Bàn về quá trình tự học và phương pháp tự học của sinh viên
TÓM TẮT
Tự học là hình thức học tập không thể thiếu được của sinh viên đang học tập tại các trường
đại học. Tổ chức hoạt động tự học một cách hợp lý, khoa học, có chất lượng, hiệu quả là trách
nhiệm không chỉ ở người học mà còn là sự nghiệp đào tạo của nhà trường. Bài viết dưới đây đề cập
đến nội dung của phương pháp tự học và phương pháp dạy tự học cho sinh viên, nhằm góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo.
Bạn đang xem tài liệu "Bàn về quá trình tự học và phương pháp tự học của sinh viên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bàn về quá trình tự học và phương pháp tự học của sinh viên
79 Bàn về quá trình . . . Nghiên cứu – Trao đổi BÀN VỀ QUÁ TRÌNH TỰ HỌC VÀ PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN Lê Thị Hiền* TÓM TẮT Tự học là hình thức học tập không thể thiếu được của sinh viên đang học tập tại các trường đại học. Tổ chức hoạt động tự học một cách hợp lý, khoa học, có chất lượng, hiệu quả là trách nhiệm không chỉ ở người học mà còn là sự nghiệp đào tạo của nhà trường. Bài viết dưới đây đề cập đến nội dung của phương pháp tự học và phương pháp dạy tự học cho sinh viên, nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Từ khóa: tự học, phương pháp, khoa học, chất lượng đào tạo. DISCUSSION ON SELT – STUDY PROCESS AND METHOD FOR STUDENTS ABSTRACT Self - study has become indispensable to students studying in university. Organize a reasonable, scientific and efficient quality self - study activity constitute a task not only for the learner but also the school’s cause of training. The following articles will cover the method for self – study and teaching with the aim of making contributions to enhance the training quality. Keywords: self – study, method, scientific, training quality * ThS. GV. Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương 21 Hồ Chí Minh toàn tập - tập 5, tr.273, NXB CTQG H.2000 1. Đặt vấn đề Trong lịch sử giáo dục nước ta, việc đổi mới mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục luôn được quan tâm qua từng giai đoạn phát triển. Để đạt được mục tiêu giáo dục đòi hỏi người dạy – người học phải hợp tác với nhau, trong đó người học phải có phương pháp suy nghĩ, suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề đúng đắn để tiếp thu kiến thức đã học. Muốn vậy, người học phải tích cực, chủ động, độc lập suy nghĩ, phải có cách học tập hợp lí. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Về cách học phải lấy tự học làm cốt”21. Để đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi chúng ta phải đầu tư cho giáo dục, xem “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Ngành giáo dục phải không ngừng nâng cao chất lượng để thực hiện mục tiêu chiến lược nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Chất lượng giáo dục phụ thuộc vào quá trình dạy học – hoạt động dạy của thầy 80 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät và hoạt động học của trò. Trong quá trình đó, dưới sự lãnh đạo của tổ chức, điều khiển của thầy và trò, thầy và trò tự giác, chủ động tích cực tự tổ chức quá trình nhận thức nhằm thực hiện các nhiệm vụ học tập. Trong thư gửi Hội thảo khoa học nghiên cứu và tự học, nguyên Tổng Bí thư Trung ương Đảng Đỗ Mười có viết: “Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng lên khi tạo ra được năng lực sáng tạo của người học, khi biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Qui mô giáo dục được mở rộng khi có phong trào toàn dân tự học”. Tự học là con đường tốt nhất giúp cho người học, mỗi sinh viên hiểu biết sâu sắc và làm phong phú thêm kiến thức của mình, giúp họ sáng tạo ra những giá trị để góp phần xây dựng cuộc sống. