Một số vấn đề phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam

TÓM TẮT: Từ Phát triển bền vững (Sustainable Development) đến Du lịch bền vững

(Sustainable Tourism) và tiến đến Phát triển bền vững về du lịch (Sustainable

Development for Tourism) cho chúng ta thấy một bước tiến dài trong lý luận và thực tiễn

về Du lịch học trên thế giới để rồi chúng ta có một thuật ngữ rõ ràng hơn là Phát triển du

lịch bền vững (Sustainable Tourism Development). Ngành du lịch Việt Nam trong những

năm gần đây có những biểu hiện bất cập, hạn chế về môi trường, văn hóa - xã hội và các

vấn đề có liên quan khác. Do đó, định hướng phát triển du lịch bền vững ngày càng được

Nhà nước và các tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động du lịch quan tâm nhiều hơn.

Phát triển du lịch bền vững gồm những nội dung gì? Mục đích và ý nghĩa của những vấn

đề có liên quan đến phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam hiện nay được chúng tôi tập

trung phân tích trong bài viết này

pdf 12 trang yennguyen 4380
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam

Một số vấn đề phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk 
21 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM 
SOME ISSUES FOR SUSTAINABLE TOURISM DEVELOPMENT IN VIETNAM 
PHAN HUY XU 
 và VÕ VĂN THÀNH 
 PGS.TS.GVCC. Trường Đại học Văn Lang, Email: xuphanhuy@gmail.com 
 ThS. Khoa Văn hóa học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Thành phố 
Hồ Chí Minh, Email: vonhanchi@gmail.com 
TÓM TẮT: Từ Phát triển bền vững (Sustainable Development) đến Du lịch bền vững 
(Sustainable Tourism) và tiến đến Phát triển bền vững về du lịch (Sustainable 
Development for Tourism) cho chúng ta thấy một bước tiến dài trong lý luận và thực tiễn 
về Du lịch học trên thế giới để rồi chúng ta có một thuật ngữ rõ ràng hơn là Phát triển du 
lịch bền vững (Sustainable Tourism Development). Ngành du lịch Việt Nam trong những 
năm gần đây có những biểu hiện bất cập, hạn chế về môi trường, văn hóa - xã hội và các 
vấn đề có liên quan khác. Do đó, định hướng phát triển du lịch bền vững ngày càng được 
Nhà nước và các tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động du lịch quan tâm nhiều hơn. 
Phát triển du lịch bền vững gồm những nội dung gì? Mục đích và ý nghĩa của những vấn 
đề có liên quan đến phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam hiện nay được chúng tôi tập 
trung phân tích trong bài viết này. 
Từ khóa: phát triển bền vững, du lịch bền vững, phát triển bền vững du lịch, 
ABSTRACTS: From Sustainable development and Sustainable Tourism to Sustainable 
development for Tourism, we see a long leap forward in the theory and practice of tourism 
in the world. From that fact, we have a clearer term of Sustainable Tourism development. 
In Vietnam, the development of tourism in recent years has faced shortcomings, 
environmental, socio - cultural and other related issues. Therefore, the orientation for 
sustainable tourism development has got increasing concerned of the State, organizations 
and individuals involved in tourism activities.What is the sustainable tourism 
development? The purpose and significance as well as the issues related to sustainable 
tourism development in Vietnam are analyzed in this paper. 
Key words: sustainable development, sustainable tourism, sustainable tourism 
development, etc, 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Thế giới trong những thập kỷ gần đây 
đã chứng kiến sự phát triển nhanh chóng 
của nhân loại về khoa học kỹ thuật, công 
nghiệp, kinh tế, xã hội, trong đó có một 
số quốc gia phát triển nóng, mang tính chất 
“bong bóng”, đặc biệt là trong lĩnh vực 
kinh tế, điều đó tiềm ẩn nhiều rủi ro và ảnh 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 05/2017 
22 
hưởng xấu đến xã hội loài người, môi 
trường sống, kinh tế thế giới. Chứng kiến 
những bất ổn trên, nhiều chuyên gia trên 
thế giới thuộc nhiều lĩnh vực đã tìm những 
giải pháp để phát triển thật sự vững chắc và 
lâu dài, hiệu quả về nhiều mặt kinh tế, xã 
hội, môi trường. Do đó, thuật ngữ Phát 
triển bền vững ra đời. Trong bài viết này, 
chúng tôi tìm hiểu phát triển du lịch bền 
vững là gì? Tại sao cần phát triển du lịch 
bền vững cũng như những thách thức đối 
với phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam 
hiện nay. Đồng thời, bài viết cũng đề cập 
đến những thực trạng phát triển du lịch 
chưa bền vững ở nước ta cũng như những 
định hướng nhằm phát triển du lịch bền 
vững với hy vọng đóng góp một số ý kiến 
cá nhân về mặt lý luận cũng như thực tiễn 
cho việc phát triển du lịch bền vững trong 
thời kỳ hội nhập quốc tế. 
