nghĩa vụ và lợi ích 
của cổ đông, và sự hài hòa với 
lợi ích của các bên liên quan 
khác. Như vậy, quản trị công 
ty là hệ thống các cơ chế để 
bảo vệ nhà đầu tư bên ngoài 
tránh được những vấn đề phát 
sinh từ mâu thuẫn lợi ích giữa 
cổ đông và người điều hành 
liên quan đến các cơ cấu, quy 
trình và cơ chế để định hướng 
và quản lý công ty nhằm gia 
tăng giá trị cho cổ đông về 
lâu dài thông qua việc nâng 
cao trách nhiệm của người 
điều hành (Phạm Bảo Khánh, 
2015). Cốt lõi của quản trị 
công ty là giải quyết mối quan 
hệ giữa người quản lý, điều 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
47Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018
hành công ty với cổ đông, là 
phương thức bảo đảm quyền 
lợi cho cổ đông và kiểm soát 
hiệu quả các hành vi lạm dụng 
của người quản lý, điều hành 
công ty từ đó góp phần gia 
tăng tính tính minh bạch trong 
công ty cổ phần.
Thứ ba, trên thế giới đã hình 
thành một số mô hình quản 
trị công ty (Hoàng Phương 
Anh, 2016) như: i) Mô hình 
quản trị lấy cổ đông làm trung 
tâm (gọi là mô hình Anglo-
Saxon hay mô hình quản trị 
công ty Anh- Mỹ). Mô hình 
này nhấn mạnh sự gia tăng 
giá trị cho cổ đông, tuân thủ 
luật pháp và quy định như là 
mục tiêu chính của công ty. 
Trong mô hình Anglo-Saxon, 
giám đốc điều hành có ảnh 
hưởng đáng kể tới các thành 
viên khác trong ban giám đốc, 
kể cả giám đốc không điều 
hành, những người có nhiệm 
vụ giám sát các giám đốc điều 
hành; ii) Mô hình quản trị lấy 
các bên liên quan làm trung 
tâm (Đức và một số quốc 
gia Châu Âu). Mô hình này 
nhấn mạnh hơn về tầm ảnh 
hưởng của các bên liên quan 
không phải là cổ đông, đặc 
biệt là công đoàn lao động và 
các ngân hàng quốc doanh. 
Đức xây dựng và thực hiện 
mô hình quản trị hai tầng có 
tách biệt rõ ràng vai trò giám 
sát với vai trò điều hành; iii) 
Mô hình Nhật Bản được xây 
dựng dựa trên các mối quan 
hệ kinh doanh với các ngân 
hàng, khách hàng và nhà cung 
cấp, tất cả đều ảnh hưởng tới 
các quyết định quản trị; iv) 
Mô hình của Hàn Quốc bắt 
nguồn từ cuộc chiến tranh 
Triều Tiên, trong khi mô hình 
của Trung Quốc phản ánh một 
sự chuyển đổi từ kế hoạch 
hóa tập trung sang cơ chế thị 
trường. Mô hình của Ấn Độ bị 
ảnh hưởng mạnh mẽ bởi lịch 
sử sở hữu gia đình. Tuy nhiên, 
ở Việt Nam chưa hình thành 
được mô hình quản trị công 
ty, đồng thời chưa định hình 
mức độ ảnh hưởng của các 
mô hình quản trị công ty tiêu 
biểu. Điều này đã gây ra nhiều 
khó khăn cho việc thiết kế nội 
dung pháp luật và vận hành 
các mô hình quản trị trong 
thực tiễn.
