Bài giảng Cơ sở văn hóa Việt Nam - Phùng Quý Nhâm (Phần 1)
KHÁI NIỆM VĂN HÓA, HỆ THỐNG VĂN HÓA
I. XÁC ĐỊNH KHÁI NIỆM VĂN HÓA :
1. Thuật ngữ văn hóa trong cách hiểu của người Trung Hoa cổ :
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa Trung Quốc hiện nay thì có 160 cách hiểu, các quan
niệm khác nhau. Và cách hiểu thời xưa khác cách hiểu ngày nay.
Thời xưa, từ văn hóa trong “Chu Dịch” được tách thành hai từ văn và hóa :
“Quan hồ nhân văn, dĩ hóa thành thiên hạ”.
(Xem dáng về con người, lấy đó mà giáo hóa thiên hạ)
Nghĩa gốc của từ văn là vẻ đẹp do màu sắc tạo ra. Văn là hình thức đẹp đẽ trong lễ,
nhạc, trong cai trị, trong ngôn ngữ, trong cách cư xử .
Đến thời Tây Hán, Lưu Hướng (77 trước CN) đã sử dụng từ văn hóa sớm nhất, được
hiểu như một phương thức giáo hóa con người : “Dùng văn hóa không thay đổi được sẽ chinh
phạt”.
Về sau, từ văn hóa được hiểu như là một phương thức để xây dựng cuộc sống, xây
dựng xã hội :
“Văn hóa nội tập
Vũ công ngoại tư”
(Văn hóa làm cho bên trong hòa mục
Vũ công để sửa sang bên ngoài)
2. Quan niệm văn hóa hiện nay :
Từ văn hóa (tiếng Latin: Cultus). Cultusagri có nghĩa trồng trọt ngoài đồng, Cultusanimi
có nghĩa là trồng trọt tinh thần.
Cách hiểu phổ biến hiện nay, văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần mà
loài người đã tạo ra trong tiến trình lịch sử.
Văn hóa là tổng hòa các phương tiện sau:
- Hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần.
- Những hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người.
- Hệ thống tri thức và kiến thức của dân tộc, loài người.
- Trình độ cao trong sinh hoạt xã hội.
Văn hóa của một thời đại, một thời kỳ lịch sử nhất định. Văn hóa có thể hiểu theo một
nghĩa rộng bao gồm:
- Đó là phương thức sản xuất ra của cải vật chất: phương pháp, công cụ, quá trình công
nghệ .
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Cơ sở văn hóa Việt Nam - Phùng Quý Nhâm (Phần 1)
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH KHOA NGỮ VĂN PHÙNG QUÝ NHÂM Tài liệu lưu hành nội bộ - 2002 LỜØI MỞÛ ĐẦÀU Trên bước đường phát triển, mỗi dân tộc, dù lớn hay bé đều tự khẳng định bản sắc văn hóa của mình. Nhất là trong thời đại hậu công nghệ ngày nay, điều ấy càng được ý thức rõ rệt. Mỗi dân tộc đều phải biết lý lịch văn hóa của mình, mỗi con người phải có căn cước văn hóa của dân tộc mình. Ai đánh mất lý lịch văn hóa, căn cước văn hóa dân tộc mình người ấy sẽ lạc hướng đi trong một thời đại có nhiều biến đổi như hiện nay. Thật đáng buồn khi mỗi chúng ta không hiểu gì về nền văn hóa của dân tộc mình. Khi chưa hiểu mình thật khó lòng hiểu người khác. Chỉ có thể hiểu nền văn hóa, văn minh của các dân tộc khác khi anh đã hiểu được nền văn hóa, văn minh của dân tộc mình. Với một tinh thần, một ý thức như vậy, chúng ta tìm hiểu văn hóa Việt Nam. Cơ sở văn hóa Việt Nam sẽ đề cập chủ yếu các vấn đề sau: 1. Xác định khái niệm văn hóa và hệ thống văn hóa. 2. Tiến trình văn hóa Việt Nam. 3. Những đặc trưng văn hóa của cộng đồng người Việt. KHÁI NIỆM VĂN HÓA, HỆ THỐNG VĂN HÓA I. XÁC ĐỊNH KHÁI NIỆM VĂN HÓA : 1. Thuật ngữ văn hóa trong cách hiểu của người Trung Hoa cổ : Theo các nhà nghiên cứu văn hóa Trung Quốc hiện nay thì có 160 cách hiểu, các quan niệm khác nhau. Và cách hiểu thời xưa khác cách hiểu ngày nay. Thời xưa, từ văn hóa trong “Chu Dịch” được tách thành hai từ văn và hóa : “Quan hồ nhân văn, dĩ hóa thành thiên hạ”. (Xem dáng về con người, lấy đó mà giáo hóa thiên hạ) Nghĩa gốc của từ văn là vẻ đẹp do màu sắc