Các phương pháp gây mê gây tê – triệu chứng gây mê và các biến chứng gây mê gây tê

Sự phát triển của phẫu thuật hiện đại không chỉ bị cản trở bởi sự thiếu hiểu biết về

quá trình bệnh lý, giải phẫu, về nhiễm trùng ngoại khoa mà còn do thiếu kỹ thuật

gây mê hồi sức an toàn và đáng tin cậy. Từ trước tới nay, gây mê đã phát triênr từ

thuốc mê hô hấp đến thuốc tê –> gây tê tại chỗ –> gây tê vùng và cuối cùng là gây

mê tĩnh mạch.

Để đảm bảo cho vô cảm cho người bệnh, người ta phải tiến hành các phương pháp

gây mê hoặc gây tê.

Gây mê là phương pháp điều trị đặc biệt, nó làm cho bệnh nhân ngủ, không gây

đau, không lo sợ, không nhớ gì về cuộc mổ, cũng như không có các phản ứng thần

kinh nội tiết trong mổ và không độc –> đáp ứng với yêu cầu của cuộc mổ, sau mổ

hồi tỉnh nhanh và các chức năng sống cũng phục hồi nhanh và đảm bảo. Đó cũng

chính là yêu cầu của cuộc gây mê.

pdf 57 trang yennguyen 2440
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Các phương pháp gây mê gây tê – triệu chứng gây mê và các biến chứng gây mê gây tê", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các phương pháp gây mê gây tê – triệu chứng gây mê và các biến chứng gây mê gây tê

