Luận bàn về trống Ngọc Lũ Việt Nam một di vật của văn hóa Đông Sơn

Cho đến nay, trống đồng vẫn là Đề tài nghiên cứu thu hút sự quan tâm của nhiều học giả trên thế giới với không ít tranh cãi về nguồn gốc, niên đại, hình dáng, hoa văn từ đó liên quan đến văn hóa của tộc người sáng tạo ra chúng. Phản hồi lại những nhận định của học giả Trung Quốc Vương Chấn Dong về nguồn gốc và tộc thuộc của trống Ngọc Lũ Việt Nam, tác giả bài viết đã đưa ra những lập luận xác đáng và đầy đủ sở cứ khoa học để khẳng định: Không có mối quan hệ nào giữa người Lạc Việt và người Điền (Trung Quốc), mà ngược lại trống Điền là loại trống được phái sinh ra từ trống Đông Sơn và sự có mặt của trống Đông Sơn trong đời sống của người Điền ở khu vực Điền Trì là một tiêu đề quan trọng không thể thiếu để trống Điền ra đời. Điều đó cho thấy sự đóng góp của văn hóa Đông Sơn, tiêu biểu là trống đồng đối với cuộc sống của người Điền. Khẳng định được đưa ra sau quá trình nghiên cứu này thực sự có giá trị đối với khảo cổ học và lịch sử đương đại

pdf 5 trang yennguyen 920
Bạn đang xem tài liệu "Luận bàn về trống Ngọc Lũ Việt Nam một di vật của văn hóa Đông Sơn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận bàn về trống Ngọc Lũ Việt Nam một di vật của văn hóa Đông Sơn

Luận bàn về trống Ngọc Lũ Việt Nam một di vật của văn hóa Đông Sơn
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
102 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
LUẬN BÀN VỀ TRỐNG NGỌC LŨ VIỆT NAM
MỘT DI VẬT CỦA VĂN HÓA ĐÔNG SƠN
Nguyễn Văn Hảo
Cho đến nay, trống đồng vẫn là đề tài nghiên cứu thu hút sự quan tâm của nhiều học giả trên thế giới với không 
ít tranh cãi về nguồn gốc, niên đại, hình dáng, hoa văn từ 
đó liên quan đến văn hóa của tộc người sáng tạo ra chúng. 
Phản hồi lại những nhận định của học giả Trung Quốc Vương 
Chấn Dong về nguồn gốc và tộc thuộc của trống Ngọc Lũ Việt 
Nam, tác giả bài viết đã đưa ra những lập luận xác đáng và 
đầy đủ sở cứ khoa học để khẳng định: Không có mối quan 
hệ nào giữa người Lạc Việt và người Điền (Trung Quốc), mà 
ngược lại trống Điền là loại trống được phái sinh ra từ trống 
Đông Sơn và sự có mặt của trống Đông Sơn trong đời sống của 
người Điền ở khu vực Điền Trì là một tiêu đề quan trọng không 
thể thiếu để trống Điền ra đời. Điều đó cho thấy sự đóng góp 
của văn hóa Đông Sơn, tiêu biểu là trống đồng đối với cuộc 
sống của người Điền. Khẳng định được đưa ra sau quá trình 
nghiên cứu này thực sự có giá trị đối với khảo cổ học và lịch 
sử đương đại. 
Từ khóa: Trống Ngọc Lũ; Văn hóa Đông Sơn; Trống Điền; 
Người Điền; Hoa văn người lông chim; Hoa văn người mặc 
áo dài.
Viện Khảo cổ học Việt Nam
Email: haonv39@gmail.com
Ngày nhận bài: 22/2/2019
Ngày phản biện: 28/2/2019
Ngày duyệt đăng: 6/3/2019
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/272
Năm 1893 – 1894, tại xã Như Trác bên bờ hữu 
ngạn sông Hồng, trong quá trình đập đất đắp đê sông 
Hồng, phát hiện chiếc trống đồng ở độ sâu 2m. Khi 
phát hiện, trống đặt ngửa, trên đậy một chiếc nắp 
thạp, thứ đặt trong lòng trống đã bị tiêu hủy. Những 
hiện vật phát hiện được cúng tiến vào đình làng Ngọc 
Lũ, cách nơi phát hiện về phía Tây Nam khoảng 
30km. Trống đã được đặt tên trống Ngọc Lũ, tàng trữ 
tại Bảo tàng lịch sử Quốc gia tại Hà Nội.