2. NỘI DUNG 
2.1. Quan niệm về phát triển du lịch bền 
vững 
2.1.1. Phát triển bền vững là gì? 
“Phát triển bền vững” là một thuật ngữ 
mới, xuất hiện lần đầu tiên vào những năm 
1980 ở thế kỷ trước trong ấn phẩm Chiến 
lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp 
hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên 
Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung 
rất đơn giản: “Sự phát triển của nhân loại 
không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh 
tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất 
yếu của xã hội và sự tác động đến môi 
trường sinh thái học”. Khái niệm phát triển 
bền vững (Sustainable Development) được 
phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo 
cáo Brundtland (còn gọi là Báo cáo Tương 
lai chung của chúng ta) của Ủy ban Môi 
trường và Phát triển Thế giới - WCED (nay 
là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ: 
Phát triển bền vững là “sự phát triển có thể 
đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà 
không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả 
năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương 
lai,...” [15, tr.8]. Hiện nay, các tổ chức thế 
giới như IMF, WB, UNDP, WEP, đều có 
mục tiêu phát triển kinh tế bền vững. Các 
quốc gia đều xây dựng riêng cho mình 
chiến lược phát triển kinh tế bền vững, cơ 
chế vận hành và quản trị giám sát, thực thi 
chiến lược nhằm đạt được tốc độ tăng 
trưởng đều trong dài hạn, bảo vệ môi 
trường, đảm bảo chi phí, nguồn lực hợp lý, 
hệ số ICOR (Incremental Capital - Output 
Ratio: Hiệu quả vốn đầu tư hợp lý). 
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước cũng 
đã nhận ra phát triển bền vững là một yêu 
cầu cấp bách và đã định hướng tại Đại hội 
Đảng lần thứ XI, thông qua Văn kiện Đại 
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI: “Phát 
triển nhanh gắn liền với phát triển bền 
vững, Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp 
hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện 
tiến bộ và công bằng xã hội,” [17]. Các 
nhà khoa học Việt Nam còn cho rằng phát 
triển bền vững phải bổ sung thêm các yếu 
tố như: bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, 
anh ninh quốc phòng; đồng thời nhấn 
mạnh nhân tố con người với tư cách là 
trung tâm, vừa là mục tiêu vừa là động lực 
của sự phát triển bền vững [8, tr.4]. Để đạt 
được điều này, tất cả các thành phần kinh tế 
- xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã 
hội, công dân,... phải bắt tay nhau thực 
hiện. 
2.1.2. Du lịch bền vững và phát triển du 
lịch bền vững là gì? 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk 
23 
Thuật ngữ du lịch bền vững 
(Sustainable Tourism) còn tương đối mới, 
được sử dụng từ năm 1996. Theo Hội đồng 
Du lịch và Lữ hành quốc tế (WTTC): “Du 
lịch bền vững là việc đáp ứng các nhu cầu 
hiện tại của du khách và vùng du lịch mà 
vẫn bảo đảm những khả năng đáp ứng nhu 
cầu cho các thế hệ du lịch tương lai”. Theo 
đó, chủ trương du lịch và phát triển du lịch 
không tác động xấu đến môi trường nhân 
văn, môi trường sống của con người. 
Tại Diễn đàn tiếng Đức về Môi trường 
và Phát triển (1999) đã đưa ra khái niệm du 
lịch bền vững: “Du lịch bền vững phải đáp 
ứng yêu cầu xã hội, văn hóa, sinh thái và 
kinh tế. Du lịch bền vững có quan điểm lâu 
dài đối với các thế hệ hiện tại và tương lai, 
về đạo đức và xã hội và phù hợp với văn 
hóa, có khả năng sinh học và kinh tế hợp lý 
và hiệu quả” [3]. 
Bách khoa toàn thư về Du lịch 
(Encyclopedia of Tourism) của tập thể các 
nhà khoa học du lịch thế giới do Jafar Jafari 
chủ biên năm 2000 không đưa ra mục từ 
Sustainable tourism mà chỉ có mục từ 
Sustainable development mà trong đó có 
một phần giải thích về du lịch bền vững 
nhưng nghĩa cũng không rõ ràng [5, tr.567]. 
“Du lịch có tác động đến nhiều 
phương diện về kinh tế, xã hội và môi 
trường cả trong hiện tại và tương lai, nhằm 
đáp ứng các nhu cầu của du khách, ngành 
(du lịch), môi trường và các cộng đồng tiếp 
nhận” [16]. 
Theo UNWTO (2014), du lịch bền 
vững cần chú ý đến ba vấn đề: 1) Về môi 
trường: Sử dụng tối ưu các nguồn tài 
nguyên môi trường là yếu tố chính trong 
phát triển du lịch, duy trì các quy trình sinh 
thái thiết yếu và giúp bảo tồn di sản thiên 
nhiên và đa dạng sinh học; 2) Về xã hội và 
văn hóa: Tôn trọng tính chân thực văn hóa 
xã hội của các cộng đồng địa phương, bảo 
tồn di sản văn hóa được xây dựng và sống 
động và các giá trị truyền thống, góp phần 
tạo sự hiểu biết và khoan dung giữa các nền 
văn hóa; 3) Về kinh tế: Đảm bảo các hoạt 
động kinh tế khả thi, lâu dài, mang lại các 
lợi ích kinh tế xã hội cho tất cả các bên liên 
quan được phân phối công bằng, bao gồm 
việc làm ổn định và các cơ hội kiếm thu 
nhập và các dịch vụ xã hội cho các cộng 
đồng địa phương và góp phần xoá đói giảm 
nghèo [13, tr.14]. 
