Tết tháng Bảy với những quan niệm khác nhau

Tết Tháng Bảy được xem là cái Tết lớn thứ hai trong năm của các dân tộc

nhóm Tày/Choang - Thái, ngữ hệ Thái - Kađai. Tư liệu về một số dân tộc thuộc

nhóm này cho thấy rằng sự đa dạng trong quan niệm và thực hành tDn ngưỡng ở

những nhóm người, vốn cùng nguồn gốc xa xưa, nhưng đã có một quá trình

tiếp biến văn hóa, do tiếp xúc với những người cộng cư, đặc biệt là trong

những điều kiện sản xuất, mang lại sắc màu khác nhau cho cả đời sống tâm

linh. Bởi thế, việc thực hành Tết này, bên cạnh sự tương đồng cũng có những

nét dị biệt, khWng chỉ là về thời gian. Trong cuộc sống mới đầy biến động, do

giao lưu thuận lợi và tiếp xúc dễ dàng, việc giữ gìn những nét riêng tiêu biểu

cần được đặt ra, bởi chúng góp phần làm nên bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc

hay nhóm tộc người.

pdf 6 trang yennguyen 6560
Bạn đang xem tài liệu "Tết tháng Bảy với những quan niệm khác nhau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tết tháng Bảy với những quan niệm khác nhau