3. Thực trạng pháp luật 
cho quản trị ngân hàng 
thương mại cổ phần: Quá 
trình hướng tới khuôn khổ 
quản trị phù hợp với thông 
lệ quốc tế và thực tiễn Việt 
Nam
Khi chuyển đổi mô hình ngân 
hàng Việt Nam từ một cấp 
sang hai cấp, các định chế 
tài chính trên thị trường dần 
được chuyển đổi sang cơ chế 
thị trường. Khuôn khổ pháp 
luật về quản lý, điều hành các 
định chế tài chính theo đó 
cũng được hình thành. Các 
quy định pháp luật về quản trị 
NHTMCP ở Việt Nam được 
ghi nhận lần đầu tiên ở Pháp 
lệnh NHTM, hợp tác xã tín 
dụng và công ty tài chính năm 
1990, trong đó có sự phân biệt 
về quản trị giữa TCTD quốc 
doanh và NHTMCP (Khoản 
1, Khoản 2 Điều 15 Pháp lệnh 
NHTM, hợp tác xã tín dụng 
và công ty tài chính ngày 
23/5/1990), nhưng không cụ 
thể và còn mang đậm dấu ấn 
của thời kỳ đầu chuyển đổi, 
các can thiệp trực tiếp của 
NHNN vào hoạt động quản 
trị, điều hành NHTMCP vẫn 
còn khá rõ nét. 
Luật Các TCTD 1997, sửa 
đổi, bổ sung 2004 dành Mục 
3 từ Điều 36 đến Điều 40 quy 
định về quản trị, điều hành, 
kiểm soát TCTD. Chính phủ 
ban hành Nghị định 59/2009/
NĐ-CP ngày 16/7/2009 
về tổ chức và hoạt động 
của NHTM, trong đó dành 
Mục 2, Mục 3 từ Điều 16 
đến Điều 55 để quy định về 
quản trị, điều hành, kiểm soát 
NHTM và NHTMCP. NHNN 
cũng đã ban hành Thông tư 
06/2010/TT-NHNN ngày 
26/02/2010 Hướng dẫn về tổ 
chức, quản trị, điều hành, vốn 
điều lệ, chuyển nhượng cổ 
phần, bổ sung, sửa đổi Giấy 
phép, Điều lệ của NHTM 
hướng dẫn chi tiết quy định 
tại Nghị định số 59/2009/NĐ-
CP ngày 16/7/2009 về tổ chức 
và hoạt động của NHTM.
Trong điều kiện hội nhập và 
mở cửa hoàn toàn lĩnh vực 
dịch vụ ngân hàng, Luật Các 
TCTD 2010 được ban hành 
cho phù hợp hơn với những 
cam kết hội nhập quốc tế của 
Việt Nam và thông lệ quốc 
tế trong hoạt động ngân hàng 
cũng như tạo ra được một 
cơ sở pháp lý bảo đảm sự tự 
chủ trong kinh doanh của các 
TCTD, đồng thời bảo đảm sự 
chặt chẽ, thận trọng trong hoạt 
động ngân hàng, đặc biệt là 
nâng cao được khả năng kiểm 
soát, giám sát của NHNN đối 
với hoạt động của từng TCTD 
và sự ổn định, an toàn của hệ 
thống ngân hàng đặt ra đòi hỏi 
 CH ... hơn 
20 năm chuyển đổi từ mô hình 
ngân hàng một cấp sang mô 
hình ngân hàng hai cấp, pháp 
luật về quản trị NHTMCP mới 
hình thành một cách có hệ 
thống.