Trống Ngọc Lũ là một chiếc trống lớn, trang 
trí đẹp, hoa văn tinh mỹ, vẻ đẹp của trống khiến 
nhiều người trong và ngoài nước quan tâm và 
ngưỡng mộ. 
Năm 1992, trong “Hội thảo quốc tế lần thứ hai 
về văn hóa đồ đồng và trống đồng cổ ở Đông Nam 
Á” họp tại Nam Ninh (Quảng Tây, Trung Quốc), 
học giả Trung Quốc Vương Chấn Dong đã trình bày 
tham luận: “Lược khảo trống Ngọc Lũ Việt Nam”1. 
Mở đầu, học giả Vương đã điểm lại quan điểm của 
một số học giả phương Tây và Việt Nam Khi nói 
về trống Ngọc Lũ Việt Nam, học giả Vương cho 
1. Vương Chấn Dong, lược khảo trống Ngọc Lũ ở Việt Nam, trong 
kỷ yếu của hội thảo: “Hội thảo quốc tế lần thứ hai về văn hóa đồ 
đồng và trống đồng cổ ở Nam Trung Quốc và Đông Nam Á”.
rằng: “Về tạo dáng, trống Ngọc Lũ có một số đặc 
trưng của trống loại I và II, là loại trống có hình thái 
trung gian, do vậy có học giả đã xếp trống Ngọc Lũ 
vào kiểu dáng Lãnh Thủy Xung, có người xếp vào 
trống Thạch Trại Sơn. Cùng với loại trống Ngọc 
Lũ còn có trống Phú Xuyên, trống Phú Duy, trống 
Hoàng Hạ và trống sông Đà”2
Theo học giả Vương: “Trống đồng không chỉ là 
một nhạc cụ, mà còn là đồ tế lễ, có tuổi thọ dài, biến 
đổi về hình thái chậm hơn so với đồ gốm; so với 
hoa văn trang trí, biến đổi về hình thái càng chậm. 
Các loại trống trung gian, như trống Ngọc Lũ, trống 
Sông Đà, là một biến thể địa phương, sinh ra dưới 
ảnh hưởng của trống loại I và II, do vậy niên đại của 
nó muộn hơn trống loại I và II”3
Về hoa văn trang trí trên trống Ngọc Lũ: “Chủ yếu 
là đồ án người lông chim múa đi theo đường tròn, thứ 
đến là hoa văn hình chim bay, bố trí xen kẽ là những 
dải hoa văn hình học”4. Về nguồn cội của hoa văn đó, 
học giả Vương cho rằng: Họa tiết hoa văn trên trống 
Ngọc Lũ phần nhiều kế thừa từ một đồ vật mà các 
2. Vương Chấn Dong, tldd.
3. Vương Chấn Dong, tldd.
4. Vương Chấn Dong, tldd.
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
103Volume 8, Issue 1
nhà khảo cổ học Trung Quốc gọi là “chiêng”, một 
thứ nhạc cụ chôn trong mộ số 12 ở Thạch Trại Sơn, 
và kế thừa từ những chiếc thạp chôn trong mộ vua 
Nam Việt ở Quảng Châu (Trung Quốc).
