Một số nội dung Việt hóa "Kim Vân Kiều truyện" thành "Truyện Kiều'' của Nguyễn Du

TÓM TẮT

“Truyện Kiều” là truyện Nôm nổi tiếng của Nguyễn Du, mượn cốt truyện từ tiểu thuyết văn

xuôi chữ Hán “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc).

Những yếu tố làm nên sự thành công của quá trình Việt hoá Truyện Kiều đó là: Sử dụng thể

thơ lục bát, sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ, lối nói dân gian, dùng nhiều từ ngữ thuần Việt, gần

gũi ngôn ngữ đời sống, không gian nghệ thuật trong tác phẩm mang màu sắc và hình ảnh đậm chất

văn hoá Việt.

pdf 12 trang yennguyen 5720
Bạn đang xem tài liệu "Một số nội dung Việt hóa "Kim Vân Kiều truyện" thành "Truyện Kiều'' của Nguyễn Du", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số nội dung Việt hóa "Kim Vân Kiều truyện" thành "Truyện Kiều'' của Nguyễn Du

Một số nội dung Việt hóa "Kim Vân Kiều truyện" thành "Truyện Kiều'' của Nguyễn Du
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 01 – THÁNG 11 NĂM 2015 21 
Kỷ niệm 250 năm ngày sinh Danh nhân văn hoá thế giới, đại thi hào Nguyễn Du 
MỘT SỐ NỘI DUNG VIỆT HÓA KIM VÂN KIỀU TRUYỆN 
THÀNH TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU 
Some Vietnamized contents from Kim Van Kieu Story into Kieu Story of Nguyen Du 
TS. Vũ Quỳnh Loan* 
TÓM TẮT 
“Truyện Kiều” là truyện Nôm nổi tiếng của Nguyễn Du, mượn cốt truyện từ tiểu thuyết văn 
xuôi chữ Hán “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). 
Những yếu tố làm nên sự thành công của quá trình Việt hoá Truyện Kiều đó là: Sử dụng thể 
thơ lục bát, sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ, lối nói dân gian, dùng nhiều từ ngữ thuần Việt, gần 
gũi ngôn ngữ đời sống, không gian nghệ thuật trong tác phẩm mang màu sắc và hình ảnh đậm chất 
văn hoá Việt. 
Từ khóa: Việt hóa, Kim Vân Kiều truyện, Truyện Kiều, Nguyễn Du. 
ABSTRACT 
Kieu Story is a famous Nom Story of Nguyen Du, and its plot was borrowed from a prose 
fiction of Chinese script namely KimVan Kieu Story written by Thanh Tam Tai Nhan (China). 
Factors made the success of Vietnamized process of Kieu Story are: the use of six-eight verse; 
the use of many proverbs, idioms, and folk speaking style; and the use of Vietnamese words that are 
close to everyday language, and art space in writings stores colours and images in which 
Vietnamese culture is salient. 
Keyword: Vietnamized, Kim Van Kieu Story, Kieu Story, Nguyen Du 
Bìa bản in năm 1979 
của NXB Văn học 
Bìa bản in năm 2007 
của NXB Giáo dục 
Bìa một trong những bản 
Kim Vân Kiều Truyện của 
Thanh Tâm Tài Nhân 
*
 Đại học Tân Trào – Tuyên Quang 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 01 – THÁNG 11 NĂM 2015 22 
Nội dung 
Truyện Kiều của Nguyễn Du là di sản văn hoá quý báu của dân tộc. “Tiếng kêu đứt ruột” 
(Đoạn trường tân thanh) dành cho nàng Kiều tài hoa bạc mệnh đã đưa Nguyễn Du trở thành một 
trong những người Việt Nam được công nhận là danh nhân văn hoá thế giới. Tại kỳ họp thứ 37 
(Pari, 2013), UNESCO đã quyết định cùng với Việt Nam sẽ kỷ niệm 250 năm ngày sinh của Đại thi 
hào Nguyễn Du vào năm 2015. Kiệt tác Truyện Kiều góp phần quan trọng nhất giúp đại thi hào 
Nguyễn Du trở thành “Danh nhân văn hóa thế giới” như Nguyễn Trãi (công nhận năm 1980) và Hồ 
Chí Minh (công nhận năm 1990). 
Hiếm có tác phẩm văn học nào lại có đời sống phong phú, nhiều màu sắc và chưa bao giờ ổn 
định như Truyện Kiều. Cứ như nỗi đoạn trường của nàng Kiều vận vào tác phẩm vậy. Cho đến nay, 
dù là tác phẩm văn học viết, nhưng do cuộc đời nhiều sóng gió của Nguyễn Du mà quá trình lưu 
truyền trắc trở, lại là tác phẩm gây chú ý ngay từ khi ra đời mà Truyện Kiều trở thành tác phẩm có 
nhiều dị bản nhất, hơn cả các tác phẩm văn học dân gian. 
