Nghệ thuật trang trí bao lam tại chùa Giác Viên ở thành phố Hồ Chí Minh

TÓM TẮT

Chùa Giác Viên là một di tích kiến trúc được tôn tạo vào khoảng đầu thế kỉ XIX tại Thành

phố Hồ Chí Minh (TPHCM). Các bao lam chạm khắc ở chùa Giác Viên là một công trình nghệ

thuật tiêu biểu, mang dấu ấn dân tộc rõ nét, khá điển hình về mĩ thuật ở vùng đất phương Nam. Do

đó, việc nghiên cứu, phổ biến và bảo tồn vốn quý nghệ thuật dân tộc là điều cần thiết và cấp bách

đối với mỗi chúng ta trong giai đoạn hiện nay

pdf 7 trang yennguyen 6540
Bạn đang xem tài liệu "Nghệ thuật trang trí bao lam tại chùa Giác Viên ở thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghệ thuật trang trí bao lam tại chùa Giác Viên ở thành phố Hồ Chí Minh

Nghệ thuật trang trí bao lam tại chùa Giác Viên ở thành phố Hồ Chí Minh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH 
TẠP CHÍ KHOA HỌC 
HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION
JOURNAL OF SCIENCE
ISSN: 
1859-3100 
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN 
Tập 14, Số 2 (2017): 107-113 
SOCIAL SCIENCES AND HUMANITIES
Vol. 14, No. 2 (2017): 107-113
 Email: tapchikhoahoc@hcmue.edu.vn; Website:  
107 
NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ BAO LAM 
TẠI CHÙA GIÁC VIÊN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
Nguyễn Thị Thu Tâm* 
Ngày Tòa soạn nhận được bài: 18-11-2016; ngày phản biện đánh giá: 08-12-2016; ngày chấp nhận đăng: 22-02-2017 
TÓM TẮT 
Chùa Giác Viên là một di tích kiến trúc được tôn tạo vào khoảng đầu thế kỉ XIX tại Thành 
phố Hồ Chí Minh (TPHCM). Các bao lam chạm khắc ở chùa Giác Viên là một công trình nghệ 
thuật tiêu biểu, mang dấu ấn dân tộc rõ nét, khá điển hình về mĩ thuật ở vùng đất phương Nam. Do 
đó, việc nghiên cứu, phổ biến và bảo tồn vốn quý nghệ thuật dân tộc là điều cần thiết và cấp bách 
đối với mỗi chúng ta trong giai đoạn hiện nay. 
Từ khóa: nghệ thuật trang trí, chạm khắc, khổ qua, mãng cầu. 
ABSTRACT 
The art of fresco in doors at Giac Vien Pagoda in Ho Chi Minh city 
Located in Ho Chi Minh city, Giac Vien pagoda is an architectural relic embellished at 
about the beginning of the 19th century. The fresco-painted doors carved at the pagoda are typical 
works of art and bear clear traditional marks, typical in the South of Vietnam. Conducting 
research, popularizing and preserving this traditional art is essential and imperative for Vietnam 
nowadays. 
Keywords: the art of fresco, carving, bitter melon, soursop. 
* Trường Đại học Sài Gòn; Email: tranha056@gmail.com 
1. Đặt vấn đề 
Với diện tích tự nhiên 2093 km², đặc 
điểm địa lí đa phần là sông nước, TPHCM 
hiện có khoảng gần một nghìn ngôi chùa, 
trong đó có sáu ngôi chùa Việt được nhà 
nước xếp hạng di tích kiến trúc - nghệ 
thuật cấp Quốc gia: Giác Lâm, Giác Viên, 
Sắc tứ Trường Thọ, Hội Sơn, Phụng Sơn, 
Phước Tường. Sáu ngôi chùa này được 
hình thành vào khoảng năm 1741 đến 1818 
tại Nam Bộ. Ngoài giá trị về văn hóa, tín 
ngưỡng, di tích này còn gắn với những 
điển tích lịch sử dân tộc trên vùng đất Nam 
Bộ từ ngày đầu mở cõi. Các ngôi chùa ẩn 
chứa trong mình những giá trị nghệ thuật 
với khuynh hướng dân gian đậm nét, độc 
đáo, được biểu hiện sinh động qua mĩ thuật 
rất cần được quan tâm nghiên cứu, giải mã. 