Về những hiện vật ít ỏi mà học giả Vương đã đề 
cập đến: Hiện vật được gọi là chiêng, có hình nón, 
trên mép có đôi quai đối diện với nhau, rõ ràng 
nó không phải là một nhạc cụ, mà là một chiếc nắp 
thạp – một loại hiện vật của văn hóa Đông Sơn, 
được người Điền chế tạo phỏng theo thạp đồng của 
văn hóa Đông Sơn. Dải hoa văn người lông chim 
múa hát là hình ảnh của người Lạc Việt, dẫn đầu tập 
thể lại là người mặc váy dài, lưng đeo kiếm dài 
lại là hình ảnh của người Điền. Rõ ràng hình ảnh 
này đã thể hiện quan hệ nào đó giữa người Lạc Việt 
và người Điền
Còn những chiếc thạp đồng trong mộ vua Nam 
Việt, chúng không phải là sản phẩm bản địa, không 
phải là sản phẩm của văn hóa Điền, mà chúng là 
sản phẩm của văn hóa Đông Sơn, vì hoa văn trang 
trí trên đó là hoa văn của văn hóa Đông Sơn. Chúng 
đã được quan chức địa phương ở Giao Chỉ, Cửu 
Châu dùng để chứa đồ lễ đưa đến phúng viếng vua 
qua đời, trên miệng của một số chiếc vẫn còn niêm 
phong.
Do vậy, nói hoa văn trên trống Ngọc Lũ giống 
với hoa văn trên những hiện vật này vì chúng cùng 
thuộc văn hóa Đông Sơn, do người thợ Đông Sơn 
chế tạo, hoặc do người thợ Điền phỏng theo hiện 
vật của văn hóa Đông Sơn, giữa chúng không có 
chuyện kế thừa nào cả!
Còn luận điểm nữa trong phát biểu của học giả 
Vương: “Trống đồng là một loại trọng khí (vật quan 
trọng) tượng trưng cho địa vị và quyền thế trong xã 
hội của các dân tộc cổ phương Nam”. Có thể giải 
thích như sau, trong đồ tùy táng của vua Điền (mộ 
số 6 ở Thạch Trại Sơn) có 2 hiện vật: Một mang 
số 120 và một mang số 2. Mà ở trang 6 cuốn sách 
“Trống đồng cổ Trung Quốc”5, những người nghiên 
cứu trống đồng của cuốn sách cho đó là hai chiếc 
thùng đựng vỏ ốc tiền hình trống đồng. Đến trang 
46, chúng lại được dịch là hai chiếc trống thuộc giai 
đoạn muộn của trống Thạch Trại Sơn. Còn theo 
miêu tả của chúng, thì chiếc mang số 120, giữa mặt 
không có trang trí hoa văn mặt trời như trên trống 
đồng, trên dải hoa văn phía ngoài lại nổi lên một 
đoạn ống tròn nhỏ; Còn hiện vật số 2, do vỡ nát 
không có miêu tả gì nhiều. Như vậy, hiện vật số 120 
không phải là thùng đựng vỏ ốc hình trống, mà cũng 
không phải là trống đồng. Rất có thể là một cái đế 
hình trống để đặt tượng, một loại di vật cũng thường 
gặp trong đồ tùy táng của người Điền. Như vậy, 
trong đồ tùy táng của vua, có thể không có trống 
5. Hội Nghiên cứu trống đồng cổ Trung Quốc (1988), Trống đồng cổ 
Trung Quốc, Nxb. Văn Vật.
đồng chôn theo. Đối với người Điền, trống đồng 
không hẳn là một “trọng khí” như học giả nêu ra.
Trước khi kết thúc bản tham luận, học giả Vương 
nói về tộc thuộc của trống Ngọc Lũ và cho rằng: 
“Người Lạc (Lạc Việt) là một chi trong nhóm tộc 
Bộc – Liêu. Từ Lạc, Liêu, Lào, Lộ âm cổ rất gần 
nhau, chẳng qua do chữ Hán ghi lại không giống 
nhau”6. Dựa trên hoa văn trang trí trên một số hiện 
vật đã phát hiện ở vùng Bắc bộ Việt Nam, cũng như 
ở khu vực Điền Trì (Vân Nam, Trung Quốc), học 
giả Vương đi đến khẳng định: “Điều đó đã chứng 
minh một cách rõ ràng, người Lạc ở lưu vực sông 
Hồng cổ đại và người Điền, người Câu Đinh, người 
Dạ Lang có nhiều điểm giống nhau về phong tục 
tập quán và tâm lý ý thức, vì họ đều thuộc nhóm tộc 
Bộc Liêu”. Sự thật lịch sử phải chăng là như vậy?