Luật Du lịch Việt Nam (2005) cũng đề 
cập đến nội dung du lịch bền vững: “Du 
lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp 
ứng được các nhu cầu hiện tại mà không 
làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu 
về du lịch của tương lai” [6]. 
Từ những khái niệm nêu trên, ta có thể 
hiểu du lịch bền vững là sự du lịch có sự 
quan tâm đến việc bảo tồn các giá trị của 
tài nguyên du lịch đồng thời giảm thiểu đến 
mức thấp nhất những tác hại xấu đến môi 
trường, kinh tế, văn hóa - xã hội nhằm phục 
vụ nhu cầu hiện tại của du khách và điểm 
du lịch mà không làm phương hại đến nhu 
cầu của tương lai. 
Như vậy, du lịch bền vững có ba hợp 
phần chính: Một là, thân thiện với môi 
trường: giảm thiểu tác động đến môi trường 
(động thức vật, các sinh cảnh sống, nguồn 
lợi sống, sử dụng năng lượng và ô 
nhiễm,) và cố gắng có lợi cho môi 
trường. Hai là, gần gũi về xã hội và văn 
hóa: Du lịch bền vững không hại đến cấu 
trúc xã hội và văn hóa của cộng đồng nơi 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 05/2017 
24 
nó thực hiện, ngược lại, du lịch bền vững 
tôn trọng văn hóa và truyền thống địa 
phương. Khuyến khích các bên liên quan 
(các cá nhân, cộng đồng, nhà cung ứng dịch 
vụ du lịch, nhà quản lý du lịch, chính quyền 
địa phương). Trong các quy hoạch đều 
được lập kế hoạch, giám sát, giáo dục các 
bên lên quan về vai trò của họ. Ba là, sự 
đóng góp về mặt kinh tế cho cộng đồng và 
tạo ra những thu nhập công bằng, ổn định 
cho cộng đồng địa phương cũng như các 
bên có liên quan. Phát triển bền vững mang 
lại lợi ích cho người chủ, cho nhân viên và 
cả người xung quanh, nó không bắt đầu 
một cách đơn giản để rồi sau đó sụp đổ 
nhanh chóng và để lại nhiều hậu quả khó 
giải quyết do các hoạt động kinh doanh 
nghèo nàn. Chẳng hạn, một đơn vị kinh 
doanh có đủ ba tiêu chí trên thì sẽ kinh 
doanh tốt, nghĩa là kinh doanh không phá 
hủy nguồn lợi tự nhiên, văn hóa, kinh tế mà 
ngược lại sẽ bảo tồn nguồn lợi tự nhiên, 
nâng cao giá trị văn hóa, mang lợi tức đến 
cho cộng đồng. 
Về sau, UNWTO (1998) đã đề xuất 
định nghĩa phát triển du lịch bền vững 
(Sustainable Tourism Development) như 
sau: “Phát triển du lịch bền vững là việc 
phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp 
ứng nhu cầu hiện tại của du khách và 
người dân bản địa, trong khi vẫn quan tâm 
đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài 
nguyên cho phát triển du lịch tương lai” 
[14, tr.9]. Theo đó, khái niệm phát triển du 
lịch bền vững không chỉ tập trung vào việc 
bảo vệ môi trường mà còn tập trung vào 
việc duy trì sự bền vững về văn hóa, xã hội 
của cộng đồng địa phương để đảm bảo việc 
phát triển kinh tế, mang lại những lợi ích 
công bằng cho các nhóm đối tượng tham 
gia vào hoạt động du lịch. Tức là, sử dụng 
tài nguyên môi trường hiệu quả và lâu dài; 
tôn trọng bản sắc văn hóa địa phương và 
bảo đảo lợi ích kinh tế. Phát triển du lịch 
bền vững phải có nội hàm rõ rệt là: Mối 
quan hệ hữu cơ giữa bảo tồn tài nguyên tự 
nhiên, môi trường và lợi ích kinh tế, xã hội, 
văn hóa; Quá trình phát triển diễn ra trong 
một thời gian lâu dài; Đáp ứng được nhu 
cầu hiện tại, song không làm ảnh hưởng 
đến nhu cầu của các thế hệ tiếp theo. 
UNWTO còn chỉ ra rằng, phát triển du 
lịch bền vững đòi hỏi có sự tham gia đầy đủ 
của tất cả các bên liên quan, cũng như sự 
lãnh đạo chính trị mạnh mẽ để đảm bảo sự 
tham gia rộng rãi và xây dựng sự đồng 
thuận. Đạt được du lịch bền vững là một 
quá trình liên tục và đòi hỏi phải giám sát 
liên tục các tác động, giới thiệu các biện 
pháp phòng ngừa và/hoặc điều chỉnh khi 
cần thiết. Và hơn thế nữa, Du lịch bền vững 
cũng cần duy trì mức độ cao về sự hài lòng 
của du khách và đảm bảo cho khách du lịch 
một trải nghiệm có ý nghĩa, nâng cao nhận 
thức về các vấn đề bền vững và thúc đẩy 
các hoạt động du lịch bền vững trong số đó 
[16]. 