Tết tháng Bảy với những quan niệm khác nhau
No.08_June 2018|Số 08 – Tháng 6 năm 2018|p.5-10
 5
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO
ISSN: 2354 - 1431
TếtthángBảyvớinhữngquanniệmkhácnhau
Vương Toàna* 
a Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển
*Email: vuongtoanls@gmail.com
Thôngtinbàiviết Tómtắt
Ngày nhận bài:
02/5/2018
Ngày duyệt đăng:
12/6/2018
Tết Tháng Bảy được xem là cái Tết lớn thứ hai trong năm của các dân tộc 
nhóm Tày/Choang - Thái, ngữ hệ Thái - Kađai. Tư liệu về một số dân tộc thuộc 
nhóm này cho thấy rằng sự đa dạng trong quan niệm và thực hành tn ngưỡng ở 
những nhóm người, vốn cùng nguồn gốc xa xưa, nhưng đã có một quá trình 
tiếp biến văn hóa, do tiếp xúc với những người cộng cư, đặc biệt là trong 
những điều kiện sản xuất, mang lại sắc màu khác nhau cho cả đời sống tâm 
linh. Bởi thế, việc thực hành Tết này, bên cạnh sự tương đồng cũng có những 
nét dị biệt, khng chỉ là về thời gian. Trong cuộc sống mới đầy biến động, do 
giao lưu thuận lợi và tiếp xúc dễ dàng, việc giữ gìn những nét riêng tiêu biểu 
cần được đặt ra, bởi chúng góp phần làm nên bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc 
hay nhóm tộc người. 
Từ khoá:
Tết Tháng Bảy, văn hóa tâm 
linh, nhóm Tày - Thái, 
Choang-Thái, Việt Nam. 
1.Mởđầu
Khảo sát việc thực hành một số ngày lễ/tết chung ở 
các dân tộc cùng một nhóm, ta cũng nhận thấy lun 
có (những) sự tương đồng và khác biệt, thể hiện tnh 
đa dạng văn hóa tộc người. 
Chúng ti đã có dịp nói đến hiện tượng trên ở Hội 
thảo quốc tế tại TP Sùng Tả (Vương Toàn, 2017), và 
đi sâu vào Tết Thanh minh, ở Hội thảo quốc tế tại TP 
Quý Châu (Vương Toàn, 2011); bài sau cũng đã được 
cng bố ở Việt Nam (Vương Toàn, 2012).
Tết Tháng Bảy (TTB) (theo âm lịch) được giới 
thiệu vắn tắt ở mục từ Slíp slí trong Từ điển văn hoá 
các dân tộc Thái - Tày - Nùng (H. Nxb ĐHQG Hà 
Nội. 2016, tr. 392). Nhận thấy đây là cái Tết lớn thứ 
hai đối với nhiều dân tộc ở Việt Nam và châu Á, 
chúng ti dành bài viết này để giới thiệu kết quả tìm 
hiểu và khảo sát của mình và đồng nghiệp về việc thực 
hiện ngày lễ này trong đời sống tâm linh của một số 
dân tộc ở pha Bắc Việt Nam: Cụ thể đó là Nùng, Tày, 
Thái, Lự, và khi có thể thì chỉ rõ nhóm địa phương 
(như Ngạn - được xếp vào dân tộc Tày) hay ngành 
(như Nùng Cháo, Nùng Phàn Slình). Đó là các dân tộc 
được giới nghiên cứu ở Việt Nam xếp vào nhóm Tày-
Thái - mà các nhà nghiên cứu Trung Quốc gọi là 
nhóm Choang - Thái, thuộc ngữ hệ Thái-Kađai. 
Thật vậy, trong mục: “Chi Tày - Thái và vị tr của 
chúng trong ngữ hệ Tai - Ka Đai”, GS.TS Nguyễn 
Văn Lợi (2013) cho biết: “Các tác giả có cách gọi 
khác nhau về chi ngn ngữ này. Một số nhà nghiên 
cứu gọi là chi ngn ngữ Tai, một số khác gọi là chi 
ngn ngữ Thái. Các tác giả Trung Quốc gọi là chi 
ngn ngữ Choang, hoặc Choang - Thái. Ở Việt Nam, 
phần lớn các tác giả gọi chi ngn ngữ này là chi Tày-
Thái” tr. 154). Như thế, Choang - Thái có thể hiểu 
với nghĩa rộng hơn Tày - Thái.
Bài viết này hướng vào việc chỉ ra rằng bên cạnh 
sự tương đồng, lun có những nét riêng - cần được gìn 
giữ, vì chnh chúng góp phần, làm nên bản sắc của 
mỗi dân tộc hay mỗi nhóm tộc người. Trong khi đó, 
với điều kiện của cuộc sống mới hiện nay, ai cũng biết 
là rất dễ dàng giao lưu và hòa nhập, dẫn đến biến đổi, 
thậm ch là thay đổi.
2. Những quan niệm khác nhau về Tết Tháng Bảy 
Theo chu kỳ trong năm, ta thấy gần như tháng nào 
cũng có Tết; mỗi ngày Tết đều có nguồn gốc và ý 