Học giả có nói: “Đến thời kỳ chiến quốc Tần 
Hán, tức là thời kỳ văn hóa Đông Sơn, ở Bắc bộ 
Việt Nam đột nhiên xuất hiện rất nhiều đồ đồng, đồ 
sắt kiểu Trung Quốc như qua, kiếm, chuông, trống, 
chậu, bình, đến cả đồ trang sức, chúng rất gần 
với đồ vật cùng loại phát hiện trong văn hóa Điền. 
Nếu vận dụng nguyên lý và phương pháp của khảo 
cổ học để khảo sát những hiện vật này, chúng ta 
hoàn toàn có thể coi những hiện vật này thuộc văn 
hóa Bộc Liêu của loại hình sông Hồng. Hiện tượng 
khảo cổ đó không thể xóa mờ đi được, nó nói lên 
một điều, trong nhóm dân tộc Bộc Liêu có một số 
chi hệ, ở thời kỳ Tần Hán đã kết hợp với dân bản địa 
sáng tạo ra văn hóa Đông Sơn rực rỡ. Trống đồng là 
một di vật điển hình của văn hóa Bộc Liêu, đã cùng 
dân tộc Bộc Liêu đến lưu vực Hồng Hà và trở thành 
di vật điển hình của văn hóa Đông Sơn”7.
Quan điểm đó xuyên suốt bài tham luận của học 
giả khiến giới nghiên cứu trống đồng Việt Nam khó 
có thể đồng tình vì học giả Vương Chấn Dong đã 
có cái nhìn lệch lạc, áp đặt cho những phát hiện 
khảo cổ học ở những khu vực nói trên. Để cùng 
học giả Vương Chấn Dong thảo luận về vấn đề này, 
chúng tôi muốn đi ngay vào những sưu tập di vật đã 
phát hiện trong khu mộ của người Điền ở Điền Trì, 
Thạch Trại Sơn (Vân Nam, Trung Quốc). 
Theo nhà khảo cổ học Trung Quốc Trương Tăng 
Kỳ, người đã từng tham gia khai quật khu mộ người 
Điền ở Thạch Trại Sơn: “Trong mộ táng khu vực 
Điền Trì tìm được tương đối nhiều trống đồng (trong 
10 năm từ 1955 – 1966, trong 10 (trong số 50) ngôi 
mộ có chôn theo trống đồng đã phát hiện 19 chiếc 
trống và trên 40 đồ vật có liên quan mật thiết đến 
trống đồng), trên mặt trống phần lớn trang trí hoa 
văn hình mặt trời và hoa văn chim bay; ở tang và 
lưng trống có hoa văn bơi thuyền của “người lông 
chim” và hoa văn hình trâu bò Loại trống này chế 
tạo đẹp, hoa văn nhiều Trong văn hóa Đông Sơn 
6. Vương Chấn Dong, tldd.
7. Vương Chấn Dong, tldd. 
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
104 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
cũng có loại trống tương tự, hình dáng và hoa văn 
cũng giống như những trống tìm được ở Thạch Trại 
Sơn”8. Như vậy, nhận xét của hai nhà nghiên cứu 
Trương Tăng Kỳ và Vương Chấn Dong là đúng, 
nhưng không đủ!
Trong số trống đồng phát hiện ở Thạch Trại Sơn, 
đa số trống trang trí hoa văn “người lông chim”, còn 
khoảng 2 – 3 chiếc, hoa văn tả thực trang trí trên 
trống không phải là “người lông chim” mà là người 
mặc áo dài, có hoa văn kẻ sọc, có đai lưng là hình 
ảnh của người Điền, dân tộc chủ thể của nước Điền.