Đặc điểm của đa số chùa Việt tại 
phương Nam được xây dựng trên các gò 
cao, thường ẩn mình dưới những lùm cây, 
hướng ra mặt sông, rạch. Kiến trúc bên 
ngoài có vẻ khiêm nhường, nhưng bên 
trong, cách bài trí tượng và trang trí chạm 
khắc lại khiến người xem choáng ngợp, 
bởi: “Nghệ thuật chạm khắc gỗ TPHCM 
được hình thành và phát triển như sự tiếp 
nối liên tục của nghệ thuật điêu khắc 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 14, Số 2 (2017): 107-113 
108 
truyền thống của dân tộc. Nghệ thuật chạm 
khắc gỗ từ Trung, Bắc là nền tảng chính 
yếu để từ đó, qua những chặng đường phát 
triển về sau, do những điều kiện lịch sử cụ 
thể của xứ đô hội mà thâu thái thêm những 
tinh hoa từ những nguồn khác để từng 
bước xác lập cái riêng của địa phương” 
[15, tr.570]. Những nghiên cứu cho thấy 
nghệ thuật trang trí bao lam tại chùa Giác 
Viên được đánh giá là rất đẹp. Qua khảo 
sát thực tế tại di tích, chúng tôi bước đầu 
đặt vấn đề cần nghiên cứu sâu, giải mã và 
phát hiện những giá trị nghệ thuật dân gian 
Nam Bộ ở một số đồ án trang trí bao lam 
tại đây. Việc khẳng định giá trị nghệ thuật, 
độc đáo tại ngôi chùa Việt vùng Nam Bộ 
này nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của 
cộng đồng đối với việc bảo vệ, phát huy 
giá trị của di tích. 
2. Bao lam chùa giác viên 
Nói đến mĩ thuật chùa ở TPHCM từ 
thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX thì phải kể 
đến các công trình chạm khắc gỗ mà nổi 
bật là khắc bao lam (cửa võng) thần vọng, 
bao lam trang, kẻ chạm Riêng ở chùa 
Giác Viên, nghệ thuật trang trí bao lam rất 
tiêu biểu. 
Chùa Giác Viên được xây dựng trong 
thời gian trùng tu chùa Giác Lâm vào 
khoảng năm 1798, tiền thân chùa là một 
am nhỏ thường gọi là “Quan Âm Các”, đây 
là nơi tập kết gỗ (theo đường thủy) để xây 
dựng chùa Giác Lâm. Chùa Giác Viên 
hướng ra rạch Ông Bường, cho đến nay chỉ 
còn lại một ít dấu tích của con rạch đó. 
Năm Canh Tuất đời Tự Đức (1850), Quan 
Âm Các được trùng tu nâng cấp và đổi tên 
thành chùa Giác Viên, từ đó, qua nhiều lần 
trùng tu, Giác Viên có quy mô như hiện 
nay. 
Trong chùa Giác Viên, ngoài 153 
tượng gỗ, đồng, đá và gốm còn có rất 
nhiều bao lam chạm khắc tinh xảo, có giá 
trị về văn hóa, lịch sử và nghệ thuật. Theo 
thống kê của Bảo tàng Cách mạng 
TPHCM, chùa Giác Viên có gần 60 bao 
lam trang trí độc đáo. Với số lượng bao 
lam mang giá trị nghệ thuật như vậy, tại 
TPHCM, hầu như không có chùa nào vượt 
qua chùa Giác Viên. Nhưng theo thống kê 
mới nhất của chúng tôi vào ngày 20-10-
2016, tổng số bao lam hiện có tại chùa 
Giác Viên chỉ còn 55 cái, bên cạnh đó một 
ít bao lam bị hư hỏng do thời gian, bị ảnh 
hưởng khi một phần gian thờ bị sập đang 
được tu bổ. Trong số 55 bao lam trang trí 
còn lại, có 17 bao lam về đề tài Phật giáo 
và 38 bao lam thể hiện cây cỏ muông thú 
đặc trưng của Nam Bộ. Tại chính điện có 9 
bao lam, Hậu Tổ có 5 bao lam, khu giảng 
kinh Phật có 23 bao lam, Tây lang có 9 bao 
lam (trong đó có 2 bao lam không chạm 
thủng), Đông lang có 9 bao lam. Toàn bộ 
bao lam tại chùa Giác Viên đều do nhóm 
thợ Cầu Ông Thìn và nhóm thợ Đinh Văn 
Dực (thường gọi là nghệ nhân Sáu Dực) 
tạo tác kéo dài suốt mấy chục năm mới 
hoàn tất. Chùa Giác Viên đã trải qua ba lần 
tu bổ lớn (1958, 1961, 1962), có bổ sung 
các công trình kiến trúc cũng như chạm 
khắc bao lam và hiện nay đang trong giai 
đoạn được tháo dỡ để đại trùng tu. 