tạo ra. Văn là hình thức đẹp đẽ trong lễ, nhạc, trong cai trị, trong ngôn ngữ, trong cách cư xử .... Đến thời Tây Hán, Lưu Hướng (77 trước CN) đã sử dụng từ văn hóa sớm nhất, được hiểu như một phương thức giáo hóa con người : “Dùng văn hóa không thay đổi được sẽ chinh phạt”. Về sau, từ văn hóa được hiểu như là một phương thức để xây dựng cuộc sống, xây dựng xã hội : “Văn hóa nội tập Vũ công ngoại tư” (Văn hóa làm cho bên trong hòa mục Vũ công để sửa sang bên ngoài) 2. Quan niệm văn hóa hiện nay : Từ văn hóa (tiếng Latin: Cultus). Cultusagri có nghĩa trồng trọt ngoài đồng, Cultusanimi có nghĩa là trồng trọt tinh thần. Cách hiểu phổ biến hiện nay, văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần mà loài người đã tạo ra trong tiến trình lịch sử. Văn hóa là tổng hòa các phương tiện sau: - Hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần. - Những hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người. - Hệ thống tri thức và kiến thức của dân tộc, loài người. - Trình độ cao trong sinh hoạt xã hội. Văn hóa của một thời đại, một thời kỳ lịch sử nhất định. Văn hóa có thể hiểu theo một nghĩa rộng bao gồm: - Đó là phương thức sản xuất ra của cải vật chất: phương pháp, công cụ, quá trình công nghệ .... - Sinh hoạt vật chất : ăn, mặc, ở đi lại ... - Tổ chức cộng đồng (gia đình, làng nước) - Sinh hoạt tinh thần : tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục, lễ hội ... - Kiến thức và tri thức về tự nhiên và xã hội. - Đời sống tư tưởng, tình cảm, quan niệm đạo đức, nhận thức về thế giới, về nhân sinh. Theo Thủ tướng Ấn Độ Jawa Harlal Nêhru, văn hóa có 3 phương diện : tư tưởng, phương pháp, lao động say sưa bền bĩ (bài phát biểu trong lễ thành lập Ban liên lạc văn hóa với nước ngoài của Ấn Độ ngày 09/04/1950 – Báo Nhân Dân đăng lại tháng 02/1990). Cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết : “Nói tới văn hóa là nói tới một lãnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử ... Cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hóa với nghĩa bao quát và cao đẹp nhất của nó, bao gồm cả hệ thống giá trị : tư tưởng và tình cảm, đạo đức và phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ bản sắc và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh”(1) 3. Văn hóa, văn hiến, văn minh: a. Văn hóa : Văn hóa có nhiều nghĩa. Theo nghĩa rộng: Văn hóa là trình độ phát triển nhất định trong lịch sử xã hội và con người; là tất cả những cái gì do con người sáng tạo ra. Văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử, mang đậm bản sắc dân tộc. Ở đây, chúng ta có thể gặp với quan niệm của ngài Federico Mayor: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của con người diễn ra trong quá khứ cũng như trong hiện tại. Qua hàng thế kỷ, các hoạt động sáng tạo ấy cấu thành một hệ thống giá trị, truyền thống, thị hiếu, thẩm mỹ và lối sống dựa vào đó từng dân tộc khảng định bản sắc riêng của mình”. b. Văn hiến : Văn hiến là những giá trị tinh thần, đạo lý của một “dân tộc”. Khái niệm văn hiến được sử thần Ngô Sĩ Liên nói đến trong cuốn Đại Việt sử ký toàn thư: “Nước ta là nước Văn hiến bắt đầu từ thời Sĩ Nhiếp” Nguyễn Trãi trong hùng văn: “Bình Ngô Đại Cáo” cũng đã viết: “Như nước Đại Việt ta từ trước. Vốn xưng nền Văn hiến đã lâu” 1Phạm Văn Đồng: Văn hố và đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, HN, 1994 tr.16 c. Văn minh: Văn minh là những giá trị được xác lập trong sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, khoa học và