Trong văn hóa Đông Sơn, hoa văn “người lông 
chim” không chỉ trang trí trên trống đồng, mà nhiều 
hiện vật khác cũng trang trí loại hoa văn này như 
thạp, thố, chậu, rìu, hộ tâm phiến Hiện vật phát 
hiện trong mộ của người Điền, chỉ có một số trống 
đồng, cũng như những hiện vật chế tạo phỏng theo 
hiện vật của hoa văn Đông Sơn mới có trang trí loại 
hoa văn “người lông chim”. Hoa văn người mặc áo 
dài không chỉ trang trí trên một số ít trống đồng, 
cũng như trên hiện vật điển hình của văn hóa Điền, 
như trên chiếc thùng đựng vỏ ốc biển số 205 trong 
mộ 12 ở Thạch Trại Sơn Vì hoa văn “người lông 
chim” là hoa văn của văn hóa Đông Sơn, là tiêu chí 
của người Lạc Việt, còn hoa văn người mặc áo dài 
là hoa văn của văn hóa Điền, là tiêu chí của người 
Điền. Cơ sở của hoa văn trang trí trên đồ gốm, đồ 
đồng của một văn hóa khảo cổ là sự tái hiện tiêu 
chí của tộc thuộc, của dân tộc đã sáng tạo ra chúng.
Điều đó còn được thể hiện rõ trong những phát 
hiện ở Thạch Trại Sơn, không ít trường hợp còn lại 
dấu tích hai loại hoa văn: Hoa văn người mặc áo 
dài và hoa văn “người lông chim” bài xích lẫn 
nhau, điển hình nhất là trường hợp trên trống số 3 
mộ 13 ở Thạch Trại Sơn. Hoa văn người lông chim 
vốn là hoa văn trang trí trên trống, đã bị xóa chỉ 
còn lại vết tích. Sau đó, hoa văn người mặc áo dài 
khắc đè lên. Hình ảnh về con người trong loại hoa 
văn khắc sau là hình ảnh của người Điền, tay cầm 
qua đồng, một loại vũ khí của văn hóa Điền. Những 
con vật khắc đè lên là con vật sống trong vùng rừng 
núi, nơi người Điền sinh sống, những hoạt động 
mà người áo dài thực hiện là hoạt động của người 
Điền; người Điền là người sử dụng chiếc trống 
Đông Sơn, đã thực hiện động tác này.
Những hiện vật trên đó trang trí hoa văn “người 
lông chim” hoặc hoa văn người mặc áo dài không 
phụ thuộc vào địa điểm phát hiện, vào di tích phát 
hiện di vật đó, nó vẫn là hiện vật của văn hóa Đông 
Sơn hoặc của văn hóa Điền.
Ngoài khu vực phân bố của văn hóa Đông Sơn, 
vùng châu thổ sông Hồng, hiện vật của văn hóa 
Đông Sơn nói chung, trống Đông Sơn nói riêng đã 
8. Trương Tăng Kỳ (1997), Nước Điền và văn hóa Điền, Nxb. Mỹ 
thuật Vân Nam.
phát hiện ở Vân Nam, đặc biệt là khu vực Điền Trì, 
ở Quảng Châu, ở Quảng Tây Như chiếc trống 
mang số “Thổ 1011” phát hiện trong mộ Tây Hán 
số 8 ở Quý Huyện (Quảng Tây). Các nhà nghiên 
cứu trống đồng Trung Quốc, tác giả cuốn “Trống 
đồng cổ Trung Quốc” đã xếp chiếc trống này vào 
giai đoạn muộn của trống Thạch Trại Sơn. Trên mặt 
trống, giữa mặt là hoa văn hình mặt trời 8 tia, giữa 
các tia là hình lông chim; từ dải hoa văn số 2 đến số 
4, từ dải hoa văn số 6 đến số 8 là hoa văn hình răng 
lược (gồm những đoạn vạch ngắn song song với 
nhau), kẹp giữa là hoa văn đường tròn, dải hoa văn 
chính trên mặt trống là dải hoa văn gồm 4 con chim 
bay Rõ ràng, chiếc trống này là trống Đông Sơn, 
không phải là trống của người Điền. GS. Vạn Phụ 
Bân cùng đồng nghiệp ở Viện Dân tộc học (Trung 
Quốc) đã phân tích đồng vị chì của chiếc trống, 
kết quả xét nghiệm đã chứng minh chiếc trống này 
được chế tạo tại khu vực phân bố của văn hóa Đông 
Sơn ở Bắc Việt Nam9. Ngôi mộ Tây Hán số 8, ngôi 
mộ đã phát hiện chiếc trống “Thổ 1011” này là ngôi 
mộ có quy mô lớn, mộ có quách gỗ, có trên 30 đồ 
vật chôn theo gồm đồ đồng, đồ sắt cà tiền ngũ thù 
Chủ của ngôi mộ có thể là một viên quan lúc đó, đã 
từng được phái đến đất Giao Chỉ, Cửu Châu làm 
quan; Khi cáo lão về quê, chắc đã mang theo chiếc 
trống này.