nghĩa riêng, nhưng tất cả đều chứa đựng những giá trị 
V.Toan / No.08_June 2018|p.5-10
 6
văn hoá đặc sắc của (nhóm) dân tộc và lun mang tnh 
nhân văn sâu sắc.
Tư liệu khảo sát việc thực hành ngày TTB ở một 
số (nhóm) tộc người nói trên cho ta thấy rằng bên 
cạnh một số nét chung, có khng t điểm khác biệt cơ 
bản, khng chỉ về thời gian, mà cả về mục đch, nội 
dung của những cng việc cần thực hành vào dịp Tết 
này. Cụ thể như sau: 
2.1. Về thời gian
Trước hết, cần khẳng định việc tổ chức lễ tết của 
người Tày-Thái lun tnh thời gian theo âm lịch. Ngay 
như người Thái có lịch riêng nhưng cũng chỉ dùng để 
tnh toán thời vụ gieo trồng thch hợp (nng lịch) hay 
xem ngày lành tháng tốt cho việc cưới xin, dựng nhà...
Người Tày và Nùng quan niệm có hai cái Tết lớn 
trong năm, đó là Tháng Giêng và Tháng Bảy. Điều 
này được xác định trong câu: "Bươn chiêng vằn so ết, 
bươn chất vằn slp sl" (Tháng Giêng ngày mùng Một, 
tháng Bảy ngày Mười Bốn). Người Thái cũng gọi dịp 
này Tết Slp sl. Người Nùng Cháo (Lạng Sơn) có câu: 
Bưưn chiing kin dau h, slp sl kin hun dùng (Tết 
tháng Giêng ăn mà lo, Tết Mười Bốn ăn mà vui - được 
TS Mông Ký Slay giảỉ thch là vì ăn Tết Tháng Giêng 
xong phải lo cày cấy cho kịp thời vụ, còn TTB thì 
khng lo như vậy. 
Là cái Tết lớn thứ hai trong năm, song khác với 
người Việt (Kinh) TTB được tổ chức vào ngày rằm 
(15/7 âm lịch), các dân tộc Tày-Thái nói trên lại ăn 
Tết này, chủ yếu là vào ngày 14/7 âm lịch: Người ta 
nói: "Kin nèn Slp sl" (ăn Tết mười bốn), chứ khng 
nói “Slp hả” (mười lăm) mà tiếng Việt có từ riêng để 
chỉ ngày này trong tháng âm lịch, đó là “rằm”. Người 
Việt nói: ăn rằm, cúng rằm. 
Tuy nhiên, do rất được coi trọng nên Tết này cũng 
có nơi kéo dài sang hm sau (sang rằm), thậm ch có 
nơi còn lo việc chuẩn bị rất cng phu từ hm trước, 
nghĩa là Tết được kéo dài suốt ba ngày liền. 
Chẳng vậy mà trên trang cá nhân của tác giả (ngày 
01/9/2017), nguyên Giám đốc Sở Văn hóa, Thng tin 
và Du lịch tỉnh Lạng Sơn, TS. Hoàng Văn Páo (người 
Tày) cho biết đây là Tết được tổ chức suốt 03 ngày: 
từ 13 đến 15/7 âm lịch hàng năm (nhận xét này trùng 
khớp với thông tin từ Lý Viết Trường ở phần sau).
2.2. Về mục đích và nội dung 
Cũng theo TS. Hoàng Văn Páo (2017), đây là Tết 
cúng tổ tiên và vong linh. Người Việt (Kinh) còn gọi 
là Tết Vu Lan, còn được hiểu là lễ báo hiếu. Lễ này 
trùng với Tết Trung Nguyên của người Hán, và cũng 
trùng với ngày rằm tháng 7 Xá tội vong nhân theo 
phong tục Á Đng.
Rằm Tháng Bảy, người Tày và Nùng ở Cao Bằng 
cũng có lễ cúng “Xá tội vong nhân”, mọi thủ tục và 
nghi thức cúng bái cũng giống như người Kinh, và 
cũng có lễ báo hiếu cho cha mẹ, ng bà và những 
người đã khuất giống như lễ Vu Lan trong Phật giáo.
Do được quan niệm là ngày Xá tội vong nhân nên 
nhiều nhà có mâm cơm cúng trước cửa nhà, để cúng 
những vong linh bơ vơ khng gia đình, còn gọi theo dân 
gian là cúng c hồn. Người ta cúng tổ tiên, đồng thời 
cúng các vong hồn khng người thờ cúng để chúng khỏi 
quấy rầy người trần, như làm hại mùa màng. 
Vào ngày này, các gia đình đều cúng 2 mâm riêng 
biệt: cúng tổ tiên tại bàn thờ gia tiên và cúng chúng 
sinh ở sân trước nhà. Trên mâm cúng tổ là cỗ mặn, 
tiền vàng và cả những vật dụng cho người âm, như 
quần, áo, giầy dép... được làm bằng vàng mã. 
Nhân ngày Tết này năm Đinh Dậu (2017), với ý 
nghĩa là “Tết xá tội vong nhân”, nhà giáo - nghệ sĩ 
Xuân Bách đã giới thiệu trên trang của mình 1 bài 