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã khẳng định: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học phát triển mạnh mẽ phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên”. Luật giáo dục (2005) nêu rõ: Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và y chí vươn lên. Trên tinh thần ấy, rõ ràng Đảng ta đã coi tự học, tự đào tạo là vấn đề mấu chốt có vị trí cực kì quan trọng trong chiến lược giáo dục - đào tạo của đất nước. Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi muốn tập trung đề cập những vấn đề liên quan đến khái niệm tự học, nội dung hoạt động tự học, các hình thức dạy tự học, đặc biệt là quan tâm đến các biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho sinh viên. Để từ đó thúc đẩy quá trình rèn luyện kĩ năng tự học cho sinh viên, góp phần vào công cuộc đổi mới phương pháp dạy học, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. 2. Khái niệm tự học Trong tập bài giảng chuyên đề Dạy tự học cho SV trong các nhà trường Trung học chuyên nghiệp và Cao đẳng, Đại học GS – TSKH Thái Duy Tuyên viết: “Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp)cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học”. Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/ 1998 cũng bàn về khái niệm tự học: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự đặt mình vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lý các tình huống, giải quyết các vấn đề, thử nghiệm các giải phápTự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học”. Từ các quan niệm trên đây có thể nhận thấy rằng: Tự học là quá trình tự thân chiếm lĩnh những tri thức, tự trau dồi kỹ năng, tự bồi dưỡng tâm hồn của mình ở mọi lúc, mọi nơi. 3. Vai trò của tự học 3.1 Tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức rõ ý nghĩa của phương pháp dạy tự học. Trong quá trình hoạt động dạy học giảng viên không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những tri thức có sẵn, chỉ cần yêu cầu sinh viên ghi nhớ mà quan trọng hơn là phải định hướng, tổ chức cho sinh viên tự mình khám phá ra những qui 81 Bàn về quá trình . . . luật, thuộc tính mới của các vấn đề khoa học, giúp sinh viên không chỉ nắm bắt được tri thức mà còn biết cách tìm đến những tri thức ấy. 3.2. Bồi dưỡng năng lực tự học là phương pháp tốt nhất để tạo ra động lực mạnh mẽ cho quá trình học tập Một trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân là tính tích cực, sự chủ động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh.Và, một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là hình thành phẩm chất đó cho người học. Bởi từ đó nền giáo dục mới mong đào tạo ra những lớp người năng động, sáng tạo, thích ứng với mọi thị trường lao động, góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực (hình thành từ năng lực tự học) như một điều kiện, kết quả của sự phát triển nhân cách thế hệ trẻ trong xã hội hiện đại. Trong đó hoạt động tự học là những biểu hiện sự gắng sức cao về nhiều mặt của từng cá nhân người học trong quá trình nhận thức thông qua sự hưng phấn tích cực. Mà hưng phấn chính là tiền đề cho mọi hứng thú trong học tập. Có hứng thú người học mới có được sự tự giác say mê tìm tòi nghiên cứu khám phá. Hứng thú là động lực dẫn tới tự giác. Tính tích cực của con người chỉ được hình thành trên cơ sở sự phối hợp ngẫu nhiên giữa hứng thú với tự giác. Nó bảo đảm cho sự định hình tính độc lập trong học tập. 3.3. Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời Học tập để khẳng định năng lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp con người thích ứng với mọi biến cố của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự học mỗi cá nhân sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với những tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả những thách thức to lớn từ môi trường nghề nghiệp. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày càng được nâng cao. Với những lý do nêu trên có thể nhận thấy, nếu xây dựng được phương pháp tự học, đặc biệt là sự tự giác, ý chí tích cực chủ động sáng tạo sẽ khơi dậy năng lực tiềm tàng, tạo ra động lực nội sinh to lớn cho người học. 4. Nội dung của quá trình tự học 4.1. Xây dựng động cơ học tập Khơi gợi hứng thú học tập để trên cơ sở đó ý thức tốt về nhu cầu học tập. Người học tự xây dựng cho mình động cơ học tập đúng đắn là việc cần làm đầu tiên. Bởi vì, thành công không bao giờ là kết quả của một quá trình ngẫu hứng tùy tiện thiếu tính toán, kể cả trong học tập lẫn nghiên cứu. Nhu cầu xã hội và thị trường lao động hiện tại đặt ra cho mỗi người những tố chất cần thiết chứ không phải là những điểm số đẹp, những chứng chỉ như vật trang sức vào đời mà không có thực lực vì động cơ học tập lệch lạc. Có động cơ học tập tốt khiến cho người ta luôn tự giác say mê, học tập với những mục tiêu cụ thể rõ ràng với một niềm vui sáng tạo bất tận. Trong rất nhiều động cơ học tập của SV, có thể khuôn tách thành hai nhóm cơ bản: - Các động cơ hứng thú nhận thức. - Các động cơ trách nhiệm trong học tập. Thông thường các động cơ hứng thú nhận thức hình thành và đến được với người học một cách tự nhiên khi bài học có nội dung mới lạ, thú vị, bất ngờ và chứa nhiều những yếu tố nghịch lý, gợi sự tò mò. Động cơ này sẽ xuất hiện thường xuyên khi giảng viên biết tăng cường tổ chức các trò chơi nhận thức, các cuộc thảo luận hay các biện pháp kích thích 82 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät tính tự giác tích cực từ người học. Động cơ nhiệm vụ và trách nhiệm thì bắt buộc người học phải liên hệ với ý thức về ý nghĩa xã hội của sự học. Giống như nghĩa vụ đối với Tổ quốc, trách nhiệm đối với gia đình, thầy cô, uy tín danh dự trước bạn bè Từ đó các em mới có ý thức kỉ luật trong học tập, nghiêm túc tự giác thực hiện mọi nhiệm vụ học tập, những yêu cầu từ giảng viên, phụ huynh, tôn trọng mọi chế định của xã hội và sự điều chỉnh của dư luận. Cả hai động cơ trên không phải là một quá trình hình thành tự phát, cũng chẳng được đem lại từ bên ngoài mà nó hình thành và phát triển một cách tự giác thầm lặng từ bên trong. Do vậy người giảng viên phải tùy đặc điểm môn học, tùy đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của đối tượng để tìm ra những biện pháp thích hợp nhằm khơi dây hứng thú học tập và năng lực tiềm tàng nơi sinh viên. Và, điều quan trọng hơn là tạo mọi điều kiện để các em tự kích thích động cơ học tập của mình. Đối với phần đông những người trẻ, việc tạm gác những thú vui, những trò giải trí hấp dẫn nhất thời để toàn tâm toàn sức cho việc học là hai điều có ranh giới vô cùng mỏng manh. Nó đòi hỏi sự quyết tâm cao và một ý chí mạnh mẽ cùng nghị lực đủ để chiến thắng chính bản thân mình. Đối với người trưởng thành, khi mục đích cuộc đời đã rõ, ý thức trách nhiệm đối với công việc đã được xác định và sự học đã trở thành niềm vui thì việc xác định động cơ thái độ học tập nói chung không khó khăn như thế hệ trẻ. Tuy nhiên không phải là hoàn toàn không có. Vì suy cho cùng ai cũng có những nhu cầu riêng và từ đó có những hứng thú khác nhau. Vấn đề là phải biết kết hợp biện chứng giữa nội sinh và ngoại sinh, tức là hứng thú nhận thức, hứng thú trách nhiệm được đánh thức, khơi dậy trên cơ sở những điều kiện tốt từ bên ngoài. Trong đó người thầy đóng vai trò chủ đạo. 4.1.1 Xây dựng kế hoạch học tập Đối với bất kỳ ai muốn việc học thật sự có hiệu quả thì mục đích, nhiệm vụ và kế hoạch học tập phải được xây dựng cụ thể, rõ ràng. Trong đó kế hoạch phải được xác định với tính hướng đích cao. Tức