Ngoài 19 chiếc trống, trong số phát hiện ở Thạch 
Trại Sơn còn có trên 40 đồ vật có liên quan mật 
thiết với trống đồng. Trong đó trống Đông Sơn bị 
người Điền cải tạo, chuyển đổi chức năng âm nhạc 
của trống thành đồ đựng sử dụng hàng ngày; trong 
đó chủ yếu là đồ đựng vỏ ốc tiền, loại đồ đựng mà 
người Điền có nhu cầu khá cao. Người Điền đã cải 
tạo trống Đông Sơn theo 2 cách:
- Mặt trống bị hủy bỏ, thay vào đó bằng một 
chiếc nắp mới, trên nắp thùng có cảnh tế lễ của 
người Điền, trong đó có cảnh tế trống đồng được 
thể hiện bằng phương pháp đúc tượng tròn.
- Mặt trống được giữ lại, giữa mặt trống đục 
thành một lỗ tròn, có đường kính khoảng 10cm để 
thả vỏ ốc biển. Trong khu mộ của người Điền ở 
Thạch Trại Sơn và Lý Gia Sơn, phát hiện 8 chiếc 
trống, trong đó có một chiếc trống minh khí bị cải 
tạo theo cách này. Cấu tạo của 8 chiếc trống đựng 
vỏ ốc theo cách này tương tự như chiếc thùng đựng 
vỏ ốc hình trống số 205 trong mộ 12 ở Thạch Trại 
Sơn. Trường hợp sau là do người Điền đúc mới, 
giữa mặt có một lỗ tròn nhỏ, hoa văn trang trí chỉ 
có hoa văn tả thực của văn hóa Điền, mà không có 
loại hoa văn hình học của trống Đông Sơn.
Tương tự như hành động ứng cử của người Điền 
đối với trống Đông Sơn, chúng ta nên nhắc đến 
9. Vạn Phụ Bân, Phòng Minh Huệ, Vi Đông Bình (2005), Tái nhận 
thức trống Đông Sơn với thuyết mới phân loại trống, Quảng Tây 
Dân tộc học báo, vol25, No6, tháng 11/năm 2003.
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
105Volume 8, Issue 1
trường hợp của Mã Viện khi vào đất Giao Chỉ đàn 
áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Lúc đó Mã Viện 
đã lấy trống đồng của người Lạc Việt làm nguyên 
liệu để đúc tượng ngựa, thứ mà Mã Viện rất thích, 
đem về dâng lên trên (Điều này ghi trong Hậu 
Hán thư – Mã Viện truyện)10.
Cách ứng xử đối với trống Đông Sơn, đối với 
trống Lạc Việt như ở đây là cách ứng xử của một 
dân tộc, của một cá nhân không phải là người của 
dân tộc đã sáng chế ra trống đồng. Đối với họ, trống 
Đông Sơn không có ý nghĩa gì lớn, mà có thể tùy 
ý sử dụng theo nhu cầu, theo ý thích của người sử 
dụng trống.