cúng chúng sinh (phji slương, phji tác) của người 
Nùng quê Tràng Định, Lạng Sơn. 
Về ẩm thực, đặc biệt vào dịp Tết này, người ta làm 
bún và thứ bánh nếp gói thành đi nên được gọi bánh 
đeo (Hoàng Tuấn Nam, 2002, tr. 138), Tiếng dân tộc 
gọi thứ bánh đó là pẻng tải hay xì tải, có nơi đọc là chì 
tải, tuỳ cách phát âm địa phương; lại có nơi gọi là 
pẻng phắc, phân biệt với pẻng /xì /chì chúm gói riêng 
từng chiếc, được gọi là bánh dậm/dơm. 
Nói cách khác, TTB bao giờ cũng có pẻng tải, 
Người Tày có câu: “Nèn chêt kin pẻng tải” (Tết TTB 
ăn bánh đeo). Trao đổi với chúng ti (10/12/2017), 
nhà khảo cứu Hoàng Tuấn Cư cho biết ở Văn Quan, 
Lạng Sơn, ngoài bánh nhân thịt băm trộn lạc, người 
Tày còn làm thêm loại ngọt - làm bằng bột nếp trộn 
mật ma, và bánh chuối - làm từ bột trộn chuối chn 
được nghiền nát. 
Sinh thời, nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Nam 
(2002) - người Tày ở Cao Bằng - còn cho rằng ngày 
Tết chung của người Nùng và người Tày vào 14/7 âm 
lịch người ta chỉ ăn thịt vịt và “bánh đeo” vì “Theo 
truyền thuyết thì ngày 15 tháng 7 là ngày tưởng nhớ 
đến việc tất cả hoàng nam Châu Quảng Nguyên đã 
theo Nng Tr Cao ra trận chống kẻ thù ở sng Bắc 
Vọng năm 1053”. Tục này cũng thấy ở người Thái 
V.Toan / No.08_June 2018|p.5-10
 7
Trắng (Tày Đón) vùng Mường Lay, Phong Thổ và 
Mường Tè, Lai Châu (tr. 141). 
Sau đó, với cùng suy nghĩ như vậy, cố tác giả Đàm 
Hiển, dưới bút danh là Vương Hùng (2006), cũng là 
người Tày ở Cao Bằng, cho hay: “Dân Tày, Nùng, 
Choang hai bên biên giới Việt Trung lập nhiều đền thờ 
Nùng Tr Cao và cùng ăn Tết ngày 14 tháng 7 âm lịch 
rất trọng, đó là ngày độ vong thất trận ở phố Quy 
Nhân” (tr. 120). 
Vào dịp này, với những gia đình còn cha mẹ bên 
ngoại (vợ), người Tày/Nùng và người Thái một số nơi 
có tục đi Tết bên ngoại để tạ ơn sinh thành. Ngay sau 
bữa ăn ngày 14/7 hoặc có nơi vào ngày hm sau (tức 
rằm Tháng Bảy), con gái, con rể, các cháu ngoại 
thường về thăm nhà ngoại, tiếng Tày gọi là “pây tái” 
(đi [bên] ngoại), có nơi mang lễ vật (bằng đi vịt và 
bánh trái), có nơi khng. 
ThS. Hoàng Thị Nhuận (20171 ) cho biết về phong 
tục “pây tái” của người Tày và Nùng ở Cao Bằng như 
sau: Theo phong tục truyền thống, mỗi năm người ta 
thực hiện hai lần pây chường tái, gọi tắt là “pây tái” 
vào các ngày mùng 2 tháng Giêng, dịp Tết Nguyên 
Đán - và ngày rằm Tháng Bảy.
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian (người Tày, làm 
dâu người Nùng An) này nhấn mạnh: Lễ tết “pây tái” 
vào ngày rằm tháng bảy là bổn phận của những người 
phụ nữ Tày/Nùng sau khi đi lấy chồng, quanh năm 
phải cùng chồng con chú tâm cng việc làm ăn nơi 
nhà chồng, lo toan quán xuyến hương khói thờ phụng 
ng bà tổ tiên nhà chồng. Như thế, đây là một trong 
hai dịp trong năm người con gái đã xuất giá được trở 
về nhà bố mẹ đẻ (may mắn còn trên đời) để được tự 
tay chăm sóc cha mẹ và sửa soạn lễ cúng tạ ơn ng bà 
tổ tiên. Vì vậy, đây cũng là dịp có người vui, có người 
buồn (vì cha mẹ khng còn): 
"Hỡi ai còn cha mẹ, vui pây tái
Còn em, buồn pây tái qua làn khói hương.".
Vào dịp này năm Đinh Dậu (2017), nữ thi sĩ người 
Tày Lộc Bch Kiệm có bài thơ:
ThângvằnPâyTái
Slp sl bươn chất mà thâng
Ngoòng vằn pây tái dằng lai hâng
Sa tua pết cải dạu than slúng
Tái nhủm nhủm khua... lan bấu lùm!
(ĐếnngàylễNgoại
1 Trang cá nhân của tác giả, ngày 03/9/2017.
Rằm Tháng Bảy rồi ai ơi
Bao ngày mong mỏi đã đến rồi
Lễ ngoại vịt to cùng lồng mới
Ngoại cười tủm tỉm... cháu nhớ ti!) 