Về nội dung của gần 60 bao lam này, 
ta có thể thấy các đồ án đều mang đề tài 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Thu Tâm 
109 
điển tích Phật giáo, truyền thuyết và tín 
ngưỡng dân gian hay miêu tả cảnh vật 
thiên nhiên bản địa. Bao lam nói về đề tài 
Phật giáo chủ yếu chạm khắc rồng, phụng, 
La hán cưỡi thú, bát bửu Trong đề tài 
này, bao lam Thập bát La Hán thượng kì 
thú được nhắc tới như một tác phẩm nghệ 
thuật chạm khắc có giá trị nghệ thuật cao, 
gồm hai bộ, bộ thứ nhất có 2 bao lam đặt ở 
chính điện, giữa 2 bao lam này là bao lam 
Bá điểu, bộ bao lam thứ hai đặt ở Nhà Trai 
(nơi giảng kinh Phật). Bộ bao lam ở chính 
điện đã được các nhà nghiên cứu Huỳnh 
Ngọc Trảng, Đỗ Duy Ngọc miêu tả, giải 
mã biểu tượng, kĩ thuật tạo tác trong 
cuốn Địa chí văn hóa TPHCM. Bao lam 
Thập bát La Hán thượng kì thú độc đáo ở 
kĩ thuật chạm lộng và khối tròn, ở cách 
diễn tả 18 vị La Hán ngồi ở tư thế chân co, 
chân duỗi và cưỡi thú. Mỗi vị lại cưỡi một 
con thú khác nhau và trên tay mỗi vị cầm 
một vật tượng trưng tính cách như chùy, 
cành, khoen, chập chõa, thanh gỗ như thẻ 
bài, bình hoa, cây ráy tai... Trang phục các 
vị theo quy chuẩn giống nhau nhưng do 
cách tạo hình điêu luyện của nghệ nhân đã 
làm cho tác phẩm trở nên không đơn điệu. 
Xen kẽ các vị La Hán là tùng, bách và cây 
cối tạo thành một bố cục chặt chẽ, với cách 
diễn tả gần như thật, không cách điệu. Đặc 
biệt, bao lam Thập bát La Hán tại chính 
điện đã thoát ra khỏi khuôn phép của quy 
chuẩn mẫu mực xưa. Thường các vị La 
Hán cưỡi các con linh vật, nhưng ở bao 
lam này lại cưỡi các con vật được coi là rất 
bình thường như heo, dê, trâu, bò thể 
hiện một cách nghĩ phóng khoáng và hài 
hước trong tâm hồn người Việt ở vùng đất 
mới. 