Các phương pháp gây mê gây tê – triệu chứng gây mê và các biến chứng gây mê gây tê
Các phương pháp gây mê gây tê – triệu chứng gây 
mê và các biến chứng gây mê gây tê 
1.KHÀI NIỆM VỀ GÂY MÊ HỒI SỨC 
Sự phát triển của phẫu thuật hiện đại không chỉ bị cản trở bởi sự thiếu hiểu biết về 
quá trình bệnh lý, giải phẫu, về nhiễm trùng ngoại khoa mà còn do thiếu kỹ thuật 
gây mê hồi sức an toàn và đáng tin cậy. Từ trước tới nay, gây mê đã phát triênr từ 
thuốc mê hô hấp đến thuốc tê –> gây tê tại chỗ –> gây tê vùng và cuối cùng là gây 
mê tĩnh mạch. 
Để đảm bảo cho vô cảm cho người bệnh, người ta phải tiến hành các phương pháp 
gây mê hoặc gây tê. 
Gây mê là phương pháp điều trị đặc biệt, nó làm cho bệnh nhân ngủ, không gây 
đau, không lo sợ, không nhớ gì về cuộc mổ, cũng như không có các phản ứng thần 
kinh nội tiết trong mổ và không độc –> đáp ứng với yêu cầu của cuộc mổ, sau mổ 
hồi tỉnh nhanh và các chức năng sống cũng phục hồi nhanh và đảm bảo. Đó cũng 
chính là yêu cầu của cuộc gây mê. 
Muốn làm được như vậy người gây mê hồi sức phải hiểu được các quá trình sinh 
lý, sinh lý bệnh, giải phẫu, quá trình bệnh lý ngoại khoa nói chung, các bệnh lý 
chuyên khoa kèm theo, dược lý học và các kỹ thuật gây mê, hồi sức và điều trị 
bệnh ngay cả trước, trong và sau khi phẫu thuật. 
2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA GÂY MÊ HỒI SỨC NGÀY NAY 
Năm 1996, trong một cuốn sách về thông tin của Uỷ ban gây mê học Mỹ(the 
American Board of Anesthesiology) đã định nghĩa gây mê học là việc giải quyết 
sự hành nghề y học không bị giới hạn đó là: 
Đánh giá, hội chẩn và chuẩn bị bệnh nhân để gây mê. 
Chuẩn bị đầy đủ về vô cảm đối với đau trong các thủ thuật mổ xẻ, sản khoa, đìêu 
trị và chẩn đoán, cũng như chăm sóc các bệnh nhân bị các tác động như vậy. 
Theo dõi và phục hồi sự ổn định nội môi trong suốt thời kỳ phẫu thuật, cũng như 
sự ổn định nội môi trong những chấn thương và bệnh hiểm nghèo(hoặc nói cách 
khác là những bệnh nhân nặng) Chẩn đoán và điều trị những hội chứng đau. 
Quản lý về lâm sàng và giảng dạy và đánh giá sự thực hiện của các nhân viên y tế 
và lâm sàng trong gây mê, hồi sức ho hấp và hồi sức tăng cường. 
Chỉ đạo hướng dẫn việc nghiên cứu khoa học ở mức khoa học cơ bản và lâm sàng 
để giải thích và cải thiện việc chăm sóc bệnh nhân. 
Phối hợp về hành chính trong bệnh viện, các trường y và các cơ sở bệnh nhân 
thăm ngoại trú cần thiết cho sự thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ này. 
3.CÁC PHƯƠNG PHÁP GÂY MÊ 
Ngày nay, gây mê hồi sức đã phát triển thành một ngành hoàn chỉnh, nên không 
thể thoả mãn các kiến thức về gây mê hồi sức cho học viên trong một vài giờ. Vì 
vậy, chúng tôi chọn một vấn đề mà trong thực tế các bác sỹ “không chuyên khoa” 
cần biết. Vấn đề cấc phương pháp gây mê, ở đây chúng tôi đề cập một cách khái 
quát không đi vào lý luận cũng như chi tiết kỹ thuật, bởi vì một thực tế hàng ngày 
là các thầy thuốc sẽ khó phân biệt từng trường hợp vì các nhà gây mê hồi sức 
thường phối hợp các phương pháp trong gây mê như: gây mê hô hấp+gây mê tĩnh 
mạch, gây mê mask hở, hệ thống ½ hở, ½ kín lại có cả gây mê vòng kín, gây 