Hình 1. Phát triển du lịch bền vững theo quan niệm 
của Quốc tế 
Nguồn: Internet
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk 
25 
2.2. Tại sao cần phát triển du lịch bền 
vững? 
Du lịch có vai trò quan trọng trong việc 
xác định mục tiêu phát triển thiên niên kỷ 
(Millennium Development Goals) mà Liên 
hợp quốc đã đề ra từ năm 2000, đặc biệt là 
mục tiêu xóa đói giảm nghèo, bình đẳng 
giới tính, bền vững môi trường và liên 
doanh quốc tế để phát triển. Du lịch bền 
vững là một chủ đề được thảo luận rất 
nhiều ở các hội nghị và diễn đàn lớn trên 
thế giới. Mục đích chính của phát triển du 
lịch bền vững là thực hiện ba trụ cột của du 
lịch bền vững: Môi trường, văn hóa - xã hội 
và kinh tế để phát triển một cách đồng đều 
và hài hòa. Vì vậy, du lịch bền vững 
(Sustainable Tourism) là một phần quan 
trọng của phát triển bền vững (Sustainable 
Development) do Liên hợp quốc đề xuất. 
Du lịch là một trong những lĩnh vực tạo ra 
nhiều lợi nhuận cho quốc gia. Ở Việt Nam, 
doanh thu ngoại tệ về du lịch của nước ta 
chỉ đứng sau 4 ngành xuất khẩu hàng hóa là 
dầu thô, dệt may, giày dép, thủy sản [8]. 
2.2.1. Những lý do sâu sắc để phát triển 
du lịch bền vững 
1) Phát triển du lịch bền vững để bảo 
vệ môi trường sống, không bị nhiễm độc 
nguồn nước, không khí, tiếng ồn. Đảm bảo 
sự hài hòa về môi trường sống cho các loài 
động thực vật và con người; 2) Phát triển 
du lịch bền vững giúp phát triển kinh tế. 
Nhờ du lịch mà các quốc gia, các vùng 
miền và người dân có được kinh tế ổn định; 
3) Phát triển du lịch bền vững đảm bảo các 
vấn đề xã hội như giảm bớt tệ nạn xã hội, 
tạo công ăn việc làm cho người dân, giúp 
khai thác tài nguyên một cách hợp lý, đảm 
bảo các tài nguyên vẫn phát triển để thế hệ 
sau, thế hệ tương lai vẫn được sử dụng tốt. 
Để đạt được ba mục tiêu trên đòi hỏi 
các quốc gia, vùng miền cần thực hiện về 
mọi mặt từ luật pháp, hệ thống hành chính, 
hệ thống công ty kinh doanh, cộng đồng 
dân cư,... 
2.2.2. Mục tiêu của phát triển du lịch bền 
vững 
Chúng tôi nhận thấy phát triển du lịch 
bền vững có những mục tiêu cụ thể như 
sau: 
Hiệu quả kinh tế quốc gia: Đảm bảo 
tính hiệu quả kinh tế và tính cạnh tranh để 
các doanh nghiệp và các điểm du lịch có 
khả năng tiếp tục phát triển phồn thịnh và 
đạt tới lợi nhuận lâu dài. 
Lợi ích cho địa phương: Tăng tối đa 
đóng góp của du lịch đối với sự phát triển 
thịnh vượng của nền kinh tế địa phương tại 
các điểm du lịch, bao gồm phần tiêu dùng 
của khách du lịch được giữ lại tại địa 
phương. 
Chất lượng việc làm: Tăng cường số 
lượng và chất lượng việc làm tại địa 
phương do ngành du lịch tạo ra và được 
ngành du lịch hỗ trợ, bao gồm mức thu 
nhập, điều kiện và khả năng dịch vụ, không 
có sự phân biệt đối xử về giới, chủng tộc, 
bệnh tật và các mặt khác. 
Công bằng xã hội: Cần có sự phân 
phối lợi ích kinh tế và xã hội thu được từ 
hoạt động du lịch một cách công bằng và 
rộng rãi cho tất cả những người trong cộng 
đồng đáng được hưởng, kể cả những cơ hội 
cải thiện cuộc sống, nâng cao mức thu nhập 
và cung cấp dịch vụ cho người nghèo. 
Sự thỏa mãn của khách du lịch: Cần 
cung cấp những dịch vụ an toàn, thỏa mãn 
TẠP CHÍ K ...  không khí khiến cho 
dân địa phương bức xúc. Vệ sinh từ sân 
bay, bến cảng đến cơ sở lưu trú, nhà hàng, 
điểm du lịch còn chưa ngăn nắp, mất vệ 
sinh, đặc biệt là khu vệ sinh còn mùi hôi, 
bẩn thỉu. 