Các bản chép, bản in Truyện Kiều từ trước đến nay rất nhiều và ít nhiều đều có dị bản. Trong 
trường hợp này, chúng tôi lựa chọn khảo sát và nghiên cứu bản in “Kiều” của Nhà xuất bản Văn 
học, năm 1979. 
Vị trí của Nguyễn Du trong lịch sử văn học dân tộc đã được khẳng định và không còn ai nghi 
ngờ gì nữa. 
“Nguyễn Du là người đã kết tinh mọi truyền thống ưu tú nhất của văn học bác học và văn học 
dân gian Việt Nam, người kết hợp vốn văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc để sáng tạo ra 
kiệt tác có tầm cỡ thế giới là Truyện Kiều. Với Truyện Kiều, ông đã đưa thể loại truyện Nôm vốn 
nôm na thịnh hành từ thế kỉ XVII lên một trình độ cổ điển, tiếp cận với thể loại tiểu thuyết tâm lí 
hiện đại. Ông đã đưa tiếng Việt văn học lên trình độ cổ điển tuyệt vời, trở thành mẫu mực của ngôn 
ngữ nghệ thuật dân tộc.”1 
Đánh giá về vị trí của Truyện Kiều đối với sự phát triển và gìn giữ tiếng nói dân tộc, ông 
Phạm Quỳnh, chủ bút Nam Phong tạp chí (một tờ nguyệt san xuất bản tại Việt Nam từ ngày 
1/7/1917 - tháng 12/1934) đã có câu nói bất hủ: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước 
ta còn”. 
Rất nhiều yếu tố làm lên vị trí ấy của Nguyễn Du trong nền văn hoá dân tộc. Một trong những 
lí do lớn nhất là Nguyễn Du đã vô cùng thành công khi Việt hoá Kim Vân Kiều truyện của 
Thanh Tâm Tài Nhân thành một tác phẩm Truyện Kiều của văn học Việt Nam nổi tiếng trên 
phạm vi thế giới. 
Những yếu tố làm nên sự thành công của quá trình Việt hoá Truyện Kiều đó là: Sử dụng 
thể thơ lục bát, sử dụng một thế giới thành ngữ, quán ngữ tiếng Việt một cách điêu luyện và đầy 
sáng tạo. 
1. Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã hoàn thiện, nâng cấp thể thơ lục bát bắt nguồn từ ca 
dao lên trình độ hoàn chỉnh nhất 
Lục bát là thể thơ quen thuộc với mọi người dân Việt Nam dù biết hay không biết chữ. Lục 
bát là thể thơ dân tộc mang đậm bản sắc và phong vị quê hương. Thơ lục bát rất dễ thuộc và dễ nhớ 
1
 Trần Đình Sử, Địa vị lịch sử của thi hào Nguyễn Du trong văn học Việt Nam, nguồn:trandinhsu.wordpress.com 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 01 – THÁNG 11 NĂM 2015 23 
vì lời thơ giản dị, mộc mạc, có sự kết hợp giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ đời thường. Câu thơ đọc 
lên mà cứ ngỡ là câu hát hay một bản nhạc, vừa có vần vừa có điệu nghe rất thanh thoát và êm tai. 
Nguyễn Du đã chọn thể thơ truyền thống, thể hiện đậm nét nhất bản sắc văn hoá dân tộc này để 
“chuyển thể” Kim Vân Kiều truyện từ văn xuôi chữ Hán của Thanh Tâm Tài nhân thành bản Kiều 
nôm nổi tiếng ngày nay. 
Từ cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, thể thơ lục bát lại được các nho sĩ bình dân sử dụng để 
viết truyện, tạo ra một thể loại văn học mới thời bấy giờ, đó chính là Truyện thơ nôm. Truyện Kiều 
của Nguyễn Du chính là một đỉnh cao rực rỡ của loại Truyện thơ nôm. Thể thơ lục bát từ ca dao đến 
Truyện Kiều cũng được quy chuẩn và hoàn thiện hơn. So với lục bát dân gian thì lục bát Truyện 
Kiều không còn các dạng biến thể nữa. Có thể xem lục bát Truyện Kiều là một thứ lục bát thuần 
khiết. Với 3254 câu lục bát, Nguyễn Du đã huy động hầu hết các bộ vần trong tiếng Việt vào tác 
phẩm. Mỗi câu lục bát trong Truyện Kiều đều đạt đến độ chuẩn mực. 
Lục bát trong ca dao hay trong thơ của các nhà thơ Việt Nam đều có dạng lục bát biến thể 
hoặc mắc những lỗi chập vần khiến câu thơ thiếu linh hoạt, uyển chuyển. Nhưng trong Truyện Kiều, 
lục bát tuyệt đối không có lỗi về gieo vần, thả nhịp. Nó thể hiện tài năng sử dụng thể thơ dân tộc 
của Nguyễn Du một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo và điêu luyện. Đồng thời một phần còn do quá 
trình lưu truyền, các tác giả hiệu đính đã góp sức trau chuốt mỗi câu Kiều để trở thành những câu 
lục bát dân tộc chuẩn điệu, chỉnh vần nhịp như vậy. 