mê+gây tê 
Ví dụ: 
Nếu gây mê băng Ete đơn thuần thì phải chờ đến giai đoạn III3 thì cơ bụng mới 
giãn hết để mổ bụng, với phương pháp gây mê phối hợp có thuốc giãn cơ người ta 
có thể gây mê nông hơn( ở giai đoạn III1). 
Gây mê bằng Ete đơn thuần đặc biệt khi bệnh nhân ngừng thở( giai đoạn III4) là 
nguy hiểm đã sang thời kỳ nhiễm độc, nhưng phương pháp gay mê phối hợp người 
ta dùng hô hấp chỉ huy cho bệnh nhân trong quá trình mê thì cũng chỉ cần ở giai 
đoạn III1. 
Mặt khác, khi gây mê đơn thuần đến lúc huyết áp hạ cũng là sang thời kỳ nhiễm 
độc. Với phương pháp gây mê phối hợp người ta có thể hạ huyết áp chỉ huy bằng 
thuốc mà vẫn giữ cho bệnh nhân không nguy hiểm, đỡ chảy máu khi mổ, đến cuối 
cuộc mê người ta lại nâng huyết áp bệnh nhân lên-mà điều đó không phải là dấu 
hiệu ngộ độc thuốc. 
3.1 Phân loại phương pháp gây mê theo đường vào của thuốc 
3.1.1. Phuơng pháp gây mê hô hấp. 
Phương pháp này thường dùng với các thuốc mê thể khí(N2O, Cyclopropan) hoặc 
thuốc mê bốc hơi (Ete, cloroform, Halothane, Isofluran,). Các thuốc mê này 
qua đường hô hấp( do bệnh nhân tự hít hoặc đưa vào qua máy gây mê) rồi mới 
khuyếch tán vào máu tới thần kinh trung ương để làm mê. Phần lớn thộc mê hô 
hấp bị thải trừ theo đường hô hấp, một phần nhỏ trải qua thoái biến sinh học ở gan 
và thải theo đường nước tiểu. 
Nồng độ để gây mê tuỳ thuộc từng loại thuốc. Ví dụ: Ete cần đậm đọ5%, 
Halothane 0.75÷3%. Với các thuốc gây mê mạnh ta có thể điều khiển mê dễ dàng 
bằng cách thay đổi nồng độ. 
Với phương pháp gây mê này ngày nay người ta thường gây mê nội khí quản nên 
có thể nắm chắc được đường hô hấp của bệnh nhân để hô hấp chỉ huy và có thể 
kéo dài cuộc mê nên tạo điều kiện cho các phẫu thuật kéo dài. 
Tuy nhiên, phương pháp này có một số nhược điểm là: 
Một số thuốc có thể gây cháy nổ khi có tia lửa điện và oxy. 
Thuốc mê bay ra ngoài gây lãng phí, nhiễm độc cho nhân viên y tế. 
Ở một số bệnh nhân có bệnh đường hô hấp thì tác dụng của thuốc bị hạn chế, có 
thuôc gây tăng tiết đờm dãi(Ete) 
3.1.2. Phương pháp gây mê tĩnh mạch: 
Phương pháp này thường dùng với các thuốc gây mê và các thuốc phối hợp như 
thuốc gây giãn cơ, thuốc giảm đau. 
Người ta có thể gây mê tĩnh mạch đơn thuần, gây mê tĩnh mạch+giãn cơ và hô hấp 
chỉ huy hoặc gây mê tĩnh mạch phối hợp với gây mê hô hấp, tuỳ theo yêu cầu điều 
trị. 
Ví dụ: 
Nếu cuộc mổ ngắn, không đòi hỏi giãn cơ, không vào các cơ quan nguy hiểm 
người ta có thể dùng. 
Khởi mê bằng Thiopental 5mg/kg( hoặc Kêtamin 2mg/kg). 
Phối hợp các thuốc giảm đau họ morphin hoặc các thuốc Neurolep tanalgesie. 
Phương pháp này có những ưu điểm: 
Phương tiện cần dùng ít. 
Không gây cháy nổ. 
Không gây đọc cho người xung quanh. 
Nhưng cũng có một số nhược điểm: 
Bệnh nhân tự thở nếu không có kinh nghiệm sẽ để bệnh nhân thiếu O2. 
Giãn cơ không đủ. 
Chú ý: 
Hiện nay, người ta không dùng gây mê tĩnh mạch đơn thuần bằng Thiopental để 
mổ vì Thiopental không có tác dụng giảm đau. 
Trong trường hợp cần giãn cơ thì người ta gây mê tĩnh mạch +thuốc giãn cơ, đặt 
nội khí quản +hô hấp chỉ huy. 
3.1.3. Phương pháp gây mê trực tràng: 