Vậy, trong số trống đồng phát hiện ở khu mộ 
người Điền ở khu vực Điền Trì, có hay không có 
trống đồng do người Điền chế tạo(?). Như trên đã 
nói, trong số trống đồng phát hiện trong mộ người 
Điền ở Thạch Trại Sơn chủ yếu là trống trang trí hoa 
văn người lông chim, trống của văn hóa Đông Sơn; 
có khoảng 2 – 3 chiếc hoa văn tả thực trang trí là hoa 
văn người mặc áo dài, hoa văn của văn hóa Điền, 
đó là trống Điền, như trống số 3 mộ 13 ở Thạch Trại 
Sơn, trống số 58 mộ số 1 ở Thạch Trại Sơn. Ở ngoài 
vùng Điền Trì, nơi mà người Điền sinh sống, ở Tứ 
Xuyên (Trung Quốc), phát hiện trống số 3 Hội Lý, 
ở Hải Dương, Việt Nam phát hiện trống Động Xá
Những chiếc trống Điền nói ở trên có một điểm 
chung là: Hình dáng trống và hoa văn hình học trang 
trí trên trống được bảo lưu, chỉ có hoa văn tả thực 
trang trí trên trống là hoa văn của văn hóa Điền. Từ 
đó chúng ta có thể khẳng định: Trống Điền là loại 
trống được phái sinh ra từ trống Đông Sơn và sự có 
mặt của trống Đông Sơn trong đời sống của người 
Điền ở khu vực Điền Trì là một tiêu đề quan trọng 
không thể thiếu để trống Điền ra đời.
Những người nghiên cứu thuộc Sở nghiên cứu 
khảo cổ Viện hàn lâm Khoa học xã hội ở Bắc Kinh, 
Trung Quốc đã phân định những ngôi mộ phát hiện 
ở Thạch Trại Sơn thành 3 nhóm mộ tiêu biểu cho 
các thời kỳ phát triển của nước Điền11
Nhóm mộ thứ nhất là nhóm mộ sớm nhất, đồ 
tùy táng trong các mộ chủ yếu là những đồ vật bản 
địa; thứ đến là nhóm mộ thứ hai, trong đồ tùy táng 
bắt đầu xuất hiện những đồ vật có nguồn gốc từ bên 
ngoài, trong đó có trống đồng; đến nhóm mộ thứ 
ba, đồ tùy táng chủ yếu là đồ ngoại lai. Trong đồ tùy 
táng có nguồn gốc từ bên ngoài, chủ yếu là đồ Hán 
đến từ Trung Nguyên Trung Quốc. Văn hóa Hán 
đã có ảnh hưởng ngày một sâu đậm đối với người 
Điền. Ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai đối với Điền 
còn có văn hóa đồng cổ phía Bắc và văn hóa Đông 
10. Tử Tùng Thạch (1939), Việt giang lưu vực nhân dân sử, Trung 
Hoa thư cục, Trung Hoa dân quốc, năm 28.
11. Sở Nghiên cứu Khảo cổ (1962), Viện hàn lâm Khoa học Trung 
Quốc: Khảo cổ của nước Trung Quốc mới, Nxb. Văn Vật.
Sơn ở phía Nam.
Sự đóng góp của văn hóa Đông Sơn, tiêu biểu 
là trống đồng đối với cuộc sống của người Điền, 
một số lượng không nhỏ trống Đông Sơn đã được 
người Điền sử dụng làm đồ đựng vỏ ốc, giải quyết 
nhu cầu của người Điền đối với loại đồ đựng này, 
đồng thời trống Đông Sơn đã khơi nguồn sản sinh 
ra trống Điền Sự đóng góp đó là rõ ràng, không 
thể phủ nhận.
Nước Điền “từ cuối Tấy Hán đề sơ kỳ Đông 
Hán dần vắng bóng trong lịch sử ở Vân Nam, đến 
sau trung kỳ Tây Hán, thì hoàn toàn biến mất”12. 
Cùng với vận mệnh của dân tộc, trống Điền trở 
thành loại trống đoản mệnh. Còn ở vùng đồng vằng 
sông Hồng, nơi sản sinh ra văn hóa Đông Sơn, trống 
đồng vẫn tồn tại và phát triển thành loại trống muộn 
sau này. Đó là sự thật lịch sử!