là kế hoạch ngắn hạn, dài hơi thậm chí từng môn, từng phần phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời điểm từng giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình. Vấn đề kế tiếp là phải chọn đúng trọng tâm, cái gì là cốt lõi là quan trọng để ưu tiên tác động trực tiếp và dành thời gian công sức cho nó. Nếu việc học dàn trải thiếu tập trung thì chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Sau khi đã xác định được trọng tâm, phải sắp xếp các phần việc một cách hợp lý logic về cả nội dung lẫn thời gian, đặc biệt cần tập trung hoàn thành dứt điểm từng phần, từng hạng mục theo thứ tự được thể hiện chi tiết trong kế hoạch. Điều đó sẽ giúp quá trình tiến hành việc học được trôi chảy thuận lợi. 4.1.2 Tự mình nắm vững nội dung tri thức Đây là giai đoạn quyết định và chiếm nhiều thời gian công sức nhất. Khối lượng kiến thức và các kỹ năng được hình thành nhanh hay chậm, nắm bắt vấn đề nông hay sâu, rộng hay hẹp, có bề vững không tùy thuộc vào nội lực của chính bản thân người học trong bước mang tính đột phá này. Nó bao gồm các hoạt động: - Tiếp cận thông tin: Lựa chọn và chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và từ những hoạt động đã được xác định như đọc sách, nghe giảng, xem truyền hình, tra cứu từ Internet, seminar, hội thảo, làm thí nghiệm, quan sát, điều tra Trong hoạt động này rất cần có sự tỉnh táo để chọn lọc thông tin một 83 Bàn về quá trình . . . cách thông minh và linh hoạt. Xã hội hiện đại đang khiến phần lớn sinh viên rời xa sách và chỉ quan tâm đến các phương tiện nghe nhìn khác. Đơn giản vì nó thỏa mãn trí tò mò, giúp cho tai nghe, mắt thấy tức thời. Đó là chưa kể đến sự nhiễu loạn thông tin mà nếu không vững vàng thì giới trẻ sẽ rất dễ sa vào những cạm bẫy thiếu lành mạnh, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển nhân cách, tâm hồn. Trong lúc từ cổ chí kim, muốn làm chủ tri thức nhân loại thì con đường tốt nhất của mọi người là đọc sách. Đọc sách là phương pháp tự học rẻ tiền và hiệu quả nhất. Khi làm việc với sách ta phải sử dụng năng lực tổng hợp toàn diện và có sự xuất hiện của hoạt động của trí não, một hoạt động tối ưu trong quá trình tự học. Do vậy, rèn luyện thói quen đọc sách là một công việc không thể tách rời trong yêu cầu tự học. Ngoài việc tiếp nhận tri thức còn phải biết đối thoại, gợi mở, thắc mắc hay đề xuất những vấn đề cần lưu ý sau khi đọc sách, hoặc chí ít là học cách viết, lối diễn đạt từ những cuốn sách hay. Đó là cách đọc sáng tạo. Khác với sự giải trí đơn giản hay cảm nhận thông thường. - Xử lý thông tin: Việc xử lý thông tin trong quá trình tự học không bao giờ diễn ra trong vô thức mà cần có sự gia công, xử lí mới có thể sử dụng được. Quá trình này có thể được tiến hành thông qua việc phân tích, đánh giá, tóm lược, tổng hợp, so sánh - Vận dụng tri thức, thông tin: Trong việc vận dụng thông tin tri thức khoa học để giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập, thảo luận, xử lý các tình huống, viết bài thu hoạch, báo cáo khoa học, tổng thuật sinh viên thường gặp rất nhiều khó khăn. Có lúc tìm được một khối lượng lớn tư liệu nhưng việc tập hợp phân loại nội dung để kiến giải một vấn đề lại không thực hiện được. Trong trường hợp này cần khoanh vùng vấn đề trong một giới hạn đừng quá rộng. Chỉ cần tập trung đào sâu một vấn đề nào đó nhằm phát hiện ra cái mới có giá trị thực tiễn là đáp ứng yêu cầu. Trong khâu này việc lựa chọn và thay đổi hình thức tư duy để tìm ra cách thức tối ưu nhất cho đối tượng nghiên cứu cũng rất cần thiết. - Trao đổi, phổ biến thông tin: Việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin tri thức hay diễn ngôn theo yêu cầu thông qua các hình thức: hội thảo, báo cáo khoa học, thảo luận, thuyết trình, tranh