Hiện nay, ít dùng vì không hơn gì các phương pháp khác. Trừ một số trường hợp 
đặc biệt người ta dùng làm gây mê cơ sở cho trẻ em. 
3.2. Phân loại gây mê theo phương pháp loại trừ khí CO2 trong khi thở ra của 
bệnh nhân 
Trong quá trình gây mê-hồi sưc việc ứ đọng quá mức CO2 trong cơ thể(ưu thán) 
và việc loại trừ quá mức CO2 gây giảm CO2 trong cơ thể(nhược thán) đều ảnh 
hưởng không tốt cho chức năng sống của bệnh nhân. Sự trao đổi CO2 ảnh hưởng 
trực tiếp đến hoạt động của tim, phổi, não, thận  
Trong gây mê có rất nhiều nguyên nhân đưa đến sự thay đổi CO2 trong máu bệnh 
nhân đó là do cấu tạo của máy mê, kỹ thuật sử dụng và kinh nghiệm của người gây 
mê. 
Dựa theo khả năng loại trừ CO2 mà người ta đưa ra các phương pháp gây mê sau: 
3.2.1. Phương pháp gây mê hở hoàn toàn(phương pháp mask hở) 
Ở phương pháp này, bệnh nhân tự hít vào thuốc mê cùng với không khí qua mặt 
nạ( mask -schimmelbush)- thường dùng với các thuôc mê bốc hơi(Ete-Halothane) 
Có thể cho thêm Oxy và hỗn hợp khí thở vào bằng cách cho 1 sonde oxy vào mặt 
nạ. 
Ở phương pháp này bệnh nhân không hít lại hơi thở của mình nên không hít phải 
CO2 vì vậy không bị ứ đọng CO2 
Ưu điểm : 
Đơn giản. 
An toàn –> thích hợp trong gây mê cho trẻ em. 
Khó gây ưu thán, không có sức cản của máy thở. 
Nhược điểm: 
Mê không đều, mất nhiệt, mất độ ẩm. 
Tốn thuốc. 
Dễ gây cháy nổ. 
Độc với người xung quanh. 
3.2.2. Phương pháp nửa hở 
Phương pháp này thường dùng với van chữ T và van không hít trở lại(Ruben, 
Erumin) 
Do cấu tạo của van khi thở ra ngoài rồi bệnh nhân chỉ hít lại 1 phần rất nhỏ CO2 
trong khí thở của mình, mà người ta cho phép chấp nhận đựơc. 
3.2.3. Phương pháp ½ kín: 
Trong phương pháp này do cấu tạo của hệ thống mê nên lượng CO2 bệnh nhân hít 
trở lại có cao hơn vì vậy người ta làm một van thở ra ở gần miệng của bệnh nhân 
để khi thở ra một phần lớn hơi thở ( chủ yếu là CO2 ) đã bay ra ngoài. Tuy nhiên, 
nếu van thở ra để không đúng hoặc kỹ thuật không tốt cũng có thể gây rối loạn 
trao đổi CO2. 
3.2.4. Phương pháp gây mê kín hoàn toàn: 
Trong phương pháp này, người ta có thể dùng 2 loại máy: Máy “tới-lui” hoặc hệ 
thống vòng kín. Khi dùng hệ thống kín này người ta phải dùng kỹ thuật hấp thụ 
CO2 bằng vôi Soda. 
Ưu điểm: 
Vì là vòng kín nên thuốc không bay ra®tiết kiệm thuốc, O2. 
Giữ được nhiệt độ, độ ẩm. 
Không gây cháy nổ. 
Không độc cho người xung quanh. 
Nhược điểm: 
Dễ gây ứ đọng CO2 (nếu vôi Soda hỏng dễ nguy hiểm). 
Bụi vào đường hô hấp của bệnh nhân. 
4. TRIỆU CHỨNG HỌC GÂY MÊ BẰNG ETE ĐƠN THUẦN GUEDEL 1920 
Mặc dù ngày nay người ta hầu như không sử dụng ete đơn thuần để gây mê, và 
việc nhiều loại thuốc gây mê mới có những tính chất khác không còn điển hình 
nữa nhưng triệu chứng học gây mê bằng Ete đơn thuần của Guedel vẫn là cơ sở để 
người gây mê điều khiển cuộc mê- Theo Guedel thì triệu chứng gây mê này chia 
làm 4 thời kỳ: 
4.1 Thời kì I giảm đau: 
Thời kỳ này kéo dài khoảng 1-3 phút do thuốc bắt đầu ức chế lớp vỏ não. Các dấu 
hiệu theo dõi gần như bình thường. 
Hô hấp: Thở bụng và ngực tương đối đều. 
Đồng tử: Co vừa phải, nhãn cầu cử động tự chủ. 
Phản xạ mi mắt, giác mạc, da màng bụng (+), họng (±). 