Có thể coi Truyện Kiều như là một mẫu chuẩn về thể thơ lục bát với sự thống nhất tuyệt đối 
về luật gieo vần. Luật đó là: chữ thứ 6 của câu tám vần với chữ thứ 6 của câu sáu trên, đổi vần và 
đổi thanh điệu sang chữ thứ 8 của câu tám rồi nối vần này xuống chữ thứ 6 của câu sáu dưới,... Các 
chuỗi vần trong lục bát Truyện Kiều chạy vòng vèo uốn lượn theo các chữ "sáu - sáu, đổi vần và đổi 
thanh điệu, tám - sáu" rồi lại "sáu - sáu, đổi vần và đổi thanh điệu, tám - sáu"... Nguyễn Du đã khai 
thác triệt để yếu tố đổi vần này làm lục bát Truyện Kiều khá tự do và linh hoạt. 
Lục bát trong Truyện Kiều phần lớn là ngắt nhịp chẵn và gieo vần bằng, kế thừa trọn vẹn sự 
uyển chuyển, dung dị, dễ nhớ, dễ thuộc của ca dao truyền thống. 
Đây là một đoạn ngắt nhịp và gieo vần chuẩn lục bát truyền thống trong Kiều, đoạn thơ miêu 
tả ngoại cảnh và tâm cảnh của Thuý Kiều sau buổi chiều gặp mộ Đạm Tiên trở về: 
 Kiều từ/ trở gót /trướng hoa, 
 Mặt trời gác núi /chiêng đà thu không. 
Gương nga /chênh chếch/ dòm song, 
 Vàng gieo ngấn nước,/ cây lồng bóng sân. 
Hải đường /lả ngọn /đông lân, 
Giọt sương gieo nặng, cành xuân la đà. 
Một mình lặng ngắm bóng nga, 
 Rộn đường gần với nỗi xa bời bời: 
Người mà đến thế thì thôi, 
 Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi! 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 01 – THÁNG 11 NĂM 2015 24 
Người đâu gặp gỡ làm chi, 
 Trăm năm biết có duyên gì hay không? 
 Ngổn ngang trăm mối bên lòng, 
Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình. 
 (Câu 171 – 184) 
Tuy nhiên, sự kế thừa truyền thống của cụ Nguyễn cũng đầy linh hoạt và sáng tạo. Vẫn đảm 
bảo vần gieo và vị trí gieo vần của truyền thống lục bát nhưng cụ đã sáng tạo trong cách ngắt nhịp. 
Để diễn tả những diễn biến bất thường hay biến cố trong số phận nàng Kiều bằng cách ngắt nhịp lẻ 
hoặc ngắt nhịp tách đôi câu bát: 
“Làn thu thuỷ/nét xuân sơn 
Hoa ghen thua thắm/liễu hờn kém xanh” 
(Câu 2 -26) 
Tai hoạ bất ngờ ập xuống gia đình Kiều: 
Đồ tế nhuyễn,/ của riêng tây 
 Sạch sành sanh vét/cho đầy túi tham. 
(Câu 584 – 585) 
Đó là lời than đau đớn của Thuý Kiều khi dứt tình chàng Kim: 
“Ôi Kim lang!/ Hỡi Kim lang 
 Thôi thôi thiếp đã /phụ chàng từ đây” 
(Câu 755 - 766) 
Đôi khi là cả cách ngắt nhịp lẻ và gieo vần trắc khi bắt đầu những ngày đau đớn dập vùi của 
nàng Kiều: 
 “Đoạn trường thay,/lúc phân kỳ 
 Vó câu khấp khểnh,/bánh xe gập ghềnh”. 
 (Câu 869 - 870) 
Kế thừa những giá trị đặc sắc của vần điệu, lối nói dân gian trong ca dao, Nguyễn Du đã đưa 
thể thơ lục bát đến trình độ đặc sắc và điêu luyện, làm nên một Truyện Kiều đích thực Việt Nam. 
Chính nhờ lục bát mà Kiều đã đi vào đời sống, quen thuộc trong mỗi lời ru, trong những sinh hoạt 
văn hoá cộng đồng, văn hoá truyền thống của người Việt một cách tự nhiên, sâu đậm và bền vững. 