Từ những phân tích trên, có 
thể rút ra những nét chính 
trong quá trình phát triển pháp 
luật quản trị NHTMCP như 
sau:
Một là, đã hình thành rõ nét 
tư duy “doanh nghiệp” khi 
quy định về TCTD. Luật Các 
TCTD 1997, sửa đổi 2004 
không có quy định rõ ràng về 
hình thức tổ chức của TCTD 
mặc dù đã quy định TCTD 
là doanh nghiệp. Khắc phục 
nhược điểm này, Luật Các 
TCTD 2010 quy định rõ hình 
thức tổ chức của TCTD, đồng 
thời quy định cụ thể cơ cấu tổ 
chức quản lý của TCTD. Theo 
đó, cơ cấu tổ chức quản lý của 
TCTD được thành lập dưới 
hình thức công ty cổ phần bao 
gồm Đại hội đồng cổ đông, 
Hội đồng quản trị, Ban kiểm 
soát, Tổng giám đốc/ Giám 
đốc. Cơ cấu tổ chức quản lý 
của TCTD được thành lập 
dưới hình thức công ty trách 
nhiệm hữu hạn một thành 
viên, công ty trách nhiệm hữu 
hạn hai thành viên trở lên bao 
gồm Hội đồng thành viên, Ban 
kiểm soát, Tổng giám đốc/ 
Giám đốc. Cơ cấu tổ chức 
quản lý của ngân hàng hợp 
tác xã, quỹ tín dụng nhân dân 
bao gồm Đại hội thành viên, 
Hội đồng quản trị, Ban kiểm 
soát, Tổng giám đốc/ Giám 
đốc (Điều 32). Thành viên 
Hội đồng quản trị, thành viên 
Ban kiểm soát, Tổng giám 
đốc/ Giám đốc của ngân hàng 
hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân 
dân phải đáp ứng tiêu chuẩn 
về trình độ chuyên môn, đạo 
đức nghề nghiệp và am hiểu 
về hoạt động ngân hàng theo 
quy định của NHNN (Khoản 2 
Điều 75).
Từ quy định của pháp luật 
hiện hành cho thấy, TCTD đã 
được tổ chức theo các mô hình 
doanh nghiệp và có cơ cấu tổ 
chức, quản lý, điều hành như 
một doanh nghiệp. Những 
“khác biệt” không cần thiết 
giữa doanh nghiệp và TCTD 
liên quan đến tổ chức và hoạt 
động dường như đã được xóa 
bỏ. Nói khác đi, Luật Các 
TCTD 2010 đã xác lập nền 
tảng quy tắc quản trị phù hợp 
với doanh nghiệp hoạt động 
ngân hàng- lĩnh vực kinh 
doanh đặc biệt có nhiều ảnh 
hưởng tới đời sống kinh tế xã 
hội quốc gia (Viên Thế Giang, 
Bùi Hữu Toàn, Nguyễn Trung 
Kiên, 2018).
Hai là, nhiều quy định liên 
quan trực tiếp đến hoạt động 
quản trị NHTMCP đã được 
xây dựng đáp ứng các tiêu 
chuẩn quản trị NHTM của các 
tổ chức quốc tế khuyến nghị 
(Viên Thế Giang, Nguyễn 
Trung Kiên, 2017).
Ba là, có hai đặc thù liên quan 
đến quản trị NHTM là: i) 
Quản trị NHTM liên quan đến 
cả hai cấp độ vi mô (các ngân 
hàng đơn lẻ) và vĩ mô (sự ổn 
định hệ thống tài chính), bởi 
vì nó cung cấp động lực để 
kiểm soát ngân hàng, hiệu quả 
hóa việc kiểm soát và khuyến 
khích niềm tin của thị trường; 
ii) Khả năng can thiệp, tác 
động trực tiếp từ phía cơ quan 
giám sát ngân hàng- cơ quan 
có nhiệm vụ đánh giá lĩnh vực 
quản trị công ty của từng ngân 
hàng- bao gồm cả trình độ và 
đạo đức của các nhà quản lý 
cấp cao (Hội đồng quản trị, 
ban giám đốc) và cơ quan này 
phải có đủ quyền lực để can 
thiệp khi quản trị công ty của 
ngân hàng bất ổn. Do đó, quản 
trị NHTM cần phải hướng tới 
mục tiêu tăng cường sự ổn 
định của thị trường tài chính 
thay vì tối đa hóa lợi nhuận 
của cổ đông. Khi tiếp cận 
quản trị ngân hàng theo hướng 
này, cả cộng đồng cũng như 
cổ đông ngân hàng đều có 
lợi. Đối với cộng đồng, sự ổn 
định của thị trường tài chính 
mang lại những ảnh hưởng 
tích cực đối với nền kinh tế và 
sau đó là đối với toàn xã hội. 