Mạch có hơi nhanh, huyết áp tăng. 
Áp dụng: Nhổ răng, nắn sai khớp, nắn xương gẫy. 
4.2 Thời kì II: 
Thời kỳ này kéo dài hay ngắn tuỳ thuộc vào tiền mê tốt hay không tốt, kỹ thuật 
gây mê và cơ địa của bệnh nhân. 
Lúc này, vì bán cầu đại não đã bị ức chế, các trung tâm dưới vỏ thoát ức chế 
không còn được điều hoà và kiềm chế của bán cầu đại não. 
Các dấu hiệu đều rối loạn. 
Hô hấp-thở nhanh không đều. 
Đồng tử co nhỏ hơn. 
Nhãn cầu cử động tự chủ. 
Các phản xạ: Mi mắt,giác mạc, da màng bụng, họng đều(+). 
Mạch nhanh, huyết áp tăng. 
Thời kỳ này cấm không được phẫu thuật. Nói chung, cần tránh thời kỳ này, nếu 
xảy ra thi không để kéo dài. 
4.3. Thời kỳ III: thời kỳ phẫu thuật chia làm 4 giai đoạn 
4.3.1. Giai đoạn III1: Mê nông chính thức. 
Hô hấp: Thở đều đặn( thở máy). 
Đồng tử co nhỏ vừa phải, nhãn cầu cử động tự chủ. 
Phản xạ: Mi mắt, da màng bụng, họng còn (+), phản xạ giác mạc mắt(-). 
Mạch và huyết áp trở lại bình thường. 
Cơ nhai liệt làm cho hàm dưới trễ(gọi là dấu hiệu rơi hàm). 
Áp dụng: Có thể mở lồng ngực, cột sống, bướu cổ, bàng quang, nắn xương, mổ 
thoát vị. 
4.3.2. Giai đoạn III2: Mê sâu chính thức 
Thở nhanh hơn về tần số. 
Đồng tử co nhỏ đứng yên-giác mạc khô. 
Còn phản xạ mi mắt và màng bụn(các phản xạ khác mất). 
Mạch, huyết áp bình thường. 
Liệt thân cơ chi. 
Áp dùng: Có thể mổ các khớp, mổ bụng. 
4.3.3. Giai đoạn III: tiền nhiễm độc 
Hô hấp: thở nhanh nông. 
Đồng tử giãn-mất phản xạ ánh sáng. 
Nhãn cầu đứng yên kéo vào trong. 
Các phản xạ khác mất. 
Áp dụng: Có thể nội xoay thai. 
4.3.4. Giai đoạn III4: Nhiễm độc phải cấp cứu. 
Đồng tử giãn to-mất các phản xạ. 
Liệt cơ liên sườn và cơ hoành ngừng thở. 
Mạch nhanh nhỏ, huyết áp thấp. 
4.4. Thời kỳ IV: Thời kỳ nhiễm độc(liệt tuỷ) 
Liệt cơ hoành, ngừng thở. 
Mạch không bắt được, huyết áp không đo được®ngừng tim. 
Tử vong. 
5. CÁC BIẾN CHỨNG GÂY MÊ 
Từ đơn giản đến phức tạp các biến chứng của gây mê, gây tê cũng rất nguy hiểm 
nếu như không hiểu biết về chuyên ngành này, nó được các nhà gây mê hồi sức rất 
quan tâm tìm câch hiểu biết và hạn chế. 
Mặc dù rất khó đo chính xác các tai biến gây mê, nhưng người ta thấy đầu tiên là 
do các bệnh vốn có của bệnh nhân, rồi tới thủ thuật ngoại khoa và đến sự điều 
khiển gây mê. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rõ ràng ảnh hưởng nguy hiểm 
trước mổ là do các bệnh trước mổ của bệnh nhân và rồi là các thủ thuật ngoại 
khoa. 
Người ta thấy tử vong là điểm cuối cùng rõ nhất nhưng tử vong trước mổ là rất 
hiếm. Người ta cũng tiến hành hàng loạt các nghiên cứu nhằm thu được kết luận 
có ý nghĩa thống kê. Nhưng do sự lo ngại mổ pháp y nên gây cản trở việc báo cáo 
chính xác các số liệu. 
Tỷ lệ chết có thể quy chủ yếu cho gây mê là: 1-2/3000 trải qua gây mê ở những 
năm 1960, cho đến nay giảm xuống còn 1-2/200000. Tuy nhiên, tỷ lệ này có thể 
thay đổi ở những nước khác nhau, trong các điều kiện khác nhau. 
Các biến chứng gây mê có thể xảy ra trong bất kì giai đoạn nào cuộc gây mê đó là 
các giai đoạn tiền mê, khởi mê, duy trì mê, thoát mê(hồi tỉnh) và sau mổ. Ở mối 
giai đoạn có những biến chứng đặc trưng riêng. Ở đây chúng tôi chỉ nhấn mạnh 