công nghệ trong lối sống và sự vận dụng những tiến bộ đó vào trong đời sống mỗi người, trong cuộc sống của mỗi dân tộc. Như H.Momdjian đã nhận định: “Chỉ đến một giai đoạn mới về chất trong sự phát triển công cụ và hoạt động sản xuất cùng với văn hóa tinh thần mới báo hiệu là văn minh xuất hiện”(2) Văn hóa và văn minh : trong cuộc sống của cộng đồng người, một tập tục, một phong tục nào đó có thể đó là biểu hiện văn hóa. Thói quen mặc của cư dân Tiểu Vương quốc Micro-Nêcia là một hiện tượng văn hóa nhưng không thể xem là văn minh. Ngược lại, có nhiều dân tộc, nhiều quốc gia đạt được đến trình độ văn minh như nhau, nhưng nền văn hóa của mỗi dân tộc lại có đặc điểm, có bản sắc khác nhau. Ví dụ, văn minh Âu Mỹ có thể ngang với văn minh Nhật, song về văn hóa thì Mỹ và Nhật lại hoàn toàn khác nhau về bản sắc. Người cõng nhau nhảy múa (tượng đồng Đông Sơn) Nếu khái niệm văn hóa được hiểu như là những giá trị do bàn tay và khối óc con người tạo ra (tức không phải cái vốn có trong tự nhiên, do tự nhiên ban phát) thì văn minh trong một ý nghĩa nhất định hàm chứa những yếu tố, những giá trị tích cực như là một tổng thể. Văn minh là một khái niệm lịch sử. Ở mỗi thời đại lịch sử, văn minh gắn liền với sự tiến bộ trong sản xuất vật chất với sự hình thành một trình độ văn minh tinh thần mới về chất, đem lại cho con người những giá trị mới, tích cực góp phần vào sự phát triển của xã hội, của cộng đồng và cá nhân. Theo nhà nghiên cứu Phan Ngọc, thì nghiên cứu văn hóa là nghiên cứu mặt tĩnh, bao gồm lễ hội phong tục, sinh hoạt vật chất, thể chế xã hội, chính trị, nghệ thuật ... Nghiên cứu văn minh là nghiên cứu mặt động, nghiên cứu sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, và sự áp dụng những tiến bộ đó vào trong cuộc sống của mỗi dân tộc. 4. Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh của văn hóa Đông Á hay Đông Nam Á : Theo giới nghiên cứu văn hóa phương Tây, các nhà văn hóa học xếp văn hóa Việt Nam vào khu vực văn hóa Đông Á. Tiêu biểu là công trình: Một công trình nghiên cứu về lịch sử (A Study of history – xuất bản ở Luân Đôn) học giả người Anh Arnorld Toynbec đã điểm đến 34 nền văn minh đặc sắc trên toàn thế giới. Trong số 34 nền văn minh ấy chỉ còn lại 18 nền văn 2 Những cột mốc lịch sử, NXB Mác Lê-nin, HN, 1986, tr. 167. minh đang tồn tại và phát triển. Nền văn hóa, văn minh Việt Nam là một trong 18 nền văn hóa, văn minh ấy. Nhà học giả xếp văn hóa, văn minh Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam vào cùng một loại vì có những nét tương đồng. Văn minh Trung Hoa là trung tâm, là ngọn nguồn. Còn các nền văn minh Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam là nền văn minh vệ tinh. A. Tonybec cho rằng 4 nền văn minh này tạo nên một vùng văn hóa riêng biệt. Đó là vùng văn hóa Đông Á (Asie Orientale). Nét chung cơ tầng của các nền văn minh này là tâm linh con người. Nhưng theo Giáo sư Đinh Gia Khánh trong cuốn “Văn minh dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á” (NXB KHXH, HN, 1993) ông cũng không hoàn toàn bác bỏ quan điểm của các nhà văn hóa phương Tây khi xếp văn hóa, văn minh Việt Nam vào khu vực Đông Á. Nhưng điều cần lưu ý là ở chỗ nước ta là nước thuộc vùng Đông Nam Á (3), do vậy cần đặt văn hóa, văn minh Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á. Có như vậy thì mới tránh cái nhìn phiến diện trong khi nghiên cứu văn hóa Việt Nam cần liên hệ với các nền văn hóa lân cận nhưng có ảnh hưởng khác nhau, hoặc ít, hoặc nhiều đến sự