Phá rừng: Ở miền núi, tình trạng phá 
rừng đã làm cho cảnh quan đồi núi bị nham 
nhở, xơ xác đã ảnh hưởng đến du lịch sinh 
thái. Một số điểm du lịch sinh thái, hướng 
dẫn viên thuyết minh sai về hệ sinh thái cho 
du khách, thậm chí ở đó người ta còn chặt 
cây rừng, giết thú rừng và chim trời cho du 
khách “thưởng thức” [10]. 
Bài “Còn lại gì, Sapa?” của tác giả 
Phạm Quang Vinh đáng để cho chúng ta 
suy nghĩ về phát triển du lịch ở Việt Nam 
và nếu không nhận thức tốt, có chiến lược 
quy hoạch du lịch tối ưu, có tầm nhìn tổng 
thể thì nhiều thắng cảnh du lịch khác ở Việt 
Nam cũng vướng phải tình trạng tương tự 
[11]. 
Ô nhiễm môi trường tăng lên làm ảnh 
hưởng đến phát triển du lịch như sự cố 
Formosa 6/2016 làm ảnh hưởng nặng nề 
đến phát triển du lịch biển đảo ở bốn tỉnh 
miền Trung. 
Vấn đề nước sạch: năm 2003, Việt 
Nam có 240 nhà máy nước, tổng công suất 
2,4 triệu m3/ngày. Do hệ thống các nhà 
máy nước xây dựng từ quá lâu, kỹ thuật lạc 
hậu, đường ống dẫn nước cũ và hỏng, trước 
áp lực từ quá trình đô thị hóa nhanh, dân cư 
đông nên dẫn đến hiện tượng nhiều khu 
vực bị thiếu nước sinh hoạt. Ví dụ: Hà Nội 
từng xảy ra sự cố vỡ ống dẫn nước gần 20 
lần làm nhiều khu dân cư thiếu nước hoặc 
không có nước. 
Nước thải, nước bẩn: thoát nước và xử 
lý nước không kịp, cộng với triều cường, 
nhiều nơi ở Thành phố Hồ Chí Minh, Hà 
Nội, Cần Thơ, thậm chí là Đà Lạt,... bị 
ngập lụt, ngập úng, đi lại khó khăn, xe cộ bị 
tắt máy,... 
Nạn chèo kéo, tăng giá của những 
người bán rong, của các cơ sở kinh 
doanh,... làm phiền lòng du khách. 
Thực phẩm bẩn chưa được kiểm soát 
tốt, còn lan tràn từ đồng ruộng đến bàn ăn ở 
thành thị, mặc dù các cơ quan chức năng đã 
kiểm tra, kiểm soát nhưng nạn thực phẩm 
bẩn vẫn còn diễn biến phức tạp. Phải đảm 
bảo chặt chẽ vệ sinh thực phẩm và bảo 
quản, chế biến thực phẩm. 
Ứng xử văn hóa trong hoạt động du 
lịch còn nhiều hạn chế khiến du khách 
phiền lòng, không muốn quay trở lại (chưa 
thân thiện, nhiệt tình, có những khâu giao 
tiếp với du khách còn thiếu nụ cười,...). 
Ý thức cộng đồng chưa tốt, đặc biệt là 
việc bảo vệ môi trường công cộng. Người 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 05/2017 
28 
dân còn xâm phạm đến tài nguyên của các 
khu vực và điểm du lịch như xâm phạm 
rừng, để rừng bị cháy,... Ngày 14/7/2017, 
Đài VTV1 đưa tin, một số người dân phá 
rừng ở Vườn Quốc gia Ba Bể. 
Tư duy chưa đổi mới trong thời kỳ hội 
nhập (chưa coi khách du lịch là thượng đế). 
Chỉ biết khai thác lợi ích trước mắt dẫn đến 
nhiều hệ quả xấu. 
Sản phẩm du lịch đơn điệu, không có 
đặc trưng vùng, miền khiến du khách cảm 
thấy nhàm chán vì đến nhiều nơi khác nhau 
mà không có sản phẩm đặc sắc để thưởng 
thức. 
Quản lý du lịch còn yếu kém (để 
hướng dẫn viên nước ngoài tung hoành, đặc 
biệt là hướng dẫn viên Trung Quốc). 
Hạ tầng cơ sở kỹ thuật còn yếu, chưa 
đồng bộ khiến thời gian cứng trong hoạt 
động du lịch (thời gian vận chuyển) chiếm 
tỉ lệ lớn trong chương trình tham quan của 
du khách. Chẳng hạn, đường vào Vườn 
Quốc gia Tràm Chim ở tỉnh Đồng Tháp để 
tham quan nhiều loài chim quý hiếm là rất 
khó khăn. 
Vai trò của cộng đồng địa phương 
(tham gia và thụ hưởng) còn bị xem nhẹ 
trong phát triển du lịch. Cộng đồng địa 
phương bị gạt ra ngoài quá trình phát triển, 
tạo ra sản phẩm du lịch. 