vào các biến chứng về hô hấp và tuần hoàn đó là các chức năng sinh tồn nhậy cảm 
nhất khi gây mê. 
5.1 Giai đoạn tiền mê 
Giảm hô hấp 
Nguyên nhân: Do các thuốc gây mê có tác dụng ức chế hô hấp, nhất là các nha 
phiến. Người già và trẻ em dễ mẫn cảm với các thuốc này. 
Triệu chứng: Giảm hô hấp về tần số và biên độ. 
Xử trí: Cho thở oxy, hô hấp nhân tạo, nếu cần đặt nội khí quản, cho thuốc kích 
thích hô hấp. 
Truỵ tim mạch: 
Nguyên nhân: Hay gặp ở người mất nước, mất điện giải nặng, người bệnh thiếu 
đạm dạng kéo dài. Đặc biệt là khi tiền mê bằng các thuốc phong bế hạch thần kinh 
giao cảm(Phenothiazin) dễ truỵ tim mạch khi thay đổi tư thế. 
Triệu chứng: Mạch nhanh nhỏ, huyết áp hạ. 
Xử trí: Truyền dịch, trợ tim, thở oxy. 
Chú ý: Khi di chuyển bệnh nhân được tiền mê bằng thuốc phong bế hạch thần kinh 
phải nhẹ nhàng, luôn giữ tư thế nằm ngang. 
5.2 Giai đoạn khởi mê 
Ngừng thở: 
Nguyên nhân: Tiêm thuốc mê tĩnh mạch nồng độ cao, tiêm nhanh, do thuốc giãn 
cơ, bệnh nhân nín thở lâu do không chịu được mùi thuốc. 
Triệu chứng: Ngừng thở, có thể tím tái, truỵ tim mạch. 
Xử trí và đề phòng: Xử trí theo căn nguyên, hô hấp nhân tạo(bằng Ambu +mask, 
máy thở). 
Ngạt: 
Do tắc đường hô hấp trên bởi đờm rãi tiết nhiều, co thắt thanh, khí phế quản, tụt 
lưỡi đè vào thanh môn, nôn, máu, dị vật. 
Triệu chứng: Khó thở, tím tái. 
Xử trí: Giải quyết nguyên nhân, khai thông đường hô hấp, hô hấp hỗ trợ hoặc chỉ 
huy. 
Tụt huyết áp: Do bù dịch không đủ hoặc do tác dụng của một số thuốc mê. 
Mạch chậm, mạch nhanh. 
Ngừng tim. 
Nôn. 
Nguyên nhân: Dạ dày ứ đọng thức ăn, thường gặp khi mổ cấp cứu(tắc ruột, viêm 
phúc mạc). 
Đề phòng: Đặt sonde hút dạ dày cho tất cả các bệnh nhân mổ cấp cứu, nhất là trẻ 
em, chỉ gây mê khi bệnh nhân đã nhịn ăn quá 6 giờ, nhịn uống nước trong quá 3 
giờ. 
Xử trí: Nghiêng đầu bệnh nhân, hút sạch, rút phế quản nếu có trào ngược. 
5.3. Giai đoạn duy trì mê: 
Thiếu oxy” 
Nguyên nhân: Các nguyên nhân gây cản trở hoặc tắc đường hô hấp trên, hô hấp 
nhân tạo không tốt, vôi Sonde hỏng khi gây mê bằng hệ thống kín, gây mê bằng 
N2O 80%, oxy 20% dễ thiếu oxy. 
Triệu chứng: Tuỳ theo mức độ có thể tím tái, huyết áp tối đa và tối thiểu kẹt. 
Xử trí: Tuỳ căn nguyên, hô hấp nhân tạo tốt. 
Thừa CO2(ưu thần) 
Nguyên nhân: Như thiếu oxy. 
Triệu chứng: Huyết áp tối đa tăng, huyết áp tối thiểu giảm, mạch nhanh, mặt đỏ, 
vã mồ hôi. 
Xử trí: Giải quyết nguyên nhân, tăng thông khí để thải CO2. 
Ngừng tim 
Nguyên nhân: Nhiễm độc thuốc mê, các phản xạ hay gặp tron phẫu thuật lồng 
ngực, kích thích thần kinh X. 
Yếu tố thuận lợi: Thiếu oxy, thừa CO2. 
Triệu chứng: Mạch cổ, mạch  ... êm xanh Methylen vào đầu xương xáp thấy xanh Methylen thấm 
cả ra phần mêm và da. Người ta đã thấy rằng sau khi tiêm thường theo các tĩnh 
mạch sâu ra ngoài xương rồi đi về phía gốc chi và từ đó sẽ lan toả ra các phần 
mềm ở nông. Thời gian từ lúc tiêm đến khi thuốc ra phần mềm khoảng 3 phút. 
Phương tiện để gây tê: 
Bơm tiêm 20ml, kim gây tê trong xương dài 6 cm, đường kính 1mm,có nòng 
thông để chọc qua xương cứng. 
Garo. 
Chọn nơi đặt garo cần chú ý đặt phía trên chỗ mổ, vùng có nhiều cơ, trên cai 