hình thành và phát triển văn hóa Việt Nam. 5. Văn hóa phương Đông và phương Tây : Có ý kiến cho rằng các nền văn hóa phương Đông, châu Phi là những nền văn hóa thiếu lý tính, thiếu sự khai sáng của văn hóa, văn minh Châu Âu. Nhận định ấy là không hợp lý. Nhà thơ Ấn Độ Rabin Tagore có lần đã phát biểu “Đã có lúc tôi tin rằng nguồn suối của văn minh có thể phát nguồn từ trái tim Châu Âu. Nhưng bây giờ, khi tôi sắp từ giã cõi đời niềm tin đó đã từ bỏ tôi. Tôi nhìn quanh và thấy tro tàn đổ nát của một nền văn minh đầy tự hào vương vai. Tuy nhiên tôi không phán cãi cái tôi đã mất lòng tin vào con người. Có lẽ bình minh sẽ đến từ phương Đông... nơi mặt trời mọc”. Dĩ nhiên mỗi nền văn hóa, văn minh của nhân loại đều có giá trị lịch sử, có ý nghĩa tích cực trong sự phát triển xã hội. Song do đặc điểm về địa lý, lịch sử, ngôn ngữ... văn hóa phương Tây và văn hóa Phương Đông có những nét khác nhau. Văn hóa Phương Tây thường đi tìm cái dị biệt của các hiện tượng, các sự vật trong tự nhiên, trong xã hội và tư duy. Điều này do ảnh hưởng, chi phối của chủ nghĩa duy lý. Triết học duy lý nhìn sự vật, hiện tượng trong sự phân cắt, phân giải. Văn hóa phương Tây coi trọng lý tính, coi trọng và đạt đến văn minh vật chất. Tư duy của người Phương Tây là tư duy tuyến. Văn hóa Phương Đông đi tìm cái hòa đồng, cái dung hợp. Văn hóa phương Đông lý giải các hiện tượng, các sự vật trong tính lưỡng phân, lưỡng hợp: âm-dương, nhật-nguyệt, trời đất... văn hóa phương Đông chú ý các chiều kích của lý tính. Văn hóa phương Đông vươn tới các giá trị tinh thần, tư duy của người phương Đông là tư duy trường. 3 Khái niệm : Vùng ĐNÁ gồm 10 nước : Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện, Malaixia, Indonexia, Philippine, Brunêi. Thời tiền sử vùng ĐNÁ có Hoa Nam (Trung Quốc hiện nay). Một đặc điểm nữa của lối sống phương Đông là con người luôn luôn sống cộng sinh với quá khứ, với truyền thống, ví dụ như ý thức về dòng họ, về gia tộc, về sự thờ cúng tổ tiên. Có thể trong văn hóa phương Tây, con người quay về quá khứ như là một thái độ ngưỡng mộ, chứ không phải là một thái độ cộng sinh. Cộng sinh được hiểu như là một thái độ tôn trọng ngưỡng mộ, vừa là một lực đẩy, một sức mạnh thôi thúc tinh thần con người hiện tại. Người phương Đông không lý giải cái chết, song họ tin linh hồn con người chết vẫn hiện hữu trong tâm tưởng của người đang sống, và biết đề ra những cách ứng xử thích hợp cho con người. Thế kỷ VI nước CV, Tôn Thất Bá đã xác lập ba điểm tồn tại mãi không hư nát đối với mỗi con người. Đó là luật tam bất hủ cho mỗi con người: Lập đức, Lập công, Lập ngôn. 6. Vấn đề nội sinh, ngoại sinh và cộng sinh đối với văn hóa dân tộc: - Nội sinh: Những yếu tố nội sinh là những yếu tố quy định và quyết định bản sắc dân tộc của mỗi nền văn hóa. - Ngoại sinh: là những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới sự phát triển của văn hóa dân tộc. - Cộng sinh: trên cơ sở những yếu tố nội sinh và ngoại sinh, văn hóa dân tộc tìm thấy những nhân tố tích cực, hữu ích để phát triển một cách đa dạng, phong phú nền văn hóa dân tộc. II. HỆ THỐNG PHÂN CHIA VĂN HÓA : Như trên đã xác định văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần. Ở đây cần xác lập hệ thống văn hóa theo một chỉ tiêu nhất định để khảo sát nền văn hóa. Dĩ nhiên cách xác lập hệ thống này có thể khác nhau. Ở đây chúng tôi xem hệ thống văn hóa như một cấu trúc nội tại, vận động và tác động chủ yếu của những yếu tố nội sinh. Đương nhiên khi xem xét từng