2. Ngôn ngữ, thành ngữ, lối nói dân gian của người Việt góp phần làm nên giá trị 
Truyện Kiều và được bảo tồn trong Truyện Kiều 
Sự sáng tạo và đóng góp của Nguyễn Du đối với lục bát không chỉ ở ngắt nhịp và gieo vần, 
mà còn phải kể đến nghệ thuật sử dụng từ ngữ. Đây cũng là một yếu tố tạo nên sự thành công trong 
việc Việt hoá Truyện Kiều hay nói đúng hơn là sáng tạo nên một Truyện Kiều thuần Việt của cụ 
Nguyễn làng Tiên Điền. Cụ đưa vào tác phẩm những từ láy, điệp từ, thành ngữ, những lời ăn tiếng 
nói trong sinh hoạt hàng ngày của người bình dân, xoá bỏ hoàn toàn sự đơn điệu và tẻ nhạt, khuôn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 01 – THÁNG 11 NĂM 2015 25 
thước của văn học Hán ngữ cũng như của văn học trung đại Việt Nam. Tả cảnh Kiều gặp mộ Đạm 
Tiên, hai kẻ tài hoa bạc mệnh gặp nhau, dung dị như lời ăn tiếng nói hàng ngày: 
Đau đớn thay, phận đàn bà! 
 Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung 
(Câu 83 – 84) 
Đã không kẻ đoái người hoài 
 Sẵn đây ta thắp một vài nén hương 
Gọi là gặp gỡ giữa đường, 
 Hoạ là người dưới suối vàng biết cho. 
(Câu 91 – 94) 
“Mặc dù mượn cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng ngôn ngữ để xây dựng tác phẩm 
lại được Nguyễn Du khai thác từ văn học dân gian Việt Nam. Văn học dân gian với sự phong phú, 
đa dạng của ngôn ngữ, hình tượng, cách diễn đạt đã góp phần giúp Truyện Kiều trường tồn với thời 
gian và nhân loại. Dưới bàn tay của thiên tài Nguyễn Du, tiếng Việt của chúng ta trở nên tinh túy, 
đặc sắc hơn. Ngôn ngữ của Truyện Kiều từ lâu đã đi vào mọi nẻo đường sinh hoạt của nhân gian. 
Từ người già tới trẻ nhỏ, từ người biết chữ hay không biết chữ, khi đã yêu mến đều thuộc nằm lòng 
những câu lục bát trong truyện, đều biết bói Kiều, lẩy Kiều Truyện Kiều sử dụng nhiều chất liệu 
của ca dao, tục ngữ nhưng cũng từ tác phẩm này, nhân dân ta có thêm nhiều thành ngữ mới trong 
đời sống hàng ngày.”2 
Với người nghệ sĩ lớn, trong sáng tạo nghệ thuật, tạo ra cái mới là nhiệm vụ quan trọng, song 
bằng tác phẩm của mình, lưu giữ và truyền tải những tinh hoa văn hoá dân tộc, nhân loại cũng là một 
trọng trách cao cả. Nguyễn Du đã hoàn thành rất xuất sắc nhiệm vụ của người nghệ sĩ lớn như thế. 
Điều này, được thể hiện rõ trong việc vận dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ, lối nói dân gian 
khi cụ Việt hoá Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Những thành ngữ, quán ngữ, lối 
nói dân gian được đưa vào lục bát Truyện Kiều rất tự nhiên, nhiều khi phác hoạ rõ nét bức chân 
dung của nhân vật. Chỉ là một nhân vật phụ, nhưng với cách dùng các thành ngữ dân gian, 
Nguyễn Du đã vẽ nên một bức chân dung Hoạn Bà ghê gớm, cay nghiệt khi thể hiện nỗi “ngứa 
ghẻ hờn ghen” thay con gái: 
Bất tình nổi trận mây mưa 
Đức rằng: “Những giống bơ phờ quen thân! 
Con này chẳng phải thiện nhân 
Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng 
Ra tuồng mèo mả gà đồng 
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào. 
Đã đem mình đến cửa tao 
Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này”. 
(Câu 1727 – 1736) 
2
 Phong Linh, Truyện Kiều nâng tầm giá trị ngôn ngữ Việt, Baohatinh.vn, ngày 13/2015 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 01 – THÁNG 11 NĂM 2015 26 
Cách sử dụng những thành ngữ “trốn chúa lộn chồng”, “mèo mả gà đồng”, và các xưng hô 
“con này”, “phường”, “quân”, “tuồng”, “tao”, “khủng khỉnh làm cao” đặc sệt ngôn ngữ đời sống 
đã “tố cáo” một bà “mệnh phụ” chợ búa và tâm địa ghê gớm đến thế nào. 
Theo thống kê của Viện Ngôn ngữ học (Việt Nam), trong Truyện Kiều có tới 180 lần Nguyễn 
Du sử dụng thành ngữ. Thành ngữ được Nguyễn Du sử dụng trong tác phẩm dưới hai hình thức: 
hoặc là giữ nguyên, hoặc là chỉ giữ nội dung, thay đổi kết cấu, đảo từ ngữ, thêm bớt từ ngữ Có 
khi sử dụng thành ngữ trong ba cặp lục bát liên tiếp. Đó là các thành ngữ “kiến bò miệng chén”, 
“nhìn chẳng được nhau”, “cất đầu chẳng lên”, “trông tận mắt” (trông thấy nhãn tiền), “thăm ván 
đóng thuyền”: 
 Lo gì việc ấy mà lo 
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu. 