Đối với cổ đông ngân hàng, 
việc không hướng tới mục tiêu 
tối đa hóa lợi nhuận đương 
nhiên mang lại ít lợi nhuận 
hơn nhưng lại tăng thêm tính 
an toàn cho các khoản đầu tư 
của họ (Nguyễn Ngọc Cường, 
2016).
4. Các vấn đề đặt ra trong 
từ thực tiễn pháp luật về 
quản trị ngân hàng thương 
mại cổ phần ở Việt Nam 
trong giai đoạn hiện nay
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
49Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018
Thứ nhất, vị trí, vai trò của 
quản trị công ty trong việc bảo 
đảm an toàn hoạt động ngân 
hàng và hệ thống các TCTD: 
Có thể khẳng định, xây dựng 
và thực thi tốt các thiết chế 
quản trị công ty sẽ góp phần 
quan trọng vào việc bảo đảm 
an toàn hoạt động ngân hàng 
và hệ thống các TCTD. Thực 
tiễn đã chứng minh, cuộc 
khủng hoảng tài chính châu 
Á năm 1997 đã bộc lộ những 
yếu kém trong thực tiễn hoạt 
động quản trị công ty của các 
ngân hàng ở châu lục này. 
Nguyên nhân của cuộc khủng 
hoảng tài chính 2007 được chỉ 
ra là do chính sách thù lao cho 
giám đốc điều hành ngân hàng 
không phù hợp. Người ta đổ 
lỗi cho giám đốc điều hành vì 
lợi nhuận ngắn hạn mà chấp 
nhận quá nhiều rủi ro và bỏ 
qua lợi ích lâu dài của ngân 
hàng và cổ đông (Trần Thị 
Thanh Tú, Phạm Bảo Khánh, 
2013). Vì vậy, thiết lập khuôn 
khổ pháp luật quản trị NHTM 
hiệu quả, phù hợp với đặc thù 
của Việt Nam cần được nhìn 
nhận là nhân tố quan trọng 
nhất cho việc bảo đảm an toàn 
hoạt động ngân hàng và hệ 
thống các TCTD. Vì các quyết 
định kinh doanh đều do người 
quản lý, người điều hành 
TCTD thực hiện. Các quyết 
định này có ảnh hưởng trực 
tiếp đến kết quả kinh doanh 
của TCTD.
Thứ hai, phân định giữa sở 
hữu và quản lý, điều hành 
NHTM: Đây là một trong 
những vấn đề trọng tâm của 
quản trị NHTMCP, vì sự tách 
biệt này dẫn tới nhu cầu kiểm 
soát hành vi của người quản 
lý, người điều hành trong 
thực tiễn ra các quyết định 
kinh doanh. Ý thức tôn trọng 
quyền cổ đông của người quản 
lý, điều hành NHTMCP có 
ý nghĩa quyết định đến hiệu 
quả bảo vệ cổ đông trong thực 
tiễn. Đồng thời, sự chủ động, 
tích cực của cổ đông trong 
việc sử dụng quyền của mình 
để buộc người quản lý, người 
điều hành phải tuân thủ nghĩa 
vụ của người quản trị trong 
quá trình thực hiện nhiệm vụ. 
Nâng cao trách nhiệm giải 
trình của người quản lý, người 
điều hành và phát huy vai trò 
của Ban kiểm soát, Đại hội 
đồng cổ đông là điều kiện tiên 
quyết cho việc bảo vệ quyền 
sở hữu của cổ đông cũng như 
chống lại các nguy cơ xâm 
phạm quyền lợi cổ đông của 
người quản lý, người điều 
hành NHTMCP.