yếu tố có chú ý đến những yếu tố ngoại sinh tác động đến nền văn hóa dân tộc. Theo cách phân chia của chúng tôi, văn hóa được xem xét trong một cấu trúc như sau : - Văn hóa của động đồng người Việt : tổ chức cộng đồng Nhà-làng-Nước. Văn hóa vật chất của cộng đồng. Văn hóa tinh thần của cộng đồng. - Văn hóa giao tiếp ứng xử : giao tiếp ứng xử giữa con người và con người; giao tiếp ứng xử với môi trường tự nhiên; giao tiếp ứng xử với môi trường xã hội (chủ yếu là môi trường văn hóa) - Văn hóa thẩm mỹ : đặc trưng của văn hóa thẩm mỹ của dân tộc Việt. - Việc xác lập một hệ thống như vậy cũng để tiện cho việc khảo sát một nền văn hóa dân tộc, nhưng nó không hẳn là tiêu chí cho mọi nền văn hóa. Tùy theo đặc trưng của mỗi nền văn hó ... nh nhìn về phía quãng trường Ba Đình. Cửa Nam cũng không còn, ước định nhìn ra chợ cửa Nam. Đến thế kỷ XV, đời vua Lê Thánh Tông đã chia Thăng Long Thành 2 huyện Vạn Xương (sau đổi thành Thọ Xương) và Quảng Đức (sau đổi thành Vĩnh Thuận). Tình trạng này cho đến cuối nhà Lê. Thời Tây Sơn gọi Thăng Long là Bắc Thành. Thời Gia Long vẫn giữ tên cũ nhưng không còn là kinh đô mà chỉ là trấn thuộc Bắc Hà thời vua Minh Mạng đổi Thăng Long thành tỉnh Hà Nội (1831). Trong nội thành Thăng Long, các triều đại phong kiến đã cho xây nhiều Cung và Điện. 1010 Lý Công Uẩn cho xây Điện Càn Nguyên, 7 điện và 3 cung khác. Điện Càn Nguyên là nơi thiết triều (đến 1029 được tu bổ và đổi thành Thiệu An và sau đó lại đổi là Phụng Thiên. Cuối nhà Lý các công trình này bị tàn phá. Thời nhà Trần cho xây các điện Thiên An, Bát giác, Diêm Hiền (nơi làm việc của vua, nơi thiết triều và thiết yếu). Ngoài ra nhà Trần cho xây dựng một số cung và Điện Diên Hồng (nơi diễn ra hội nghị Diên Hồng) thời hậu Lê, Lê Thái Tổ cho xây điện Kính Thiên. 1465 Lê Thánh Tông mở rộng qui mô và cho làm thêm 2 con rồng bằng đá trước cửa chính. Ngoài kính Thiên có điện Vạn Thọ (nơi vua làm việc), Phụng Thiên (nơi thờ cúng tổ tiên). Tại Kính Thiên nay, Quang Trung đã yết kiến, Minh Mạng tiếp sứ thần Trung Quốc. 1882 điện Kính Thiên vẫn còn, nhưng đến 1886 thực dân Pháp tấn công Hà Nội đã đốt phá điện Kính Thiên di tích còn lại hiện nay là nền điện và 2 con rồng bằng đá trước thềm điện Kính Thiên. - Tháp: trong thời Đại Việt, các triều đại phong kiến cho xây nhiều tháp. Tháp được kiến trúc nhiều tầng. Tiêu biểu là Tháp Bình sơn (xã Tam Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Phúc) Tháp xây từ thế kỷ XII. Tháp là công trình kiến trúc cổ bằng đất nung, hình vuông, thon dần từ dưới lên, có 12 tầng, cao 16m. Bệ tháp rộng mới chiếm 5m, ở đỉnh mỗi cạnh là 1,5m. Lòng tháp rỗng. - Chùa: Trong thời Đại Việt, nhiều chùa chiếm được xây. Nhất là ở thời Lý, Phật giáo rất phát triển. Nhiều ngôi chùa đã tạo dựng trong các chùa thì chùa Một Cột là khá độc đáo. Chùa Một Cột hiện tọa lạc ở phía Tây Nam Lăng Hồ Chí Minh, chùa xây năm 1049 đời Lý Thái Tông chùa có tên gọi là Diệu Hưng. Trước khi rút khôi Hà Nội 1954, các thế lực thù địch, đánh thuốc nổ phá chùa. 1955, chính phủ ta cho trùng tu lại. c. Điêu khắc: Đáng chú ý ở thời này là điêu khắc phật giáo: - Tượng phật A Di Đà bằng đá (đời Lý) ở chùa Phật tích. - Tượng Quan Âm, nghìn mắt, nghìn tay bằng gỗ do nghệ nhân Trương Văn Thọ khắc thời Lê Mạc đặt ở chùa Bát Tháp (Hà Bắc). - Hương Ấn ở chùa Sài Gòn (Hà Tây) d. Tranh dân gian: Những bức tranh còn lưu lại những hình vẽ màu trên gỗ ở đình Cẩu Đà (hạ Sơn Bình) đình Lâu Thượng (Vĩnh Phú), một số tranh chân dung tranh sinh