Làm cho nhìn chẳng được nhau 
Làm cho đầy đoạ cất đầu chẳng lên” 
Làm cho trông thấy nhãn tiền 
Cho người thăm ván bán thuyền biết tay” 
(Câu 1547 – 1552) 
Hoặc một câu giữ nguyên, một câu lấy ý: 
“Nghĩ rằng ngứa ghẻ hờn ghen 
 Xấu chàng mà có ai khen chi mình” 
(Câu 1609 – 1610) 
Giữ nguyên thành ngữ “ngứa ghẻ hờn ghen”, lấy ý của thành ngữ “xấu chàng hổ ai”. Nhiều 
câu lục bát, Nguyễn Du mượn thành ngữ, tục ngữ nhưng vẫn diễn tả đầy đủ, tinh tế nội dung cần 
truyền tải. Lời Từ Hải thể hiện khí phách anh hùng, hiên ngang được Nguyễn Du dùng những thành 
ngữ quen thuộc 
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau, 
 Vào luồn ra cúi công hầu mà chi” 
(Câu 2467 – 2468) 
Một loạt các thành ngữ quen thuộc được tác giả sử dụng trong hai câu lục bát nói về suy nghĩ, 
tính toán của Thúc Sinh về việc có nên nói thật với vợ hay không ("bưng kín miệng bình", "không 
khảo mà xưng", "rút dây động rừng"): 
Nghĩ: “đà bưng kín miệng bình 
 Nào ai có khảo mà mình lại xưng?” 
Những là e ấp dùng dằng, 
 Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi” 
(Câu 1578 – 1581) 
Có thể liệt kê được rất nhiều những câu lục bát như thế trong Truyện Kiều. Khi lấy ý của 
thành ngữ, lối nói dân gian, Nguyễn Du đều sử dụng rất sáng tạo và uyển chuyển. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 01 – THÁNG 11 NĂM 2015 27 
Lời Kim Trọng từ biệt Thuý Kiều: 
Trăng thề còn đó trơ trơ 
 Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng. 
(Câu 541 – 542) 
Từ thành ngữ: "xa mặt cách lòng". Cách diễn đạt của Nguyễn Du đủ ý mà tinh tế, mềm mại: 
 Lo gì việc ấy mà lo 
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu 
(thành ngữ "kiến bò miệng chén") 
 Cũng ngôi mệnh phụ đường đường 
Nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha 
 (thành ngữ "nở mặt nở mày") 
 (Câu 2481 – 2482) 
Vợ chàng quỷ quái, tinh ma 
 Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau 
(thành ngữ "kẻ cắp gặp bà già") 
(Câu 2333 – 2334) 
Nguyễn Du tài tình ở chỗ, khi lấy ý của thành ngữ, lối nói dân gian, cụ thường làm cho cách 
nói ấy hay hơn, uyển chuyển hơn, dễ hiểu và rõ nghĩa hơn. Đặc biệt là khi cụ Việt hoá các điển tích, 
điển cố Hán Việt. Nguồn gốc của Truyện Kiều là từ một tác phẩm văn học Hán ngữ nên không thể 
thiếu thành ngữ, điển cố, điển tích, cổ thi Hán ngữ. Nhà thơ Vương Trọng, một người rất say mê 
nghiên cứu Kiều đã tổng kết: “Đối với các thành ngữ chữ Hán, có một số câu tác giả "Truyện Kiều" 
để nguyên văn, nhưng tìm cách đưa đẩy, dắt dẫn để cho ngay cả những người không biết tiếng Hán, 
khi chưa đọc chú thích, cũng sơ bộ hiểu được nội dung thành ngữ ấy: 
 Lạ gì "bỉ sắc tư phong" 
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen 
Hay: 
Nàng rằng: "thiên tải nhất thì" 
 Cố nhân dễ đã mấy khi bàn hoàn 
thì câu "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" giúp người ta hiểu sơ bộ nghĩa "bỉ sắc tư phong" 
là được điều này, mất điều kia; hay: "Cố nhân dễ đã mấy khi bàn hoàn" giúp hiểu nghĩa "thiên tải 
nhất thì" là rất hiếm khi, ngàn năm có một 
Nhưng trong nhiều trường hợp, Nguyễn Du đã diễn Nôm thành ngữ chữ Hán thành một vài 
câu thơ thuần Việt, rất nhuần nhuyễn và dễ hiểu. Ví như muốn nói Thúy Kiều vì đã từng ở lầu xanh 
rồi nên rất sợ những gì tương tự, Nguyễn Du liền cung cấp cho bạn đọc thành ngữ "Kinh cung chi 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 01 – THÁNG 11 NĂM 2015 28 
điểu" nhưng được Việt hóa: Thiếp như con én lạc đàn/ Phải cung rày đã sợ làn cây cong" 3 
Sự xâm nhập của thành ngữ, lối nói dân gian vào Truyện Kiều nhuần nhuyễn đến độ “hoà 
nhập” “hoà tan” vào nhau. Để cho đến nay, theo thời gian, có nhiều lời nói không thể xác định được 
là Nguyễn Du mượn của nhân dân hay thời gian đã “dân gian hoá” sáng tạo từ ngữ của Nguyễn Du. 