Thứ ba, nhu cầu giới hạn 
sự can thiệp của NHNN vào 
thực tiễn quản trị NHTMCP: 
Là cơ quan quản lý nhà nước 
về tiền tệ và hoạt động ngân 
hàng, đồng thời thực hiện 
chức năng ngân hàng trung 
ương, nên mục đích hoạt 
động của NHNN là “nhằm ổn 
định giá trị đồng tiền; bảo 
đảm an toàn hoạt động ngân 
hàng và hệ thống các TCTD; 
bảo đảm sự an toàn, hiệu 
quả của hệ thống thanh toán 
quốc gia; góp phần thúc đẩy 
phát triển kinh tế- xã hội theo 
định hướng xã hội chủ nghĩa” 
(Khoản 1 Điều 4 Luật NHNN 
2010). Để đạt được mục tiêu 
này, Luật Các TCTD hiện 
hành có khá nhiều quy định 
cho phép NHNN có các biện 
pháp can thiệp vào thực tiễn 
quản trị NHTMCP. Cụ thể là:
- Có quyền đình chỉ, tạm đình 
chỉ việc thực thi quyền, nghĩa 
vụ của Chủ tịch, các thành 
viên Hội đồng quản trị, Hội 
đồng thành viên, Trưởng ban, 
các thành viên Ban kiểm soát, 
người điều hành TCTD vi 
phạm quy định tại Điều 34 của 
Luật này, quy định khác của 
pháp luật có liên quan trong 
quá trình thực hiện quyền, 
nghĩa vụ được giao; yêu cầu 
cơ quan có thẩm quyền miễn 
nhiệm, bầu, bổ nhiệm người 
thay thế hoặc chỉ định người 
thay thế nếu xét thấy cần thiết 
(Khoản 1 Điều 37 Luật các 
TCTD 2010).
- Hướng dẫn Hội đồng quản 
trị, Hội đồng thành viên quy 
định nhiệm vụ, quyền hạn Ủy 
ban quản lý rủi ro và Ủy ban 
nhân sự (Khoản 6 Điều 43 
Luật Các TCTD 2010). 
- Chấp thuận danh sách dự 
kiến những người được bầu, 
bổ nhiệm làm thành viên Hội 
đồng quản trị, thành viên Hội 
đồng thành viên, thành viên 
Ban kiểm soát, Tổng giám 
đốc/ Giám đốc của TCTD 
(Điều 51 Luật Các TCTD 
2010).
- Quyền yêu cầu Hội đồng 
quản trị của TCTD cổ phần 
triệu tập Đại hội đồng cổ đông 
bất thường và quyết định về 
nội dung NHNN yêu cầu trong 
trường hợp xảy ra sự kiện ảnh 
hưởng đến an toàn hoạt động 
của TCTD cổ phần (Điều 60 
Luật Các TCTD 2010).
Tuy nhiên, việc giới hạn hay 
xác định cơ sở cho những can 
thiện của NHNN vào thực tiễn 
quản trị NHTMCP Việt Nam 
là rất cần thiết để xác định rõ 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
50 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 190- Tháng 3. 2018
hơn trách nhiệm của người 
quản lý, điều hành trong thực 
tiễn quản trị NHTMCP.
Thứ tư, sự gia tăng đáng lo 
ngại của tội phạm do người 
quản lý điều hành thực hiện 
với yêu cầu nâng cao hiệu 
quả hoạt động giám sát của 
NHNN và giám sát nội bộ 
của NHTM. Đây là vấn đề 
nổi cộm trong thực thi pháp 
luật quản trị NHTMCP ở Việt 
Nam. Điều này đặt ra đòi hỏi 
phải thiết lập được hệ thống 
kiểm soát nội bộ và phát huy 
vai trò của Ban Kiểm soát 
trong việc phát hiện sớm, 
ngăn ngừa hiệu quả hành vi 
phạm tội, nhất là khả năng cấu 
kết giữa người quản lý, điều 
hành với khách hàng để trục 
lợi, gây tổn hại cho ngân hàng 
và cổ đông.