hoạt, tranh tôn giáo, đặc biệt là tranh dân gian thời hậu Lê. Trong các loại tranh dân gian, đáng chú ý là tranh Đông Hồ và Hàng Trống. Đông Hồ thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành Bắc Ninh là một làng nằm sát bờ sông Đuống các Hà Nội 30km về hướng Đông ở tranh Đông Hồ, các nghệ nhân dân gian đã tiếp thu nghệ thuật khắc kính, nghệ thuật chạm trỗ, rồi đem tranh khắc vào gỗ, sau đó in tranh. Tranh Đông Hồ chủ yếu dùng để trang trí, nhất là trong dịp tết. Hình 98 Hình 99 Tranh hàng trống xuất hiện muộn hơn, có thế những nghệ nhân Đông Hồ truyền đến đây. Tranh Hàng Trống có nội dung, kỹ thuật và phong cách khác hơn. Tranh Hàng Trống chủ yếu là để thờ. Xin nói thêm về tranh Đông Hồ: Tranh Đông Hồ có vẻ đẹp bình dị và độc đáo. Giấy in tranh là loại giấy dó; mặt giấy mịn được hòa với màu sắc cổ truyền từ hoa lá, màu sơn từ đất đá, màu trắng từ tinh chất của con Điệp. Tranh Đông Hồ màu bền, không bị phai nhạt với ánh sáng và thời gian. e. Một số công trình khảo cứu về lịch sử và văn học. - Đại Việt sử ký, do Lê Văn Hưu (Bảng Nhân) soạn 1272. - “Việt Chi” (Cành Việt) do Trần Tần Soạn đời vua Lê Thái Tông - “Việt sử cương mục” và “Nam Việt thế chi” do Hồ Tông Thới soạn giữa thế kỷ XV. - “Đại Việt sử ký tục biên” do Phan Phu Tiên soạn theo chỉ dụ của Lê Nhân Tông (hoàn thành 1455). - “Đại Việt Sử ký toàn thư” do Ngô Sĩ Liêm soạn theo chỉ dụ của Vua Lê Thánh Tông (1479). - Nguyễn Văn Chất đã khôi phục hiệu chỉnh và bổ sung văn báo cuốn “Việt điện u linh” - Vũ Quỳnh và Kiều Phú khôi phục, hậu chỉnh tập “Lĩnh Nam trích quái” g. Một số bộ luật thời Đại Việt - Thời Lý Thái Tông (1028 – 1054) cho soạn xong luật: Hình Thư (1040). Bộ luật này hiện không còn. Thời Lê Thánh Tông (hiệu Hồng Đức) cho soạn xong luật: Hình Thư (1040). Bộ luật này hiện không còn. Thời Lê Thánh Tông (Hiệu Hồng Đức) cho soạn “Quốc Triều Hình Luật” (1483). Đây là một bộ luật có những nội dung tiến bộ ở đây, xin dẫn ra một số điều trong bộ luật đó: - 294 (điều 110: Trong kinh Thành hay phường ngõ và làng xóm có kẻ đau ốm mà không ai nuôi nấng nằm ở đường sá, cầu, chùa, điếm, quán thì xã quan ở đó phải dựng lều lên mà giữ gìn, săn sóc và cho họ cơm cháo thuốc men, cốt lo cứu cho họ sống, không được bỏ mặc họ nên rên rỉ khốn khổ. Nếu không may mà họ chết thì phải trình quan trên và chôn cất. Nếu trái lệnh này thì quan phường, xã phải tội biếm (phạt tiền) hay bãi chức. - 295 (điều 12). Những người góa vợ, góa chồng, mồ côi và người tàn tật nặng, nghèo khổ không có người thân thích, không thể tự mình mưu sống được, quan sở tại phải thu nuôi họ, nếu họ bị bỏ rơi thì cứ đánh 50 roi, biếm một tư. Nếu họ được cấp cơm áo, mà quán sở tại lại ăn bớt, thì phải khép vào tội như người giữ kho mà ăn trộm của công. Hình 103 Hình 104 Hình 105 - 308 (điều 35): Phàm chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại (vợ trình với sở tại và xã làm chứng) thì mất vợ. Nếu vợ đã có con thì cho hạn 1 năm. Vì việc quản phải đi xa thì không theo luật này. Nếu đã bỏ vợ mà ngăn người khác lấy vợ cũ thì phải phạm tội biếm. - Đối với dân: người dân dâng thư hoặc tâu việc dối trá thì bị biếm hoặc đồ (gian cầu hay lưu đày). Tố cáo không đúng sự thật bị phạt 80 trượng. Những bộ luật nêu trên chứng tỏ nhà nước Đại Việt muốn xây dựng một nhà nước pháp trị. 4. VĂN HÓA DƯỚI TRIỀU NGUYỄN VÀ VĂN HÓA THỜI PHÁP THUỘC. Văn hóa giai đoạn, này có thể tách thành 2 bộ phận: văn hóa dưới triều Nguyễn và văn hóa thời Pháp thuộc. Gia Long lên ngôi 1802, có làm