Những bức chân dung phác hoạ các nhân vật của Nguyễn Du đã trở thành những hình mẫu dân gian 
cho một số kiểu, dạng người trong xã hội. Mã Giám Sinh, Tú Bà điển hình cho loại người buôn 
phấn bán hương. Mã Giám Sinh thì hành vi vô học, thô lỗ: “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”. 
Cùng phường “mạt cưa mướp đắng” với Tú Bà: 
Tình cờ chẳng hẹn mà nên, 
Mạt cưa mướp đắng, đôi bên một phường. 
Thoắt trông nhờn nhợt màu da, 
 Ăn chi cao lớn đẫy đà làm sao. 
(Câu 923 – 924) 
Chân dung Thúc Sinh thì: 
Khách du bỗng có một người 
 Kỳ Tâm, họ Thúc cũng nòi thư hương. 
(Câu 1275 – 1276) 
Từ Hải anh hùng hiên ngang: 
Râu hùm, hàm én mày ngài 
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. 
 Đường đường một đấng anh hào 
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài. 
(Câu 2167 – 2171) 
Hoạn Thư ghê gớm, khôn ngoan, thâm hiểm khi ghen tuông: 
Bề ngoài thơn thớt nói cười 
Mà trong nham hiểm giết người không dao. 
(Câu 1815 – 1816) 
Với mỗi nhân vật, Nguyễn Du đã lựa chọn những từ ngữ, thành ngữ có thể lột tả nét điển hình 
nhất về ngoại hình, cử chỉ, tính cách của nhân vật. Những từ ngữ đó phần lớn là từ thuần Việt, gần 
gũi với lời nói hàng ngày của người bình dân. 
3. Dùng nhiều từ thuần Việt, thể hiện quan niệm sống của người Việt 
Riêng về từ ngữ, có thể nói Nguyễn Du là “phù thuỷ ngôn từ” trong việc sử dụng tiếng Việt 
để chuyển Kim Vân Kiều truyện thành Truyện Kiều của người Việt. Ngôn ngữ dân tộc đã được sử 
dụng một cách nhuần nhuyễn, như nhiều nhà nghiên cứu về Kiều đã khẳng định, trong đó có ý kiến 
3
 Vương Trọng (2009), Truyện Kiều và biệt tài sử dụng thành ngữ của Nguyễn Du, Báo Văn nghệ Công an online, ngày 
24/8/2009 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 01 – THÁNG 11 NĂM 2015 29 
của Xuân Diệu: “Vào đến thế giới của các từ, của từng từ một, nó là từng viên gạch một, nó là mỗi 
tế bào của tác phẩm thơ, càng thấy Nguyễn Du là một ông thầy của ngôn ngữ, là một phù thuỷ của 
ngôn từ. Những từ, những chữ dùng của ông rất đắt. Dĩ nhiên, “từ” ở đây không phải chỉ là danh từ, 
mà còn là động từ, tính từ, trạng từ Tất cả các từ, bao gồm cả những “thì, là, mà, rằng”4 
Giống như các tác phẩm văn học cùng thời, từ ngữ trong Truyện Kiều có hai thành phần từ 
thuần Việt và từ Hán Việt. Theo thống kê của Viện Ngôn ngữ học (Việt Nam) thì từ Hán Việt 
chiếm tỷ lệ khoảng 35% trong tổng số từ của tác phẩm. 
Từ Hán Việt Nguyễn Du dùng, thường là những từ phổ biến rộng rãi đối với thời đại bấy giờ. 
Nguyễn Du đã cố gắng Việt hoá bằng cách dựa vào từ Hán để tạo ra từ mới cho tiếng Việt. 
Với vốn ngôn từ tiếng Việt rất phong phú, Nguyễn Du đã sáng tạo nên một Truyện Kiều rất 
gần gũi với người đọc bình dân. Trong các thế hệ bạn đọc say mê Truyện Kiều có rất nhiều người 
không biết chữ, không là đệ tử của “cửa Khổng sân Trình” nhưng vẫn thuộc làu và hiểu hết, giảng 
thông Truyện Kiều. Đó là vì ngôn ngữ Truyện Kiều gần gũi, dung dị và dễ hiểu, nhiều từ thuần Việt, 
quen thuộc trong dân gian. 
Đau đớn thay phận đàn bà 
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. 