Tuy nhiên, bạn hữu đọc xong đã nhắc ngay nữ thi 
sĩ rằng: Chỉ có đi vịt chưa đủ đâu, còn một nải bánh 
gai nữa mới đủ!
Nếu vào ngày rằm, con cháu thường “pây tái” rất 
sớm thể hiện lòng hiếu thảo, biết ơn cha mẹ, ng bà, tổ 
tiên bên ngoại. Khi về tới nhà bên ngoại, các con gái, 
cháu gái mới tập trung làm thịt vịt, cả nhà vui vẻ cùng 
chung tay chế biến các món ăn truyền thống từ thịt vịt. 
Ăn thịt vịt đã trở thành đặc sản ẩm thực tháng Bảy, 
được lưu truyền ở câu cửa miệng: Bươn chiêng kin 
nựa cáy, bươn chất kin nựa pết (nghĩa là Tết tháng 
Giêng ăn thịt gà, Tết tháng Bảy ăn thịt vịt), thể hiện 
quan niệm "Chiêng bấu kin pết, chất bấu kin cáy" 
(Giêng khng ăn vịt, [Tết tháng] Bảy khng ăn gà). 
Cách ăn thịt vịt đặc trưng nhất của người Tày và 
Nùng là món vịt quay mang hương vị của lá mắc mật. 
Vịt mổ xong, tẩm ướp đầy đủ gia vị, nhồi lá mắc mật 
vào bụng con vịt rồi khâu lại, phết một chút mật ong 
rừng lên ngoài da, sau đó đem quay. 
Theo truyền thuyết, vịt là con vật thiêng trong tâm 
linh của người Tày và Nùng: Nó được coi là sứ giả 
của mường trần gian với mường trời. Nó có cng cõng 
gà trống vượt biển (khảm hải) đi cống sứ mường trời 
vào ngày Rằm tháng Bảy hằng năm.
Trao đổi với chúng ti (23/8/2017), nghệ nhân 
Hoàng Việt Bình (người Tày Lạng Sơn) cho rằng: 
Tháng 7 mưa nhiều, nước sng Ngân Hà ngập... Vịt 
được dùng hiến sinh nhiều để mong vượt qua sng 
chở lễ cho Then đến Mường Trời.
Viết từ Thạch Đạn (14/7 Đinh Dậu, tức 
04/9/2017), Lý Viết Trường cho biết người Nùng 
Phàn Slình ở huyện Cao Lộc, Lạng Sơn ăn Tết Slíp slí 
trong 3 ngày, bắt đầu từ 13/7 đến hết 15/7 âm lịch. 
Chiều 13/7: các ng bố, ng chú tập trung tại nhà 
chủ lợn để chung đụng lợn, chuẩn bị cho buổi tối quay 
lợn; các mẹ, các chị nhộn nhịp làm bánh gai (pẻng 
pán), làm bún (phẳn)... 
Ngày 14/7: sáng dậy sớm để chia phần lợn quay 
(mu sliu), thịt vịt và chuẩn bị lễ vật cúng ng bà tổ 
tiên. Lễ vật cúng tổ tiên trong ngày này khng thể 
thiếu vịt và lợn quay, bánh gai và quần áo (cắt từ 
giấy). Người Nùng Phàn Slình quan niệm Slíp slí là 
Tết lớn thứ 2 trong năm, là dịp để con cháu dâng quần 
V.Toan / No.08_June 2018|p.5-10
 8
áo lên cho ng bà. Vịt có nhiệm vụ cõng quần áo vượt 
sng Bến Hải để đưa quần áo lên cho tổ tiên, nên 
người ta gọi vịt này là "pết thạp y" (thạp y = mang, 
chuyên chở, quần áo, y phục). 
Ngày 15/7: những người con gái lấy chồng xa sẽ 
được bố mẹ đẻ, bác hay cậu ruột gọi về ăn bữa Tết. Về 
ngoại, người con gái khng cần mang theo lễ vật gì cả. 
Chẳng vì thế mà người Nùng Phàn Slình gọi việc con 
gái về ăn Tết Slp sl với bố mẹ đẻ là “mà kin nèn” (về 
ăn tết), nghĩa là chỉ lo về ăn thi chứ khng cần mang 
gì theo cả. 
Người Nùng thì như vậy, nhưng người Tày cùng 
sống ở xã Thạch Đạn lại có nét dị biệt trong cách ăn 
tết Slp sl. Nếu như người Nùng Phàn Slình “đi 
ngoại” vào ngày 15/7 âm lịch thì người Tày đi từ ngày 
14/7 (sau khi ăn cơm xong), và khi đi, bắt buộc phải 
mang theo lễ vật gồm: 1 con vịt, 1 miếng thịt lợn 
quay, 1 chai rượu, bánh kẹo, hoa quả.
Như vậy, trong quan niệm của người Nùng Phàn 
Slình huyện Cao Lộc, Slp sl là Tết để con cháu dâng 
lễ vật lên tổ tiên, là dịp để con gái về sum họp cùng bố 
mẹ đẻ (khng mang theo lễ vật).
Khảo sát của Đinh Ngọc Viện (2017) về nhóm 
người Tày Ngạn (ở Cao Bằng) cho thấy: kể từ lúc làm 
lễ ăn hỏi đến khi tổ chức lễ cưới (khoảng 3 năm), 
khng chỉ Tết Nguyên đán mà cả rằm tháng bảy, nhà 