tờ trình cho Vua nhà Thanh xin đặt tên nước là Nam Việt. Mãi đến 1804, nhà Thanh đồng ý là Việt Nam. Tên gọi Việt Nam có từ đó. Còn quốc hiệu Đại Nam là do Minh Mạng đặt. Giai đoạn này chế độ phong kiến Việt Nam đã đi vào thế suy yếu. Để giữ vững ngai vàng, triều Nguyễn ra sức củng cố địa vị của Nho giáo. Tư tưởng quán xuyến qua các triều vua Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức là tư tưởng thủ cựu, bế quan tỏa cảng, bài ngoại, từ chối sự canh tân đất nước. từ 1858 thực dân Pháp bắt đầu xâm chiếm nước ta, và cũng bắt đầu từ đó, dân ta sống trong cảnh một cổ hai tròng. Về mặt chính trị thực dân Pháp áp đặt bộ máy cai trị phụ thuộc hoàn toàn vào Pháp. Về mặt văn hóa, Pháp truyền bá tư tưởng văn hóa mẫu quốc, thực hiện chính sách ngu dân. 1. Văn hóa dưới triều Nguyễn. Văn hóa dưới triều Nguyễn về cơ bản là rập khuôn theo văn hóa nhà Thanh. Song dẫu sao sự vận động của văn hóa dân tộc lúc này vẫn theo qui luật kế thừa những giá trị của văn hóa ở các thời đại trước và do ý thức tự cường của dân tộc, đặc biệt là các nhà nho có tâm huyết; nên văn hóa thời này tạo được những thành quả đáng trân trọng. Chúng ta tự hào thời này có những tên tuổi gắn liền với lịch sử, với văn hóa của dân tộc như Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội Châu, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ v.v và đúng như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận xét: “Văn hóa triều Nguyễn văn kế thừa và phát triển di sản quý báu của thời trước và đã có nhiều nhà tư tưởng, nhà văn hóa lớn và nhiều thành quả quan trọng” (văn hóa và đổi mới – sđd, t.38) về văn hóa dưới triều Nguyễn, ta cần chú ý mấy điểm sau: 1.1. Khoa cử Dưới triều Nguyễn việc thi cử vẫn tiến hành. 1807, Gia Long đặt ra lệ thi Hương địa điểm thi Hương được mở như Hà Nội, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên, Bình Định, Gia Định, An Giang (chỉ 1 lần 1864). Thi Hương dưới triều Nguyễn trải qua 4 kỳ: Kỳ 1 : Kinh nghĩa Kỳ 2 : Thi, Phú Kỳ 3 : Văn sách Kỳ 4 : Phúc hạch Thời Gia Long, thí sinh đỗ 3 kỳ thi đầu gọi là Hương Cống (Cống sĩ) đỗ kỳ thi Phúc hạch gọi là Sinh đồ. Đến thời Minh Mạng, thí sinh đỗ 3 kỳ đầu của thi Hương gọi là tú tài, đậu kỳ thi thi Phúc hạch gọi là cử nhân. Gia Long đưa ra những qui định cho kỳ thi Hương. Những người không được đi thi: có tang cha mẹ; bất hiếu với ông bà, cha mẹ; loạn luân, cướp giật, trộm cắp, phản nghịch. Thể lệ trong kỳ thi Hương : không mang theo sách vở; không rời khỏi lều thi; Nếu thông đồng thì quan trường bãi chức thí sinh bị tội đồ; Nếu thi thay người khác thì bị bắt vào lính . Thi Hội: Thời Gia Long chưa tổ chức. Đến 1822 (thời Minh Mạng) mới có thi Hội (thi ở Kinh đô Huế vào mùa xuân các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi). Những người như : Cử nhân, giáo thụ, Huấn dạo được tham gia thi Hội. Thi hội có 4 kỳ thi : Kỳ 1 : Kinh nghĩa Kỳ 2 : Chiếu, Biểu, Luận Kỳ 3 : Thi, Phú Kỳ 4 : Văn sách. Người đậu thi Hội đủ số điểm qui định mới được tham gia thi Đình. Thi Đình tổ chức ở kinh đô Huế. Đề thi do vua chọn. Toàn hội đồng chấm. Người dân được phong là Tiến sĩ. Thời Nguyễn không phong Trạng Nguyên. Trong 39 lần th Đình nhà Nguyễn phong 2 Bảng Nhãn, 9 Thám Hoa và 546 Hoàng Giáp và Phó Bảng (Năm 1829, Minh Mạng). Thời Nguyễn có 2 cơ quan : Quốc tử giám và Quốc sư viện. Về sau, trước sự xâm nhập của văn hóa phương Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp, thì nền nho học đi vào thế bế tắc, hủ lậu. Thực dân Pháp mở trường Pháp Việt, dạy chữ Pháp, chữ Quốc ngữ, và khoa thi chữ Hán cuối cùng được tổ chức dưới thời Nguyễn vào 1918. 