luận là công việc cuối cùng của quá trình tiếp nhận tri thức. Hoạt động này giúp người học có thể hình thành và phát triển kỹ năng trình bày (bằng lời nói hay văn bản) cho người học. Giúp người học chủ động, tự tin trong giao tiếp ứng xử, phát triển năng lực hợp tác và làm việc nhóm tốt. 4.2. Tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập Việc nhìn nhận kết quả học tập được thực hiện bằng nhiều hình thức: Dùng các thang đo mức độ đáp ứng yêu cầu của GV, bản thân tự đánh giá, sự đánh giá nhận xét của tập thể thông qua thảo luận, tự đối chiếu so sánh với mục tiêu đặt ra ban đầu Tất cả đều mang một ý nghĩa tích cực, cần được quan tâm thường xuyên. Thông qua nó người học tự đối thoại để thẩm định mình, hiểu được cái gì làm được, điều gì chưa thỏa mãn nhu cầu học tập nghiên cứu để từ đó có hướng khắc phục hay phát huy. Vấn đề tự học rõ ràng không hề đơn giản. Muốn hoạt động học tập có hiệu quả nhất thiết sinh viên phải chủ động tự giác học tập bất cứ lúc nào có thể bằng chính nội lực của bản thân. Vì nội lực mới chính là nhân tố quyết định cho sự phát triển. Ngoài ra, rất cần tới vai trò của người thầy với tư cách là ngoại lực trong việc trang bị cho sinh viên một hệ thống tri thức, kỹ năng, thái độ cùng với phương pháp tự học cụ thể, khoa học. Nhờ đó hoạt 84 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät động tự học tự đào tạo của sinh viên mới đi vào chiều sâu thực chất. 5. Biện pháp thực hiện 5.1. Sinh viên cần nắm vững kiến thức của hệ thống phương pháp học tập tích cực Trong quá trình học tập, việc xác định mục đích, xây dựng động cơ, lựa chọn phương pháp, hình thức tự học hợp lý là cần thiết. Song điều quan trọng là sinh viên phải có hệ thống kỹ năng tự học. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sinh viên, bởi lẽ muốn có kỹ năng nghề nghiệp trước hết phải có kỹ năng làm việc độc lập, trên cơ sở phát huy tính tích cực nhận thức để chiếm lĩnh hệ thống tri thức. Vì tri thức là sản phẩm của hoạt động, muốn nắm vững tri thức và có tay nghề thì việc rèn luyện hệ thống kỹ năng tự học một cách thường xuyên và nghiêm túc phải được chú trọng ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Như vậy, để hoạt động học tập của sinh viên đạt chất lượng và hiệu quả, sinh viên phải có tri thức và kỹ năng tự học. Chính kỹ năng tự học là điều kiện vật chất bên trong để sinh viên biến động cơ tự học thành kết quả cụ thể và làm cho sinh viên tự tin vào bản thân mình, bồi dưỡng và phát triển hứng thú, duy trì tính tích cực nhận thức trong hoạt động tự học của họ. 5.2. Vận dụng hệ các phương pháp tự học nêu trên vào chu trình tự học của sinh viên Đó là một chu trình ba giai đoạn: Giai đoạn 1 - Tự nghiên cứu: Người học tự tìm tòi, quan sát, mô tả, giải thích, phát hiện vấn đề, định hướng, giải quyết vấn đề, tự tìm ra kiến thức mới (chỉ mới đối với người học) và tạo ra sản phẩm ban đầu hay sản phẩm thô có tính chất cá nhân. Giai đoạn 2 - Tự thể hiện: Người học tự thể hiện mình bằng văn bản, bằng lời nói, tự trình bày, bảo vệ kiến thức hay sản phẩm cá nhân ban đầu của mình, tự thể hiện qua sự đối thoại, giao tiếp với các bạn và thầy, tạo ra sản phẩm có tính chất xã hội của cộng đồng lớp học. Giai đoạn 3 - Tự kiểm tra, tự điều chỉnh: Sau khi tự thể hiện mình qua sự hợp tác trao đổi với các bạn và thầy, sau khi thầy kết luận, người học tự kiểm tra, tự đánh giá sản phẩm ban đầu của mình, tự sửa sai, tự điều chỉnh thành sản phẩm khoa học. Chu trình tự nghiên cứu → tự thể hiện→ tự kiểm tra, tự điều chỉnh “thực chất cũng là con đường” phát hiện vấn đề, định hướng giải quyết, và giải quyết vấn đề của nghiên cứu khoa học. 5.3. Rèn luyện phương pháp tự học phải trở thành một mục tiêu học tập của sinh viên Tự học có ý nghĩa to lớn