trai - tức con rể tương lai - đều phải mang lễ đến đặt 
bàn thờ cúng bái tổ tiên nhà gái. 
Thực tế cho thấy việc đi lễ tết được gọi là "pây tái" 
trước khi cưới khng phải chỉ có riêng ở người Ngạn, 
mà người Tày nói chung và các nhóm Nùng ở Cao 
Bằng đều có phong tục "pây tái" trước khi cưới, kể từ 
khi nhà gái đã nhận lễ ăn hỏi "kin tháp" cho đến mãi 
mãi sau này (chứ khng phải chỉ ba năm).
Với người Thái, nhà báo Quỳnh Anh (2015) cho 
biết Tết Slp sl là dịp để ghi nhớ tới cng lao của trẻ 
em, những người trực tiếp chăn dắt gia súc (trâu, bò). 
Ở nhiều nơi, người Thái Trắng còn gọi ngày Tết Slp 
sl là ngày Tết trẻ con. Xác nhận thng tin này, TS. Lò 
Xuân Dừa (2012) cho biết rất chi tiết về Tục làm Tết 
Sp x của người Thái Trắng Phù Yên quê tác giả (Phù 
Yên, Sơn La).
ThS. Nguyễn Thị Thu Huyền (2015) cho biết trong 
ngày 14/7 âm lịch. người Thái ở Mường M huyện 
Mường Tè, mổ vịt (gà chỉ là vật phụ), chuẩn bị xi 
ngũ sắc và bánh t (bánh nếp) làm lễ vật để thờ cúng 
lên tổ tiên, thổ địa và cúng va trâu.
Nhà sưu tầm Điêu Văn Thuyển (Phong Thổ, Lai 
Châu) đã cung cấp cho chúng ti bài “khấn hồn trâu” 
tại quê mình: người Thái gọi là “pói púng khoái” (lễ 
thả trâu vào bãi). Cũng có thể gọi đây là lễ tạ ơn trâu 
(Người Nùng và Tày có lễ khoăn vài vào ngày 06/6 
âm lịch). Tuy nhiên, khi viết về Lễ Tết của người 
Thái, tác giả Điêu Văn Thuyển (2017) lại cho rằng 
người Thái Trắng Lai Châu tổ chức 14/7, là lễ cúng 
lúa đồng.
Viết về người Thái ở huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn 
La, TS. Nguyễn Thị Quế Loan (2015) cho hay: Tết 
“Sp x” đánh dấu thời điểm kết thúc một vụ mùa, cầu 
xin cho con trâu cày được khoẻ mạnh, cây lúa được tốt 
tươi, người người được hạnh phúc), khng thể thiếu 
pảnh sp x với 2 loại: “pảnh cuổi” làm bằng gạo nếp 
nghiền với chuối tiêu; “pảnh cáy” có nhân bằng bột đỗ 
xanh, thịt gà băm nhỏ và lạc.
Nhà báo Vàng Thị Ngoạn (2017) - người Thái 
Trắng ở Lai Châu - cho biết: mùa màng tươi tốt bội 
thu, nhà nhà no đủ, mọi người khoẻ mạnh, bản làng. 
Hàng năm người Thái Trắng ở Phong Thổ cũng thắp 
hương vào ngày 14/7 âm lịch. Lễ vật gồm lợn hoặc gà 
của dân bản đóng góp. Lễ cúng với mong muốn cầu 
cho mưa thuận gió hòa Tục này, của người Thái 
tương đồng như lễ cúng rừng của người Lự, nhưng ở 
người Thái hiện nay đã bị mai một, còn ở người Lự 
vẫn được duy trì.
Ngày 14/7, người Thái Trắng mổ gà, vịt, gói bánh 
chưng và các loại bánh nếp, bánh rán. Thời gian này 
lúa nương sớm đã chn nên có cốm nếp nương là món 
đặc trưng của TB. Mâm lễ cúng tổ tiên có nhiều thứ 
như rượu, xi ngũ sắc, hoa quả. Song, có hai thứ 
khng thể thiếu là thịt vịt và bánh chưng. 
Theo quan niệm của người Thái Trắng, con vịt
mang điều khng may mắn, điềm xấu, điềm gở tri 
theo dòng sng nước nên trong các lễ cúng giải hạn 
người Thái thường lấy vịt làm vật tế và Tết Slp sl 
cúng vịt với mong muốn xua đi những rủi ro và cầu 
mong sung túc, an lành. Ngoài ra, con vịt gắn bó với 
đồng ruộng, sng suối, đời sống sản xuất của con 
người. Vào dịp này đàn vịt được thả vào ruộng ăn sâu 
bọ, vừa khng bị sâu bệnh hại lúa, vịt vừa béo, chắc là 
thời điểm hưởng thụ sản vật tốt nhất.
Với người Thái Trắng, Slp sl cũng là dịp mời anh 
em, bạn bè đến chung vui bữa cơm thân mật cùng gia 
đình và nhà nào mời được nhiều khách đến dự đng 
vui thì càng may mắn.
V.Toan / No.08_June 2018|p.5-10
 9
Ngày xưa, Tết Slp sl người Thái Trắng còn dâng 
lễ vật để tạ ơn thần linh, thổ địa đã chở che cho dân 