Thứ năm, văn hóa, đạo đức 
kinh doanh với việc xây dựng 
nền tảng đạo đức quản trị 
kinh doanh ở Việt Nam: Đạo 
đức kinh doanh ngân hàng đã 
được khá nhiều nghiên cứu 
thực hiện và làm rõ được một 
số vấn đề lý luận và thực tiễn 
của đạo đức kinh doanh ngân 
hàng. Các nghiên cứu về đạo 
đức quản trị kinh doanh trong 
hoạt động ngân hàng chưa 
được đề cập một cách có hệ 
thống. Thực tiễn thực thi pháp 
luật quản trị NHTMCP Việt 
Nam thời gian qua cho thấy, 
nếu đạo đức quản trị ngân 
hàng được quan tâm thích 
đáng thì sẽ tạo được “rào 
chắn” vững chắc bảo đảm cho 
hoạt động quản trị NHTMCP 
trước những tác động của 
hành vi vi phạm. Do vậy, xây 
dựng quy tắc đạo đức kinh 
doanh trong hoạt động quản 
trị cần phải được quan tâm 
thích đáng.
5. Kết luận 
Từ kết quả nghiên cứu trên 
đây cho thấy, ở khía cạnh lý 
luận pháp luật của Việt Nam 
về quản trị công ty nói chung, 
quản trị NHTMCP nói riêng 
đã “du nhập” tương đối thành 
công các lý thuyết quản trị 
công ty hiện đại vào trong 
các quy định pháp luật. Ở 
khía cạnh luật thực định, có 
thể dễ dàng nhận ra quá trình 
làm rõ tư cách doanh nghiệp 
của các TCTD nói chung, 
các NHTMCP nói riêng. Và 
như thế, khuôn khổ pháp luật 
điều chỉnh hoạt động quản trị 
NHTMCP ở Việt Nam vừa 
phải tuân thủ pháp luật doanh 
nghiệp, vừa phải tuân thủ 
pháp luật về TCTD, trong đó 
có NHTMCP. Về cơ bản có 
thể nhận thấy, pháp luật quản 
trị NHTMCP ở Việt Nam đã 
phản ánh được những yêu cầu 
đặc thù trong các quy định 
về quản trị NHTMCP. Các 
đặc thù này xuất phát từ đặc 
trưng của chính hoạt động 
ngân hàng- một lĩnh vực kinh 
doanh ẩn chứa nhiều rủi ro và 
có tác động mạnh mẽ tới các 
mặt, khía cạnh của đời sống 
kinh tế xã hội quốc gia.
Thực tiễn áp dụng pháp luật 
quản trị NHTMCP thời gian 
qua đã bộc lộ những nhược 
điểm được xem là căn nguyên 
dẫn tới tình trạng gia tăng tội 
phạm do người quản lý, người 
điều hành NHTMCP thực 
hiện. Đồng thời, nhiều chuẩn 
mực quản trị NHTM chưa 
được cụ thể hóa hoặc hướng 
dẫn chi tiết, nhất là việc thực 
hiện trách nhiệm của người 
quản lý, người điều hành, vai 
trò của NHNN cũng như các 
chuẩn mực đạo đức, văn hóa 
trong kinh doanh ngân hàng 
có tác động đến hiệu lực, 
hiệu quả quản trị NHTMCP. 
Những vấn đề này cần phải 
được nhanh chóng nghiên cứu 
khắc phục để đạt được hiệu 
quả quản trị NHTMCP ở mức 
cao nhất, từ đó góp phần nâng 
cao tính minh bạch, hiệu quả 
hoạt động của các NHTMCP 
trên thị trường ngân hàng Việt 
Nam hiện nay. ■
Tài liệu tham khảo
1. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010.
2. Luật Các Tổ chức tín dụng 2010.
3. Pháp lệnh Ngân hàng thương mại, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính 1990.
4. Hoàng Phương Anh (2016), Quản trị doanh nghiệp: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tài 
chính Kế toán số 6/2016.