1.2. Về nghệ thuật : - Kiến trúc : kiến trúc dưới thời Nguyễn tập trung chủ yếu vào cung điện và lăng. Kiểu dáng thường phỏng theo kiến trúc đời Thanh hoặc kiến trúc Pháp. Cung điện bắt đầu xây từ thời Gian Long. Tiêu biểu là điện Thái Hòa. Đến thời Khải Định cung điện bắt chước theo kiến trúc Pháp (ví dụ điện Kiến Trung). Lăng gồm Lăng Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức (lăng Vạn Niên), Thiệu Trị, Khải Định. - Sân khấu : dưới triều Nguyễn, sân khấu tuồng khá phát triển. Các vua, quan nhà Nguyễn rất thích xem tuồng. Trong hoàng cung có một đội tuồng cung đình chuyên phục vụ cho vua quan nhà Nguyễn. Nội dung các vở tuồng mang nặng tư tưởng phong kiến. Nhưng về nghệ thuật tuồng, đặc biệt là nghệ thuật diễn xuất đã có những thành tựu đáng ghi nhận. 2. Văn hóa thời Pháp thuộc Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp, một mặt ra sức truyền bá tư tưởng và văn hóa Pháp, thiết lập một hệ thống giáo dục theo mô hình giáo dục của Pháp; mặt khác vẫn duy trì những đạo đức, phong tục phong kiến. Việc truyền bá những tư tưởng và văn hóa, lối sống phương Tây vào các đô thị nhằm lôi kéo tầng lớp trí thức thanh niên, làm cho họ xao lãng với vận mệnh của dân tộc, rắp tâm phục vụ cho bọn thực dân Pháp. Trước sự tác động của tư tưởng và văn hóa Pháp, chúng ta phải ghi nhận: một mặt, những ảnh hưởng xấu của văn hóa Pháp đối với nhân dân ta; song mặt khác, chính đây là lúc có sự gặp gỡ giữa văn hóa Đông – Tây đã tác động không ít đến sự vận động và phát triển của văn hóa dân tộc ở nhiều lãnh vực như giáo dục, khoa học, văn hóa nghệ thuật, báo chí.v.v Ví dụ ở lãnh vực giáo dục, về cơ bản thực dân Pháp thực hiện một chính sách ngu dân. Song nền giáo dục mà Pháp áp dụng ở nước ta đã đóng góp vào việc tạo ra một hệ thống giáo dục mới, một đội ngũ các nhà tri thức theo Tây học có trình độ cao; và chính đó là những hạt giống quí cho sự gieo trồng và phát triển giáo dục, văn hóa nghệ thuật ở những thời kỳ tiếp theo. Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu sơ lược hệ thống giáo dục Pháp áp dụng ở nước ta. Hệ thống giáo dục của Pháp có các bậc sau : a. Bậc Ấu học b. Bậc tiểu học - Sơ học - Tiểu học (3 năm) + Lớp nhì năm thứ nhất + Lớp nhì năm thứ hai + Lớp nhất - Cao đẳng tiểu học: các học sinh đậu tiểu học vào học cao đẳng tiểu học 4 năm. Tốt nghiệp nhận bằng thành chung. c. Bậc Trung học: lúc đầu chỉ mở ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Bậc trung học học 3 năm. Thi đậu tú tài cả 2 phần được tiếp tục học lên Đại học. d. Bậc đại học : 1988, toàn quyền Inbe Xarô xin chính phủ Pháp mở Đại học ở Việt Nam. Nhưng vì trên thế giới, không khí chiến tranh thế giới lần thứ 1 đang diễn ra, chính phủ Pháp đình chỉ. Mãi đến năm 1919 Pháp cho mở một số trường cao đẳng và đại học, ví dụ : trường Đại học Canh Nông; Đại học Khoa học, Trường cao đẳng sư phạm. Ngày 27/10/1924, Pháp cho mở trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ở Hà Nội nhưng đến 1938 đổi thành trường Mỹ nghệ Đông Dương. Lý do sự đổi này là thực dân Pháp không muốn đào tạo những nghệ sĩ tạo hình Việt Nam. Ngày 18/9/1924 thành lập Đông Dương Cao đẳng học viện, tiền thân của Đại học Luật sau này. Ngày 14/3/1924 tại rạp Quảng Lạc (Hà Nội) công chiếu bộ phim Kim Vân Kiều : có thể nói, Điện ảnh Việt Nam ra đời từ đây.
File đính kèm:
- bai_giang_co_so_van_hoa_viet_nam_phung_quy_nham_phan_1.pdf