bản cuộc sống an lành, bảo vệ mùa màng bội thu và 
đây cũng là dịp để cho các hộ làm lễ cúng va trâu. 
Trong lễ thầy cúng cho trâu ăn muối để nhớ đường về 
bản, đổ rượu lên đầu nhằm lấy may, cầu mong khng 
bị thú dữ ăn thịt, khng bị rơi xuống hố, ngã lăn vực 
sâu Sau khi cúng xong thả trâu vào rừng nơi có bãi 
cỏ để trâu nghỉ ngơi lấy lại sức sau một mùa cày, bừa. 
Đối với các cng cụ sản xuất được sửa sang cất gọn để 
vụ sau mới đem ra dùng. 
Tuy nhiên các lễ này, ngày nay khng còn nữa. 
Cung cấp thng tin cho nhà báo này: bà Lò Thị Phái, 
gần 80 tuổi (năm 2017), ở phường Đng Phong, thành 
phố Lai Châu, cho biết: “Theo phong tục ngày xưa, 
hàng năm cứ đến ngày 14/ 7, người Thái ăn Slp sl: 
làm mâm cỗ cúng tổ tiên và làm lễ cúng va trâu, cúng 
ruộng. Buổi sáng cả bản cùng nhau góp lễ mổ lợn làm 
lễ cúng va trâu. Buổi chiều nhà nào cũng đi cúng 
ruộng. Đồ lễ gồm có vịt, xi, rượu, cây móc và cắt 
hình con cá, con cua và các con côn trùng treo lên cây 
móc. Lễ được làm ngay đầu bờ mương, nơi nước chảy 
vào ruộng với mong muốn khng sâu bệnh hại lúa, 
mùa màng bội thu”. Ngày 14/7, mổ gà, vịt và gói 
bánh chưng và các loại bánh nếp, bánh rán. Thời gian 
này lúa nương sớm đã chn nên có cốm nếp nương là 
món đặc trưng của TTB.
Với người Thái Trắng ở Mường Lay, tỉnh Điện 
Biên Tết 14/7 cũng là dịp để con cháu về thăm bên 
ngoại thường biếu bên ngoại đi vịt và gạo nếp để gói 
bánh chưng. Đây cũng là một nét văn hóa truyền 
thống của người Thái Trăng Mường Lay. Nhưng hiện 
nay cũng t dần đi vì xã hội phát triển mọi thứ đều sẵn 
có ở chợ mua bán tiện hơn
3.Kếtluậnvàđềxuất
Khảo sát riêng ngày Tết lớn thứ hai trong năm ở 
một số dân tộc và nhóm tộc người nhóm Tày-Thái ở 
Việt Nam, chúng ta nhận thấy thực sự có sự tương 
đồng nhưng cũng có những nét khác biệt, cả về thời 
gian lẫn nội dung thực hành của ngày lễ trọng đại này.
Chưa có điều kiện lý giải nguyên nhân dẫn tới 
những sự khác biệt, chúng ti tạm bằng lòng về sự đa 
dạng trong quan niệm và thực hành tn ngưỡng ở 
những nhóm người, vốn cùng nguồn gốc xa xưa, 
nhưng đã có một quá trình tiếp biến văn hóa, do tiếp 
xúc với những người cộng cư, đặc biệt là trong những 
điều kiện sản xuất, mang lại sắc màu khác nhau cho cả 
đời sống tâm linh.
Sinh thời, GS. Phạm Hồng Quý (ĐH Dân tộc 
Quảng Tây, Trung Quốc) cho biết người Choang có 
các ngày Tết vào các ngày: 07/7, 12/7, 14/7 (âm lịch) 
cúng ng bà tổ tiên. 
Chúng ti hy vọng có điều kiện tập hợp thêm 
những hiểu biết về thực hành Tết này, nhất là ở các 
dân tộc khác cùng nhóm mà chưa có tư liệu, như: Bố 
Y, Cao Lan, Giáy, Lào (ở Việt Nam) và Choang, 
Đồng... (ở Trung Quốc)... để bổ sung hoàn thiện cho 
cng trình nghiên cứu này của mình.
Cũng vì thế, rất mong nhận được sự cộng tác và hợp 
tác, hoặc cùng tìm hiểu thng tin, từ bạn đọc trong và 
ngoài nước, để rồi đây, có thể giới thiệu đầy đủ và hợp 
lý nhất về ngày Tết trọng đại này của chúng ta.
TÀILIỆUTHAMKHẢO
1. Quỳnh Anh, Trịnh Văn Bộ (2015), Lễ hội Slíp slí 
của dân tộc Thái trắng, tỉnh Sơn La, khám phá Việt 
Nam 06/01/2015 10:51 GMT+7 
dan-toc-thai-trang-tinh-son-la/111753.html;
2. Lò Xuân Dừa (2012), Tục làm Tết Síp xí của người 
Thái Trắng Phù Yên, trong Phong tục cổ truyền các 
dân tộc Thái, Tày, Nùng. H, Nxb Văn hóa dân tộc;
3. Vương Hùng (2006), Sự kiện Nùng Trí Cao. Đóng 
góp của các dân tộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái trong 
tiến trình lịch sử Việt Nam - Hội nghị Thái học Việt
Nam lần thứ IV, Cao Bằng. H, Nxb ĐHQG Hà Nội, tr. 