Trong đề tài dân gian, Bao lam “Bá 
điểu” được nhắc tới trong cuốn Địa chí văn 
hóa TPHCM là bao lam được nghệ nhân sử 
dụng kĩ thuật chạm lộng thể hiện 94 con 
chim các loài từ loài cao quý đến loài bình 
thường, đây cũng là bao lam thể hiện số 
chim nhiều nhất ở Nam Bộ. Ở bao lam Bá 
điểu, nghệ nhân kết hợp những giống chim 
đặc trưng của miền Nam như le le, bói 
cá vào tác phẩm. Với số chim, cây cối 
nhiều nhưng bao lam không gây cảm giác 
nặng nề mà vẫn nhẹ nhàng, luôn dẫn mắt 
người xem đi từ bất ngờ này qua sự ngỡ 
ngàng khác. Các chi tiết thể hiện đặc điểm 
của từng loài chim, cách thể hiện trau 
chuốt, tỉ mỉ nhưng không khô cứng, nặng 
nề. Đây là một tác phẩm thoát ra ngoài sự 
ràng buộc khuôn khổ định sẵn của trang trí 
chùa thời nhà Nguyễn. Tác phẩm này được 
cấp riêng một bằng xác nhận kỉ lục Việt 
Nam số 462/KLVN/2007, thời điểm xác 
lập: 30-11-2007, với kỉ lục “Chùa Giác 
Viên, ngôi chùa có bao lam bách điểu lớn 
nhất Việt Nam”. Hệ thống bao lam tại chùa 
Giác Viên với “Những bao lam có giá trị 
nghệ thuật cao là: bao lam Thập bát La 
Hán, bao lam Bá điểu, bao lam hình sen 
chài, bao lam Ngư tiều canh độc ở Đông 
lang, bao lam khỉ bắt chim ở Tây lang” 
[14, tr.5-6], phong phú về thể loại, về nội 
dung và nhiều tác phẩm mang rõ phong 
cách thuần Việt. Có thể nói, đây là hệ 
thống bao lam có giá trị cao về mặt nghệ 
thuật, là vốn quý về mĩ thuật cổ. 
Ngoài các bao lam “Thập bát La Hán 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 14, Số 2 (2017): 107-113 
110 
thượng kì thú”, “Bá điểu” cùng những bao 
lam khác mang các đồ án điển tích có tính 
truyền thống, ở chùa Giác Viên còn có 
những bao lam có các đồ án cách tân, khác 
lạ, thể hiện tín ngưỡng, văn hóa dân gian 
vùng miền. Nổi bật là các bao lam dùng 
nhiều hình tượng trái Mãng cầu xiêm và 
Khổ qua. Việc xem xét hai tác phẩm này 
về nghệ thuật, về nội dung và giải mã 
thông điệp mà nghệ nhân xưa muốn 
chuyển tải qua tác phẩm mĩ thuật là rất cần 
thiết đối với người nghiên cứu nghệ thuật. 
Ở Đông lang (hành lang Đông) có 
một bao lam chạm lộng, trên bao lam có 
tổng cộng 26 trái mãng cầu đăng đối, mỗi 
bên 13 trái lớn nhỏ được sắp xếp thành 
từng cặp hai, ba trái, liên kết với nhau bằng 
họa tiết cành cây lớn nhỏ và lá mãng cầu, 
xen lẫn mười con cò bố trí riêng biệt thành 
cặp đối xứng nhau mỗi bên 5 con, con đậu, 
con tung cánh chuẩn bị bay, con đang bay. 
Phía dưới bao lam mỗi bên có hai tảng đá. 
Ở thân cây mọc từ tảng đá trên, tảng đá 
dưới có một vị ngư phủ đang trong tư thế 
cúi, nón đeo sau lưng, đầu quấn khăn, phía 
sau tảng đá là giỏ cá, nhân vật được trang 
trí nút thắt vải ngang bụng, quần xắn lên 
gần ngang đầu gối, một tay nắm hờ đưa ra 
sau, còn tay kia đưa ra phía trước với hai 
ngón tay chỉ thẳng trong khi các ngón khác 
nắm lại như cử chỉ làm phép cho một chú 
cò đang vươn hai cánh lên, đầu gục xuống 
đất. Ở trung tâm bao lam là hình hoa cúc 
lớn cách điệu, dưới cùng là hình hoa văn 
trang trí kiểu bệ đỡ có chạm lá cách điệu. 