Trống Ngọc Lũ là loại trống có kích thước lớn 
so với hàng trăm chiếc trống đã phát hiện của văn 
hóa Đông Sơn. Âm thanh nhất là âm lượng của 
trống Ngọc Lũ, cũng như những trống cùng loại rất 
lớn, vang vọng hơn so với các trống nhỏ. Đặc điểm 
đó của trống Ngọc Lũ và những chiếc trống cùng 
loại không phải là điều ngẫu nhiên, mà nó ra đời do 
nhu cầu của cuộc sống và trong điều kiện kỹ thuật 
đúc cho phép. Để tôn vinh loại trống này, người thợ 
đúc đã trang trí trên trống nhiều loại họa tiết hoa 
văn với kỹ thuật cao. Ngày nay, trong các dàn trống 
khi biểu diễn, trong các bộ trống trong sinh hoạt âm 
nhạc thường có một chiếc trống lớn gọi là “trống 
cái” để cầm nhịp./.
12. Trương Tăng Kỳ (1997), Nước Điền và văn hóa Điền, Nxb. Mỹ 
thuật Vân Nam.
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
106 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
Tài liệu tham khảo
Vạn Phụ Bân, Phòng Minh Huệ, Vi Đông Bình 
(2003), Tái nhận thức trống Đông Sơn với 
thuyết mới phân loại trống, Quảng Tây Dân 
tộc học báo, vol25, No6, tháng 11/năm 2003.
Vương Chấn Dong (1993), Lược khảo trống 
Ngọc Lũ ở Việt Nam trong kỷ yếu của “Hội 
thảo quốc tế lần thứ hai về văn hóa đồ đồng 
và trống đồng cổ ở Nam Trung Quốc và 
Đông Nam Á”, Hội Nghiên cứu Trống đồng 
cổ biên soạn, Nxb. Dân tộc Quảng Tây.
Trương Tăng Kỳ (1997), Nước Điền và văn hóa 
Điền, Nxb. Mỹ thuật Vân Nam.
Tử Tùng Thạch (1939), Việt giang lưu vực nhân 
dân sử, Trung Hoa thư cục, Trung Hoa Dân 
quốc, năm 28;
Hội Nghiên cứu Trống đồng cổ Trung Quốc 
(1988), Trống đồng cổ Trung Quốc, Nxb. 
Văn Vật;
Sở Nghiên cứu Khảo cổ, Viện Hàn lâm Khoa 
học Trung Quốc (1962), Khảo cổ của nước 
Trung Quốc mới, Nxb. Văn Vật.
DISCUSSION ON THE VIETNAMESE NGOC LU DRUM 
A RELIC OF DONG SON CULTURE
Nguyen Van Hao
 Abstract: Up to now, bronze drums are still a research 
corner that has attracted the attention of many scholars in the 
world with many controversies about the origin, date, shape, 
pattern... that relates to ethnic culture creators of them. In 
response to the comments of Chinese scholar Wang Chan Dong 
about the origin and ethnicity of the Ngoc Lu Vietnam drum, the 
author of the paper has made plausible and complete arguments 
for scientific claims to affirm: There is no relationship between 
the Lac Viet and Dien (Chinese) people, whereas Dien drum is 
the type that was born from Dong Son drum and the presence 
of Dong Son drum in the life of Dien people in Dien Tri area is 
an important title that is indispensable to Dien drum was born. 
This shows the contribution of Dong Son culture, typically 
bronze drums to the life of Dien people. The assertion made 
after this research process is really valuable for archeology and 
contemporary history.
Keywords: Ngoc Lu drum; Dong Son culture; Dien drum; 
Dien people; Pattern of feathers people; Pattern of people 
wearing Ao dai.
Institute of Archaeology
Email: haonv39@gmail.com
Received: 22/2/2019
Revised: 28/2/2019
Accepted: 6/3/2019
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/272

File đính kèm:

  • pdfluan_ban_ve_trong_ngoc_lu_viet_nam_mot_di_vat_cua_van_hoa_do.pdf