117-121;
4. Nguyễn Thị Thu Huyền (2015), Tín ngưỡng cầu 
mùa của người Thái trắng ở bản Mường Mô, huyện 
Mường Tè, tỉnh Lai Châu. In trong: Cộng đồng Thái -
Kadai Việt Nam: Những vấn đề phát triển bền vững”. 
Kỷ yếu Hội nghị quốc gia Thái học Việt Nam lần thứ 
7, Lai Châu. H, Nxb Thế giới, tr. 286-290;
5. Nguyễn Thị Quế Loan (2015), Món ăn trong thờ 
cng của người Thái ở huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn 
La. In trong “Cộng đồng Thái - Kadai Việt Nam: 
Những vấn đề phát triển bền vững, Kỷ yếu Hội nghị 
quốc gia Thái học Việt Nam lần thứ 7, Lai Châu. H, 
Nxb Thế giới, 2015. tr. 314-321;
6. Hoàng Tuấn Nam (2002), Một số tư liệu về lịch sử 
Nông Trí Cao Trong: Văn hoá và lịch sử các dân tộc 
trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam (Kỉ yếu "Hội 
thảo Thái học lần thứ III”). H, Nxb Văn hoá Thng 
tin, tr. 134-140;
V.Toan / No.08_June 2018|p.5-10
 10
7. Vàng Thị Ngoạn (2017), Nét đẹp văn hóa truyền 
thống một số dân tộc ở Lai Châu, tác phẩm gửi đăng 
ký theo đề án. phần 1, dân tộc thái 1;
8. Vuong Toan (2011), Cross-cultural phenomenon:
Qīng mng (清明) in China and its variation in 
Vietnam (Một hiện tượng xuyên văn hóa : Thanh minh
ở Trung Quốc và biến thể của nó ở Việt Nam). 
Proceedings of China-ASEAN Cross-Culture 
Communication Forum (2011) Culture Coexisting, 
Vision Sharing, Guiyang - China, pp. 110-112; Vương 
Toàn (2012), Một hiện tượng xuyên văn hóa: Thanh 
minh ở Trung Quốc và biến thể của nó ở Việt Nam. 
Tc. Nghiên cứu Trung Quốc, số 4 (128), tr. 70-74;
9. Vuong Toan (2017), Annual Festive Days of Nung 
and Tay Ethnic Groups (in Comparison with Festive 
Occasions of Zhuang People) In: Paper of the 2nd
China-ASEAN Ethnic Cultural Forum: China-
ASEAN Ethnic Cultural Heritage and the Belt and 
Road Initiative, edited by te Organizing Committee 
of the 2nd China-ASEAN Ethnic Cultural Forum. 
April 2017, Chongzuo, Guangxi, China, pp. 194-198, 
464-468;
10. Đinh Ngọc Viện (2017), Nhóm Tày Ngạn ở Cao 
Bằng - Một số điểm tương đồng và khác biệt. Trong
Kỷ yếu: Phát huy vai trò, bản sắc cộng đồng các dân 
tộc Thái - Kadai trong hội nhập và phát triển bền 
vững, hội nghị quốc gia thái học lần VIII, Nghệ An -
2017, H., Nxb Thế giới, tr. 548-551.
July festival of lunar calender and various conceptions
Vuong Toan
Article info Abstract
Recieved:
02/5/2018
Accepted:
12/6/2018
July festival of lunar calendar is considered as 2nd great holiday in a year 
(based on lunar calender) of Tay/Zhuang-Thai ethnic groups following to 
Tai-Kadai linguistic families. Our documentary data on these several ethnic 
groups proved various ways of looking and superstitious performance 
practised by human groups from a same ancient origin, but they passed an 
acculturation processus, because of their contacts with coexisting ethnic 
groups, with different conditions of production in particular, and this 
created also various nuances in mental life. So that, beside similarities, 
there are still several different features that are not on performance time. In 
new life with unexpected changes and the ease of cultural exchanges and 
communication, the preservation of typical cultural features gets necessary 
because of these contribution on cultural identity of every ethnic group.
Keywords:
July festival of lunar calendar, 
Mental culture, Tay-Thai, 
Zhuang-Thai, Vietnam.

File đính kèm:

  • pdftet_thang_bay_voi_nhung_quan_niem_khac_nhau.pdf