Với phong cách thể hiện vừa cách 
điệu vừa tả thực, phần thể hiện nội dung 
chính mang tính tả thực, trong khi đó các 
họa tiết trung tâm phía trên và phần kết của 
hai bên cánh gà bao lam được cách điệu 
theo phong cách truyền thống. Toàn bộ bố 
cục chuyển động uốn lượn lên trên và từ 
hai bên chạy tụ vào giữa trung tâm của bao 
lam. Các khoảng trổ thủng được nghệ nhân 
bố trí khéo léo, lớn nhỏ khác nhau. Các 
mảng trang trí cũng có sự thay đổi về hình 
dáng, thân cây bố trí hợp lí nhằm mục đích 
liên kết các mảng trang trí và khoảng trống 
chạm thủng. Việc sắp xếp khoảng trống 
phía trên nhiều, phía dưới ít, tạo cảm giác 
chắc chắn và dẫn mắt người xem từ dưới 
lên, càng lên cao cảm giác càng nhẹ nhàng, 
bay bổng. Các họa tiết chạm khắc khá chi 
tiết, tỉ mỉ như các cánh, mắt, mỏ và vẩy ở 
chân con cò được thể hiện rõ. Không 
những vậy, các thân, cành, lá còn rõ cả chi 
tiết gân lá, mắt, mấu của thân cây. Trên trái 
mãng cầu, nghệ nhân thể hiện các gai, 
cuống và thân hình cong theo các hướng 
khác nhau và rất được chú ý về mặt mĩ 
thuật. Các trái mãng cầu cũng thay đổi về 
kích thước lớn, nhỏ khác nhau, trái chìm 
sâu vào trong, trái lồi hẳn ra ngoài tạo một 
không gian mở trong trang trí. 
Với tất cả các thủ pháp nghệ thuật 
như trên đã nêu, nghệ nhân muốn tập trung 
thể hiện rõ ý nghĩa mình muốn biểu đạt, 
thể hiện một hình ảnh sống động về cuộc 
sống vùng đồng quê. Sự cách tân thể hiện 
trong việc sử dụng hình tượng trái mãng 
cầu để diễn tả những trái cây thân quen 
trong cuộc sống hàng ngày, gắn bó với đời 
thường, khác xa các loại trái cây trong điển 
tích các đồ án truyền thống như lựu, đào... 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Thu Tâm 
111 
Ý nghĩa của trái mãng cầu xuất hiện trong 
mâm ngũ quả ngày tết của người dân Nam 
Bộ cũng mang ý nghĩa như những điều mà 
nghệ nhân muốn chuyển tải trong bao lam 
đặc biệt này. Họa tiết vị ngư phủ với con 
cò gợi cho người xem hình ảnh rất đời 
thường, dân dã, đồng thời thể hiện sự gắn 
kết giữa con người với thiên nhiên. 
Sau gian chính điện, sát cửa sau của 
khu nhà Trai (khu giảng kinh Phật) là một 
bao lam dài 3,5m, cao 2,5m và bản rộng 
0,25m. Mỗi bên bao lam trang trí 13 trái 
khổ qua, tổng cộng cả bao lam là 26 trái. 
Các trái được sắp xếp khi thì đơn lẻ, khi 
thành cặp hai trái, ba trái, xen kẽ là cây 
trúc và cành trúc. Càng lên trên các đốt 
trúc lại càng ngắn lại. Trên cành trúc, bên 
những trái khổ qua, lá trúc, lá khổ qua là 
những con chim. Mỗi bên 9 con, tổng cộng 
18 con có dáng dấp sinh động, con đậu, 
con thì bay hoặc xòe cánh. Phần trung tâm 
được trang trí hai trái khổ qua được sắp 
xếp đăng đối trên nền chùm lá, tạo thành 
một đồ án đẹp tại trung tâm của bao lam. 