Và: 
Cớ sao chịu tốt một bề 
 Gái tơ mà đã ngứa nghề gớm sao. 
Những từ ngữ, thành ngữ thuần Việt được dùng để thay thế cho ngôn ngữ uyên bác của văn 
chương chữ Hán. Điều đặc biệt là khi từ Hán Việt đặt cạnh các từ ngữ thuần Việt đều rất hợp lý và 
giàu sức gợi: 
Phải điều ăn xổi ở thì, 
Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày. 
(Câu 509 – 510) 
Đã nên quốc sắc thiên hương 
Một cười này, hẳn nghìn vàng chẳng ngoa” 
(Câu 825 – 826) 
Các loại từ láy, từ tượng thanh, từ địa phương, được sử dụng rất hiệu quả và đạt giá trị gợi 
tả, gợi cảm rất cao. Để gợi tả sự bắt đầu của chặng đời đầy bất trắc của nàng Kiều, Nguyễn Du đặt 
trong một câu hai từ “khấp khểnh”, “gập gềnh”: 
“Đoạn trường thay lúc phân kì, 
 Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập gềnh” 
(Câu 869 – 870) 
4
 Xuân Diệu, Chung quanh từ ngữ Truyện Kiều, Trích Kiều (Nguyễn Du, 1979), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 01 – THÁNG 11 NĂM 2015 30 
Tả cảnh gia đình Thúc Ông nhớn nhác đi tìm nàng Kiều trong cơn hoả hoạn được tạo nên từ 
cơn ghen của Hoạn Thư: 
“Tớ thầy chạy thẳng đến nơi, 
 Tơi bời tưới lửa tìm người lao xao 
(Câu 1655 – 1656) 
“Hớt ha hớt hải nhìn nhau, 
Giếng sâu, bụi rậm trước sau tìm quàng” 
(Câu 1659 - 1660) 
Bản sắc văn hoá Việt trong Truyện Kiều còn thể hiện qua quan niệm sống, cách ứng xử của 
nhân vật trong Truyện Kiều: 
“Sao cho cốt nhục vẹn tuyền; 
Trong khi ngộ biến tòng quyền, biết sao. 
Quan niệm về đối nhân xử thế, lấy “trong ấm ngoài êm” làm tiêu chuẩn. Đây là khi Kiều 
khuyên Thúc Sinh về thưa mọi chuyện với vợ cả là Hoạn Thư: 
Nàng rằng: “Non nước xa khơi 
 Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm” 
(Câu 1505 – 1506) 
Cho hay muôn sự tại trời 
Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta. 
Mấy người bạc ác tinh ma, 
Mình làm mình chịu, kêu mà ai thương 
(Câu 2391 – 2394) 
Bởi vậy mà Truyện Kiều đi vào đời sống rất tự nhiên và nhiều yếu tố của tác phẩm từ nhân 
vật, câu thơ, hình ảnh so sánh, ước lệ đều đã được dân gian hoá và được dùng phổ biến trong dân 
gian. Những Sở Khanh, Hoạn Thư, Tú Bà, đã trở thành nhân vật dân gian. 
4. Hình ảnh thơ, ngôn ngữ thơ mang sắc màu, không gian văn hoá địa phương 
Cũng bởi truyện Kiều đi sâu vào đời sống người Việt để được lưu truyền cả bằng truyền 
miệng và văn bản, truyện Kiều cũng như cô Kiều đã nhận được nhiều nhất những khen - chê, oán 
trách - trầm trồ, đã bao cuộc luận bàn văn chương để lên án, để bênh vực, để chia sẻ và đồng cảm 
với Kiều - Nguyễn Du. Ấn tượng đến mức đi vào lời nhắc nhở quen thuộc của người Việt theo văn 
hoá Nho giáo: 
Đàn ông chớ đọc Phan Trần 
 Đàn bà chớ kể Thuý Vân, Thuý Kiều 
Cảnh sắc thiên nhiên trong mỗi câu Kiều đều mang vẻ đặc trưng của không gian nước Việt. 
Từ cảnh bốn mùa xuân hạ thu đông đến việc chọn hình ảnh cây cỏ đặc trưng dù địa danh cụ Nguyễn 
vẫn trung thành với Kim Vân Kiều truyện. Những bức vẽ cho các mùa: 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 01 – THÁNG 11 NĂM 2015 31 
Mùa xuân: 
Cỏ non xanh dợn chân trời 
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa 
Mùa hè: 
Dưới trăng quyên đã gọi hè 
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông 
Mùa thu: 
Long lanh đáy nước in trời 
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng 
Khi tả bước thời gian cũng dùng đào, dùng cúc, dùng sen: 
Sen tàn cúc lại nở hoa 
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân 
Không gian ngày đầu xuân như một bức tranh lễ hội Việt Nam: 
Ngày xuân con én đưa thoi 
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. 
Cỏ non xanh tận chân trời 
Cành lê trắng điểm, một vài bông hoa 
Thanh minh trong tiết tháng ba 
 Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh... 