5. Hà Thị Thanh Bình (2015), Sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quản lý điều hành trong quản trị công ty, Tạp chí Nhà nước 
và Pháp luật, số 10/2015
6. Nguyễn Ngọc Cường (2016), Những vấn đề hiện đại về quản trị ngân hàng, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: 
Luật học, Tập 32, Số 1 (2016).
7. Nguyễn Thị Dung, Nguyễn Như Chính (2009), Đảm bảo quyền lợi của cổ đông công ty cổ phần theo các nguyên tắc quản trị 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
51Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 190- Tháng 3. 2018
công ty của OECD, Tạp chí Luật học, số 10/2009.
8. Viên Thế Giang, Bùi Hữu Toàn, Nguyễn Trung Kiên (2018), Nhận diện các nhân tố tác động đến hoạt động quản trị công ty 
của các ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng số 1/2018.
9. Viên Thế Giang, Nguyễn Trung Kiên (2017), Pháp luật về quản trị ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam: Thực trạng và 
phương hướng hoàn thiện, Tạp chí Ngân hàng, số 19/2017.
10. Bùi Xuân Hải (2012), Lý luận và mô hình quản trị công ty ở nước ngoài và vấn đề tiếp nhận vào Việt Nam, Tạp chí Nhà nước 
và Pháp luật, số 5/2012.
11. Phan Ngọc Hoàng (2016), Bảo vệ quyền của cổ đông công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2014, Tạp chí Dân chủ & 
Pháp luật, số 10 (295)/2016
12. Nguyễn Thị Lan Hương (2014), Bảo đảm sự công bằng giữa các cổ đông trong dự thảo Luật doanh nghiệp (sửa đổi), Tạp chí 
nghiên cứu lập pháp, 2014, số 20 (276).
13. Phạm Bảo Khánh (2015), Nghiên cứu ứng dụng lý thuyết người đại diện trong quản trị ngân hàng thương mại, Luận án tiến 
sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
14. Trần Hoàng Ngân, Phạm Quốc Việt (2016), Mối quan hệ giữa quản trị công ty và thanh khoản của các ngân hàng thương 
mại Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng số 3+4 tháng 2/2016.
15. Lê Minh Toàn (2015), Pháp luật về quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam theo quy định của luật doanh nghiệp 2014, Tạp chí 
Nhà nước và pháp luật, số 5(325)/2015.
16. Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC), Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (2010), Cẩm nang Quản trị Công ty tại Việt Nam, Hà Nội, 
tháng 10/2010.
17. Trần Thị Thanh Tú, Phạm Bảo Khánh (2013), Quản trị công ty trong ngân hàng: Nghiên cứu điển hình tại Ngân hàng 
Thương mại Cổ phần và Ngân hàng Thương mại Nhà nước, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, Kinh tế và Kinh doanh, 
Tập 29, Số 4 (2013).
Thông tin tác giả
Bùi Hữu Toàn, Tiến sĩ
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Email: toan.buihuu@sbv.gov.vn
Summary
Applicable laws on governance of joint stock commercial banks: Facts and issues
Governance of commercial joint stock commercial banks (JSBs) means individual banks management at micro 
level and the stability of financial system at macro level. That is why bank governance should be preferably aimed 
at strengthening the stability of the financial market not at maximizing the profit of shareholders. However, the 
corporate governance in general and governance of JSCBs in particular is rather fresh in Vietnam and exposes 
some issues on legal framework . In this article, the author will work with the conception development; review 
legal framework for corporate governance in Vietnam; identify obstacles in implementation of applicable law 
and propose solutions to complete legal framework to enhance the role of governance of Vietnam joint stock 
commercial banks.
Key-words: laws for corporate governance, joint stock commercial bank. 
Toan Huu Bui, PhD
State Bank of Vietnam

File đính kèm:

  • pdfap_dung_phap_luat_quan_tri_cong_ty_doi_voi_ngan_hang_thuong.pdf