đối với bản thân sinh viên để hoàn thành nhiệm vụ học tập của họ đối với chất lượng, hiệu quả của quá trình dạy học - đào tạo trong nhà trường. Tự học là sự thể hiện đầy đủ nhất vai trò chủ thể trong quá trình nhận thức của sinh viên. Trong quá trình đó, người học hoàn toàn chủ động và độc lập, tự lực tìm tòi, khám phá để lĩnh hội tri thức dưới sự chỉ đạo, điều khiển của giáo viên. Tự thể hiện (2) 85 Bàn về quá trình . . . Để phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của mình, sinh viên cần tự rèn luyện phương pháp tự học, đây không chỉ là một phương pháp nâng cao hiệu quả học tập mà là một mục tiêu quan trọng của học tập. Có như vậy thì phương pháp tự học mới thực sự là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Phương pháp tự học sẽ trở thành cốt lõi của phương pháp học tập. 6. KẾT LUẬN Hiện nay, trong các trường đại học, một bộ phận khá lớn sinh viên còn thụ động trong việc tiếp nhận tri thức. Phương pháp học tập, nhất là phương pháp tự học luôn là bài toán khó cho không ít sinh viên kể cả sinh viên năm cuối. Thế nhưng, vấn đề này vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Do áp lực của khối lượng công việc luôn quá tải nên giảng viên chỉ mãi lo thực hiện chức năng của mình mà ít quan tâm đến rèn luyện kỹ năng toàn diện trong đó tự học cho sinh viên trong đó kỹ năng tự học. Vì vậy, mỗi trường đại học hiện đại cần đưa phương pháp tự học vào mục tiêu đào tạo. Bởi lẽ, nó không chỉ cần thiết cho sinh viên khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà cả khi ra trường hòa nhập với xã hội, trong suốt cuộc đời. Khi tự học, mỗi sinh viên hoàn toàn có điều kiện để tự nghiền ngẫm những vấn đề nảy sinh trong học tập theo một phong cách riêng với những yêu cầu và điều kiện thích hợp. Điều đó không chỉ giúp bản thân sinh viên nắm được vấn đề một cách chắc chắn và bền vững; chủ động bồi dưỡng phương pháp học tập và kỹ năng vận dụng tri thức mà còn là dịp tốt để rèn luyện ý chí và năng lực hoạt động độc lập sáng tạo. Đó là những phẩm chất mà chỉ có chính bản thân sinh viên tự rèn luyện kiên trì mới có được, không một ai có thể cung cấp hay làm thay cho mình. Thực tế cũng đã chứng minh, mỗi thành công của sinh viên trên con đường học tập nghiên cứu không bao giờ là kết quả của lối học tập thụ động, đối phó, chờ thời. Từ đó, dễ nhận thấy rằng: cùng với đòi hỏi của xu thế hội nhập toàn cầu trên tất cả các lĩnh vực và với một xã hội đầy biến động như xã hội nước ta về sử dụng lao động, tiền lương, sự đãi ngộ và quá trình đào tạo ngày càng đi vào chiều sâu thực chất thì hoạt động dạy học, đặc biệt là dạy cách học chắc chắn sẽ tìm được sự đồng thuận cao của cộng đồng và là mảnh đất tốt cho bất kỳ ai có khát vọng học tập suốt đời. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng, 2004, Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai vấn đề và giải pháp, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [2] Lưu Xuân Mới, 2001, Phương pháp dạy học đại học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. [3] Nguyễn Nghĩa Dán, Vì năng lực tự học sáng tạo của học sinh, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 2/ 1998. [4] Trần Bá Hoành, Vị trí của tự học tự đào tạo trong quá trình dạy học giáo dục và đào tạo, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số tháng 7/1998. [5] Đặng Vũ Hoạt, Một số nét về thực trạng, phương pháp dạy học đại học, Tạp chí “Nghiên cứu Giáo dục”, số 1/ 1994. [6] Phạm Trọng Luận, Về khái niệm “Học sinh là trung tâm”, Tạp chí “Nghiên cứu Giáo dục”, số 2/ 1995. [7] Thái Duy Tuyên, Giáo dục học hiện đại - Những vấn đề cơ bản, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.
File đính kèm:
- ban_ve_qua_trinh_tu_hoc_va_phuong_phap_tu_hoc_cua_sinh_vien.pdf