Công tác đào tạo và trình độ người làm 
du lịch còn thiếu và yếu khiến cho kiến 
thức chuyên môn của người làm du lịch 
còn nhiều hạn chế và chưa khai thác tốt các 
thị trường du lịch thế giới. 
Chăm sóc khách hàng còn mang tính 
hình thức mà chưa hướng đến hậu mãi lâu 
dài như một chính sách phát triển bền 
vững. 
Các di sản phi vật thể bị biến tướng 
thương mại hóa, phản cảm, trở nên tầm 
thường, chẳng hạn như Lễ hội Chọi Trâu ở 
Đồ Sơn. Theo Đài VTV1, Lễ hội chọi trâu 
Đồ Sơn đã có lịch sử trên 1000 năm tuổi 
nhưng nay có hiện tượng thương mại hóa, 
kinh doanh biến tướng còn việc đi sâu vào 
truyền thống của cha ông chỉ còn là quá 
khứ! (VTV1 đưa tin 19h35 ngày 
05/7/2017). 
Thực trạng bảo vệ văn hóa trong du 
lịch trong những năm gần đây còn nhiều 
bất cập, những vấn đề nóng như vệ sinh 
môi trường, quảng cáo thương hiệu bằng 
những hình thức khuếch trương phù phiếm 
(bánh chưng khổng lồ, chai rượu khổng lồ, 
chai nước uống khổng lồ,...) làm tổn hại 
đến lễ hội. Hay là việc phát ấn, ban ấn, bán 
ấn, cướp ấn,... trở thành một vế ố trên bức 
tranh đẹp lễ hội tín ngưỡng tâm linh linh 
thiêng và độc đáo bậc nhất Bắc Bộ này [9]. 
Chính sách phát triển du lịch bền vững 
của Việt Nam chưa thật sát với tình hình 
thực tiễn và còn mang tính chất lý thuyết, 
hoạch định trên giấy tờ mà chưa triển khai 
quyết liệt và kiên trì theo đuổi khiến cho 
chính sách phát triển du lịch bền vững nghe 
rất thuận tai nhưng mang ít giá trị thực tiễn. 
Nói chung là đi ngược lại logic tồn tại của 
ngành du lịch (Logic tồn tại của ngành Du 
lịch là liên kết, phối hợp đồng bộ của tất cả 
các bên có liên quan để phát triển hiệu quả 
và lâu dài (thể hiện tính bền vững)). Muốn 
phát triển du lịch được tốt phải hoạch định 
theo hướng phát triển du lịch bền vững. 
Thực trạng phát triển của du lịch Việt 
Nam như chúng tôi trình bày trên đây cũng 
là những thách thức đối với phát triển du 
lịch bền vững. Tài nguyên du lịch Việt 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk 
29 
Nam, đa dạng, phong phú từ tự nhiên cho 
đến nhân văn, nói chung là có nhiều tiềm 
năng nhưng để biến những lợi thế tiềm 
năng thành sản phẩm du lịch cụ thể và 
những thế mạnh riêng có của ngành du lịch 
Việt Nam. 
Năm 2017, Đại hội đồng Liên hiệp 
quốc chọn là năm Quốc tế về du lịch bền 
vững vì sự phát triển. Trong khuôn khổ 
Năm APEC Việt Nam 2017, Việt Nam đã 
đưa ra sáng kiến tổ chức đối thoại chính 
sách cao cấp về du lịch bền vững. Giải 
pháp căn bản của phát triển du lịch bền 
vững vẫn phải bắt đầu từ chính sách vĩ mô 
và hoạch định mang tính chiến lược của 
Nhà nước và đây cũng là mối quan tâm của 
nhiều quốc gia phát triển du lịch hiện nay 
với mong muốn ngành kinh tế đặc thù này 
phát triển thật sự bền vững. Ngày 
19/6/2017, tại thành phố Hạ Long đã tổ 
chức Hội nghị đối thoại chính sách cao cấp 
về du lịch bền vững APEC với sự tham gia 
của 21 nền kinh tế thuộc APEC và các tổ 
chức như UNWTO, ASEAN, IATA (Hiệp 
hội Hàng không Thế giới), IUCN (Liên 
minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế) và các 
chuyên gia về du lịch bền vững [1]. 
Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế 
và vai trò của mình trong khu vực về hoạch 
định chính sách phát triển du lịch bền vững 
và cơ hội để trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, 
thảo luận biện pháp tăng cường hợp tác, hội 
nhập trong khu vực và đặc biệt là trong 
phát triển du lịch bền vững. Đồng thời góp 
phần nâng cao nhận thức của xã hội về tầm 
quan trọng của phát triển du lịch bền vững 
và nhân rộng các điển hình về phát triển du 
lịch bền vững trong thời gian qua. APEC 
thông qua tuyên bố cao cấp về phát triển du 
lịch bền vững với chủ đề: “Thúc đẩy du 
lịch bền vững Châu Á - Thái Bình Dương 
bao trùm và kết nối”, bao gồm: coi phát 
triển du lịch bền vững là một quá trình liên 
tục cần có sự theo dõi, đánh giá tác động 
một cách thường xuyên; đẩy mạnh các 
chính sách phát triển du lịch nội địa và khu 
vực nhằm hỗ trợ thực hiện các Mục tiêu 
Phát triển bền vững của Liên hợp quốc; 
khuyến khích các đóng góp kinh tế dài hạn, 
khả thi, đem lại lợi ích cho tất cả các bên 
liên quan; tôn trọng tính nguyên bản về văn 
hóa - xã hội của cộng đồng địa phương; sử 
dụng tối ưu nguồn tài nguyên môi trường tự 
nhiên; khuyến khích nhu cầu của người tiêu 
dùng đối với các hoạt động và sản phẩm du 
lịch bền vững; đẩy mạnh đối tác công - tư 
với tư cách là biện pháp chính để phát triển 
cơ sở hạ tầng và dịch vụ du lịch bền vững; 
tạo môi trường cạnh tranh, hỗ trợ tất cả các 
doanh nghiệp hoạt động liên quan đến du 
lịch, nhất là các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ 
và vừa; tiến hành thêm các nghiên cứu để 
các nền kinh tế APEC có thể thích ứng và 
tận dụng những thay đổi do các công nghệ 
mới tiên tiến đem lại. Đây là bước đi cụ thể 
hóa chính sách phát triển du lịch bền vững 
của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó 
có Việt Nam. 
2.4. Những giải pháp chính cho phát 
triển du lịch bền vững ở Việt Nam 
Nhằm mục đích phát triển bền vững du 
lịch Việt Nam, ngành du lịch cần nghiêm 
túc rút ra những bài học, những kinh 
nghiệm thành công và thất bại để phát triển 
du lịch bền vững và trở thành ngành kinh tế 
mũi nhọn. Chúng tôi đề xuất một số giải 
pháp sau: Nâng cao nhận thức và trách 
nhiệm phát triển du lịch bền vững; Đổi mới 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 05/2017 
30 
tư duy phát triển du lịch bền vững trong 
thời kỳ hội nhập; Nâng cao tính cạnh tranh 
của du lịch Việt Nam; Thực thi nghiêm 
chỉnh pháp luật và Luật Du lịch. Nhà nước 
cần tăng cường kiểm tra, giám sát cũng như 
nâng cao vai trò quản lý và có chế tài đủ 
mạnh với những sai trái, tiêu cực để phát 
triển du lịch bền vững; Đầu tư cơ sở hạ 
tầng kỹ thuật nhiều hơn cũng như đẩy 
mạnh quảng bá hình ảnh du lịch Việt Nam 
ra thế giới qua nhiều phương tiện truyền 
thông kể cả truyền thống và hiện đại; Liên 
kết và hợp tác chặt chẽ giữa các ngành, các 
địa phương cũng như giữa các nhà: Nhà 
nước, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học và 
người dân; Giải quyết tốt các vấn đề môi 
trường để đảo bảo phát triển du lịch bền 
vững. Không đánh đổi môi trường để phát 
triển kinh tế bằng mọi giá; Nâng cao văn 
hóa du lịch cho các đối tượng tham gia hoạt 
động du lịch, tiến hành xây dựng bộ quy tắc 
ứng xử trong du lịch; Xây dựng sản phẩm 
du lịch đặc thù, độc đáo và dịch vụ có chất 
lượng cao để thu hút du khách; Đẩy mạnh 
đào tạo nguồn nhân lực du lịch chất lượng 
cao với kiến thức chuyên môn và kỹ năng 
nghề vững vừng, ngoại ngữ tốt để khai thác 
thị trường nước ngoài và thái độ phục vụ 
tốt. 
3. KẾT LUẬN 
Bài viết của chúng tôi thiên về nhận 
thức phát triển du lịch bền vững của thế 
giới cũng như ở Việt Nam trong thời gian 
gần đây. Xu hướng phát triển du lịch bền 
vững, đi tìm giải pháp hòa hợp trong sự 
phát triển của ngành du lịch mà không làm 
tổn hại đến môi trường, văn hóa bản địa, 
ảnh hưởng đến thế hệ tương lai theo tinh 
thần của một số tổ chức thế giới như Hội 
đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế (1996), 
UNWTO (2004),... là rất cần thiết. Từ 
những nhận thức phát triển du lịch bền 
vững của thế giới, chúng tôi muốn soi rọi 
vào thực trạng phát triển du lịch Việt Nam 
cũng như những thách thức đặt ra mà 
chúng ta phải tìm cách giải quyết để phát 
triển du lịch bền vững. 