Bức tranh thiên nhiên và khung cảnh lễ hội đầu xuân được Nguyễn Du phác thảo qua những 
hình ảnh văn hoá đặc trưng của Việt Nam. 
Dấu ấn văn hoá xứ Nghệ đã lưu dấu trong Truyện Kiều một cách rất bản năng qua một số 
cách dùng từ ngữ. Hoàng Xuân Hãn trong bài Học giả Hoàng Xuân Hãn nói về Truyện Kiều đăng 
trên Tạp chí Văn học, số 3, năm 1997 nhận xét: “Cụ Nguyễn Du tuy ở Bắc nhiều - mẹ người Bắc - 
nhưng cái gốc Nghệ cũng không khỏi được. Cho nên tiếng Nghệ tự nhiên Cụ viết ra, nhiều khi Cụ 
viết ra những tiếng dùng ở Nghệ chứ ở ngoài Bắc người ta ít dùng lắm. Tuy phần lớn văn Kiều là 
tiếng Bắc đấy, nhưng có những tiếng như thế”. Đó là các trường hợp mà cụ Hoàng Xuân Hãn đọc 
các câu: Sắc đành trọi một, tài đành họa hai, câu Mày râu nhẵn trụi, áo quần bảnh bao, Sở Khanh 
đã trẹ dây cương lối nào. "Ngày nay, đọc Truyện Kiều chúng ta - những người Nghệ Tĩnh không 
khó để nhận ra những sắc thái từ địa phương xuất hiện với tần số cao như: ả, mụ, chi. Những từ ngữ 
này được Nguyễn Du sắp đặt rất điêu luyện, phù hợp với ngữ cảnh, làm nên giá trị thông điệp - 
thẩm mỹ tuyệt vời”. 
Kết luận 
Không kể những đóng góp của Nguyễn Du, chỉ với những yếu tố Việt hoá để mang cô Kiều 
của Thanh Tâm Tài Nhân vào mỗi nếp nhà người Việt, trong mỗi lời ru, trong những sinh hoạt văn 
hoá nghệ thuật của người Việt, Nguyễn Du đã xứng đáng là danh nhân văn hoá. Bởi vậy mà 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
SỐ 01 – THÁNG 11 NĂM 2015 32 
Nguyễn Du và Kiều đã trở thành niềm say mê của bao thế hệ, trong đó có các nhà thơ, nhà văn, nhà 
nghiên cứu. Trong số đó không thể thiếu Chế Lan Viên người đã dành gần như cả một đời gắn bó 
với Kiều và Nguyễn Du. Cảm nhận của Chế Lan Viên cũng là tình cảm của người Việt dành cho cụ 
Nguyễn làng Tiên Điền và cô Kiều nước Việt: 
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn 
 (Chế Lan Viên, Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?) 
Ta đã yêu Việt Nam đẹp, Việt Nam thơ, 
bát ngát câu Kiều, bờ tre, mái rạ,... 
 (Chế Lan Viên, Thời sự hè 72, bình luận) 
Mỗi câu Kiều đã là một yếu tố của văn hoá Việt và Truyện Kiều vẫn mãi là niềm say mê, 
còn những bí ẩn chưa khám phá hết mỗi khi một thế hệ bạn đọc mang những yếu tố văn hoá 
mới để đọc “Kiều”. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Trung Dân (2015), “Dấu ấn văn hóa Nghi Xuân, Can Lộc trong hồn thơ Nguyễn Du”, 
Nguồn: Baohatinh.vn. 
2. Nguyễn Du (1979), Kiều, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. 
3. Nguyễn Diệu, “Chung quanh từ ngữ Truyện Kiều”, Trích Kiều (Nguyễn Du, 1979), Nhà 
xuất bản Văn học, Hà Nội. 
4. Mai Quốc Liên (2014), “Nguyễn Du trong lòng các nhà thơ hiện đại”, Báo Hồn Việt số 
77/2014. 
5. Phong Linh (2015), “Truyện Kiều nâng tầm giá trị ngôn ngữ Việt”, Nguồn: Baohatinh.vn, 
ngày 13/2015. 
6. Tăng Tấn Lộc (2006), “Du (2007), Truyện Kiều, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 
7. “Đi tìm thể lục bát Việt Nam”, nguồn: vanchuongviet.org. 
8. Trần Đình Sử, “Địa vị lịch sử của thi hào Nguyễn Du trong văn học Việt Nam”, nguồn: 
trandinhsu.wordpress.com. 
9. Vương Trọng (2009), "Truyện Kiều và biệt tài sử dụng thành ngữ của Nguyễn Du”, Báo 
Văn nghệ Công an online, ngày 24/8/2009. 
10. Tạp chí Văn học, số 3, năm 1997. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_noi_dung_viet_hoa_kim_van_kieu_truyen_thanh_truyen_ki.pdf