Nghệ nhân sắp xếp các cụm lá trúc, 
lá cây khổ qua xen kẽ tạo nên bố cục hòa 
quyện, các nét chạm khắc tinh xảo, có 
những cành trúc nhỏ chạm lộng chừng 1cm 
và nhỏ như cọng tăm. Các chi tiết nhỏ ở 
con chim cũng được chú ý từ lông cánh 
đến lông đuôi. Các con chim đứng thành 
cặp, có cả những chú chim nhỏ bên cạnh 
chim bố chim mẹ được thể hiện trong trang 
thái bình yên của một gia đình, các chi tiết 
nhỏ như lông, mắt, mỏ, chân chim được 
diễn tả chi tiết, sắc sảo. Hầu hết trái khổ 
qua được chạm nổi rồi ghép vào tấm chính, 
ta như nhìn rõ từng mấu lồi sần sùi trên 
thân trái, hình trái đa dạng gần với trái khổ 
qua thật. Các cây trúc thanh thoát, nhỏ 
nhắn, các mắt được chạm rõ ràng, lá trúc 
tạo thành từng chùm hay đơn lẻ đều được 
chú ý tới từng chi tiết. Các dây leo quấn 
quanh cây trúc tinh tế, mềm mại, sinh 
động. Phong cách nghệ thuật rất riêng biệt 
trong cách sắp xếp bố cục các mảng chạm 
khắc lá, cành, chim thay đổi liên tục không 
lặp lại, đồng thời các khoảng trống cũng 
không giống nhau về hình, về diện tích, các 
mảng thoáng dần ở phần trên. Dù chú ý 
từng chi tiết nhỏ như vậy song không làm 
phá vỡ bố cục chung, vừa vững vàng, chặt 
chẽ vừa thanh thoát, không gây cảm giác 
nặng nề hay dày đặc trong toàn bộ bao lam. 
Bố cục tạo cảm giác chuyển động từ dưới 
và từ hai phía lên, gặp nhau ở giữa rồi bung 
ra, như một sự mãn nguyện, thăng hoa. 
Nghệ nhân đã thể hiện được ý đồ của nội 
tâm là mong muốn một cuộc sống yên 
bình, hạnh phúc. 
Theo quy luật tự nhiên, các đốt trúc 
dưới gốc thường ngắn hơn các đốt trúc ở 
trên ngọn, nhưng ở đây, nghệ nhân cố tình 
tạo các đốt ở trên ngọn ngắn sát nhau để 
thể hiện rằng càng lên cao thân càng chắc 
khỏe. Việc dùng hình tượng tre trúc vốn 
tượng trưng cho bậc quân tử trí nhân bên 
cạnh những trái cây thật dân dã Nam Bộ 
như khổ qua, nhằm ca ngợi tinh thần khí 
phách của người dân khai hoang mở cõi. 
Theo sự nhìn nhận của chúng tôi, bao lam 
này có phong cách và nội dung thuần Việt, 
cách diễn tả phóng khoáng, hiện thực, 
không bị ảnh hưởng bởi bất cứ một phong 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 14, Số 2 (2017): 107-113 
112 
cách nào trong cách thể hiện, mang đặc thù 
của cư dân Việt trên vùng đất Nam Bộ. 
Tóm lại, các bao lam chạm khắc của 
chùa Giác Viên ngoài giá trị về mặt tạo 
hình trong đường nét chạm khắc trang trí, 
ta còn thấy sự phát triển của đồ án trang trí, 
sự thoát li các đồ án điển tích truyền thống, 
tiếp nhận các đồ án mang tính dân dã, đời 
thường, thể hiện lối sống phóng khoáng, 
hào sảng đặc trưng. Các tác phẩm phản ánh 
những mong ước của người dân mà nghệ 
nhân Nam Bộ gửi gắm trong nội dung 
được chuyển tải qua nghệ thuật chạm khắc. 
Đằng sau ý nghĩa ẩn sâu ấy, hai tác phẩm 
nghệ thuật này dường như còn mang một ý 
nghĩa về tôn giáo sâu sắc. Bao lam trái 
mãng cầu và khổ qua đã thể hiện đậm nét 
dân gian thuần Việt của vùng đất phương 
Nam so với các bao lam khác trong chùa 
Giác Viên và các chùa khác tại TPHCM. 