Bên cạnh những thách thức trên, vừa 
qua du lịch Việt Nam cũng đã “triển nở” 
những khu, điểm du lịch hấp dẫn. Đó là 
Hội An, vẫn xứng đáng với danh hiệu Di 
sản văn hóa thế giới được UNESCO công 
nhận; Đà Nẵng với bộ quy tắc ứng xử trong 
du lịch và phát triển “nụ cười” với du 
khách; đó là du lịch cộng đồng ở Quảng 
Ninh, du lịch nông nghiêp ở Hà Tĩnh; Lễ 
hội “Vương quốc hang động kỳ vĩ và huyền 
thoại” ở Quảng Bình (17/6/2017), Du 
lịch Việt Nam được xếp hạng thứ 7/20 
quốc gia phát triển du lịch mạnh trên thế 
giới. Du lịch Việt Nam năm 2016 đã đạt 
hơn 10 triệu lượt khách quốc tế và 62 triệu 
lượt khách nội địa. Du lịch Việt Nam 6 
tháng đầu năm 2017 tăng trưởng 30% so 
với cùng kỳ năm ngoái, đó là tốc độ tăng 
trưởng xếp hạng thứ nhất thế giới. Trong 
năm 2016 và 6 tháng đầu năm 2017, ngành 
du lịch Việt Nam đã phấn đấu mạnh mẽ và 
đạt được những kết quả tăng trưởng vượt 
bậc. 
Phát triển du lịch bền vững là một vấn 
đề mang tầm vĩ mô, do Nhà nước vạch ra 
và cần sự ủng hộ của các cơ quan, tổ chức, 
cá nhân hoạt động du lịch phối hợp thực 
hiện. Nhà nước đặt ra các mục tiêu phát 
triển bền vững về du lịch, và dùng các biện 
pháp điều chỉnh nhằm đạt đến mục tiêu du 
phát triển du lịch bền vững đó. Du lịch bền 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk 
31 
vững được lập kế hoạch tốt cung cấp cơ hội 
cho du khách tìm hiểu tự nhiên, cộng đồng 
địa phương và học thêm nhiều tầm quan 
trọng của công tác bảo tồn và phát huy giá 
trị văn hóa địa phương. Lẽ tất nhiên, trong 
quá trình phát triển, ngành du lịch nước ta 
có nhiều bất cập phát sinh, có mâu thuẫn 
mà tìm cách giải quyết tốt các mâu thuẫn là 
việc cần thực hiện thường xuyên và liên tục 
để phát triển du lịch bền vững. Một trong 
những đóng góp lớn nhất của du lịch bền 
vững là khả năng để chuyển đổi những “đe 
dọa” thành những “lợi ích” cho cộng đồng 
địa phương. Triển khai Nghị quyết Số 08 - 
NQ/TW của Bộ Chính trị với tinh thần 
trách nhiệm cao của Nhà nước, doanh 
nghiệp, cộng đồng dân cư, nhà khoa học, 
chúng ta tin tưởng rằng Việt Nam có thể 
thực hiện được phát triển du lịch bền vững 
[7]. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Apec (2017), The APEC High Level Policy Dialogue on Sustainable Tourism on 18
th
 - 
19
th
 June 2017 in Ha Long, Quang Ninh, Viet Nam, https://www.apec2017.vn/ap17-
c/content/media-notice%C2%A0apec-high-level-policy-dialogue-sustainable-tourism. 
2. F. Cerina, A. Markandya and M. McAleer (2011), Economics of Sustainable Tourism, 
Routledge. 
3. (1999), The German Forum on Environment and Development, at UN Conferece in New 
York. 
4. J.Tribe (edited, 2009), Philosophical Issues in Tourism, Channel View Publications, 
Great Britain. 
5. Jafar Jafari (Chief editor, 2000), Encyclopedia of Tourism, Routledge, New York. 
6. Quốc hội (2011), Luật Du lịch Việt Nam và các văn bản thi hành, Nxb. Chính trị Quốc 
gia. 
7. Bộ Chính Trị (2017), Nghị quyết Số 08 - NQ/TW. 
8. Nguyễn Hương, Hồng Lụa, Bá Phúc (2016), Du lịch Việt Nam hội nhập, phát triển bền 
vững, 
2402-5767.html, truy cập ngày 11/6/2016. 
9. Nguyễn Phạm Hùng (2017), Văn hóa du lịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 
10. Phạm Trương Hoàng (2014), Hướng du lịch sinh thái phát triển bền vững, Báo Nhân 
dân, 
thai-phat-trien-ben-vung.html. 
11. Phạm Quang Vinh (2016), Còn lại gì, Sapa, Tuổi Trẻ cuối tuần, đăng lại trên 
pa/1228444.html, truy cập 10/7/2017. 
12. S. Medlik (2003), Dictionary of Travel, Tourism and Hospitality, Butterworth-
Heinemann, Oxford, UK. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 05/2017 
32 
13. Stephen F. McCool & Keith Bosak (editors) (2016), Reframing Sustainable Tourism 
(Environmental Challenges and Solutions), Springer. 
14. UNDP (2005), Sustainable tourism developmetn in UNESCO. 
15. UNEP & UNWTO (2005), Making tourism More sustainable - A guide for policy 
makers, Document published by UNEP & UNWTO. 
16. UNWTO (2008), Defination of Tourism,  
17. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. 
Chính trị Quốc gia Hà Nội. 
18. Võ Văn Sen & Nguyễn Thế Nghĩa (2014), Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu 
Long - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 
Ngày nhận bài: 1/8/2016. Ngày biên tập xong: 12/8/2017. Duyệt đăng: 20/8/2017 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_phat_trien_du_lich_ben_vung_o_viet_nam.pdf