3. Kết luận 
“Nghệ thuật điêu khắc gỗ Nam Bộ có 
nguồn gốc từ Trung, Bắc. Những người thợ 
chạm, theo chân những di dân Thuận, 
Quảng vào hành nghề ở miền đất này. Mặc 
dù, ngay từ buổi đầu chắc đã có những tay 
thợ giỏi, nhưng cuộc sống lúc đó chưa có 
yêu cầu cao. Nhà cửa, đồ dùng bằng gỗ chỉ 
cần bền chắc là đủ thì có lẽ tài năng của 
họ chưa phát huy đúng mức. Tuy nhiên 
thời gian “thất nghiệp” của những người 
thợ chạm khắc gỗ kéo dài không lâu, vì tốc 
độ phát triển kinh tế xã hội ở vùng đất mới 
này rất nhanh chóng” [15, tr.535]. Cũng 
chính trong thời gian “thất nghiệp” đó, 
những người thợ chạm khắc phải bươn chải 
bằng việc song hành khai phá cùng di dân 
ở vùng đất mới. Chính vì vậy mà họ đã 
thấu hiểu những suy nghĩ, tình cảm, ước 
vọng của cư dân vùng đất phương Nam 
này, để rồi bộc lộ điều đó qua các công 
trình chạm khắc trang trí ở chùa. Họ thể 
hiện chân thực những nguyện ước, mong 
mỏi của người dân và sự phóng khoáng 
trong suy nghĩ cũng như trong cách tạo tác. 
Tác phẩm mang đậm chất địa phương Nam 
Bộ và dân gian người Việt, triết lí nhà Phật 
trên nền của ý tứ, kĩ thuật chạm khắc từ 
Trung, Bắc. Mỗi bao lam ở chùa Giác Viên 
là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị về 
văn hóa, là bằng chứng sống động về tâm 
tư tình cảm của con người ở vùng đất Nam 
Bộ xưa. 
Bài viết này góp phần bổ sung làm rõ 
thêm giá trị về các yếu tố tạo hình cũng như 
ý nghĩa về những biểu tượng đó. Chùa Giác 
Viên không chỉ có giá trị về mĩ thuật, lịch sử, 
văn hóa và khoa học, mà còn mang giá trị về 
mặt xã hội, tín ngưỡng nên cũng cần gắn với 
những hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị 
nghệ thuật hơn nữa để xử lí hài hòa mối quan 
hệ giữa bảo tồn và phát triển. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Thu Tâm 
113 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đào Duy Anh (hiệu đính, chú giải và khảo chứng) (2013), Đại Việt sử kí toàn thư, Nxb Thời đại. 
2. Nguyễn Chí Bền (2006), Góp phần nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học 
xã hội, Hà Nội. 
3. Trần Lâm Biền (1993), Hình tượng con người trong nghệ thuật tạo hình truyền thống Việt, 
Nxb Mĩ thuật, Hà Nội. 
4. Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 
5. Trần Lâm Biền (chủ biên) (2001), Trang trí trong mĩ thuật truyền thống của người Việt, Nxb 
Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 
6. Trần Lâm Biền (2013), Con đường tiếp cận lịch sử, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 
7. Trần Văn Cẩn (biên soạn) (1975), Việt Nam - Điêu khắc dân gian, Nxb Ngoại văn, Hà Nội. 
8. Phạm Anh Dũng (2013), Kiến trúc đình, chùa Nam Bộ, Nxb Xây dựng, Hà Nội. 
9. Lê Quý Đôn, (Trúc viên Lê Mạnh Liêu dịch) (1973), Đại Việt thông sử, Tủ sách cổ văn, Ủy 
ban dịch thuật, Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên. 
10. Nguyễn Hiền Đức (1993), Lịch sử Phật giáo Đàng Trong (1558 – 1802), Nxb Thành phố Hồ 
Chí Minh. 
11. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên) (1998), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí 
Minh, tập 1, 2, 3, 4, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 
12. Đại đức Thích Thiện Hoa (Pl 2550 - Dl 2006), Phật học phổ thông, Nxb Tôn giáo. 
13. Thạch Phương, Lê Trung Hoa (chủ biên) (2008), Từ điển Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, 
Nxb Trẻ. 
14. Sở Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (1993), Hồ sơ di tích kiến trúc, nghệ thuật cấp Quốc 
gia chùa Giác Viên, quận 11, Trung tâm bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa 
Thành phố Hồ Chí Minh. 
15. Huỳnh Ngọc Trảng, Đỗ Duy Ngọc (1998), “Nghệ thuật chạm khắc gỗ Thành phố Hồ Chí 
Minh”, Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 

File đính kèm:

  • pdfnghe_thuat_trang_tri_bao_lam_tai_chua_giac_vien_o_thanh_pho.pdf