xương định chọc kim. 
Chọn nơi chọc kim gây tê. 
+ Chi trên 
Lồi cầu xương cánh tay. 
Mỏm khuỷu. 
Mỏm dưới xương quay về phía mu tay. 
Mỏm dưới xương trụ. 
Đầu các xương đốt bàn tay. 
+ Chi dưới 
Lồi cầu xương đùi. 
Hai mắt cá(mắt cá ngoài hay dùng). 
Đầu trên xương chày(mâm chày trong là tốt nhất). 
Xương gót(mặt ngoài). 
Đầu xương đốt bàn thứ nhất. 
Lượng thuốc tê: Với dung dịch Visnhepski, Novacaine 0,25%. 
+ Chi trên 
Bàn và cổ tay:50-70ml. 
Cẳng tay: 80-100ml. 
Khuỷu tay: 60-80ml. 
+ Chi dưới 
Bàn và cổ chân: 70-90ml 
Đầu gối: 80-100ml 
Đùi: 150-200ml. 
Với xylocain chỉ nên dùng khoảng 5mg/kg trọn lượng cơ thể. 
Biến chứng: 
Nhiễm độc thuốc tê(do garo không chặt, tháo garo nhanh). 
Liệt chi tạm thời do garo, buốt chỗ garo. 
Chỉ định: 
Các phẫu thuật ở cách gốc chi 10cm. 
Bệnh nhân trên 5 tuổi. 
Phẫu thuật ngắn dưới 1 giờ. 
6.3.4. Gây tê tĩnh mạch: 
Về bản chất gây tê tĩnh mạch giống gây tê trong xương nhưng cần kim gây tê tĩnh 
mạch, tốt nhất luồn polyten rồi quấn garo để ép dồn máu. 
Chọn nơi đặt garo phía trên chỗ mổ về hướng gốc chi đặt garo dồn ép máu vè gốc 
chi-rồi mới đặt garo lưu trong quá trình mổ. 
Chọn tĩnh mạch ở phía ngọn chi, tiêm hoặc luồn polyten. 
Thuốc dùng: 
Dung dịch Visnhepski, Novocaine 0,25%. 
Xylocaine 0,25%, 0,5% hoặc 1%. 
Liều lượng: Tuỳ thuộc vị trí garo ví dụ với dung dịchVisnhepski. 
+ Chi trên: 
Nếu garo 1/3 giữa cánh tay: 120ml. 
1/3 giửa cẳng tay: 50÷60ml 
+ Chi dưới: 
Garo 1/3 dưới cẳng chân: 120-150ml. 
Garo 1/3 dưới đùi: 150-200ml. 
Garo 1/3 giữa đùi:200-250ml. 
+ Với Xylocaine 0,25%: 
Chi trên: 80-100ml. 
Chi dưới: 160-200ml. 
Thực tế với chi trên nếu garo 1/3 dưới cẳng tay có thể dùng dung dịch Xylocaine 
2%x20÷15ml 
Chú ý: Các tĩnh mạch có đường kính nhỏ hơn 2mm không có van, tĩnh mạch lớn 
hơn có van, khi bơm thuốc áp lực mạnh sẽ thắng được van, lúc đó bệnh nhân sẽ 
hơi choáng váng(do phản xạ). 
Biến chứng: Như gây tê trong xương. 
Chỉ định: Để mổ các chi với thời gian ngắn(1 giờ). 
Kết luận: Việc gây mê và gây tê vùng mổ đòi hỏi phải đánh giá chính xác tình 
trạng bệnh nhân để có chỉ định thích hợp. Đặc biệt cần chú ý khi bệnh nhân ở tình 
trạng sốt nặng, là người già, trẻ em và người có bệnh phối hợp. 
6.3.5. Gây tê bề mặt 
Gây tê bề mặt da : 
Gây tê bề mặt niêm mạc : 
+ Thuốc dùng: 
Xylocaine: 2%, 5%, 10%. 
Dicaine: 1%. 
Thiocaine: 1%. 
Percaine: 0,02%. 
Carcaine: 0,25-0,5%. 
Citanest : 4%. 
Cocaine: 2%. 
Dung dịch Bonin gồm: (lượng như nhau) 
Cocain 
Acid phenic. 
Metol 
+ Cách dùng: 
Dùng bông tẩm thuốc tê thấm lên bề mặt niêm mạc. 
Phun thành bụi(gây tê đặt nội khí quản). 
Nhỏ giọt(mắt). 
+ Biến chứng: Chủ yếu là ngộ độc thuốc tê. 
6.3.6 Gây tê các dây thần kinh: 
+ Thực tế là một phương pháp gây tê vùng nhưng có chọn lọc vàp từng vùng chi 
phối của các dây thần: 
+ Chi trên 
Thần kinh quay. 
Thần kinh trụ. 
+ Chi dưới 
Thần kinh đùi. 
Thần kinh hông to. 
6.3.7 Gây tê ngoài màng cứng. 
Định nghĩa: 
Gây tê ngoài màng cứng(NMC) là đưa thuốc tê vào khoang NMC làm tê các rễ 
TK tuỷ sống qua nó, từ đó gây tê các vùng ở ngoại biên phụ thuộc các dây TK 
này(vì vậy thực chất là gây tê vùng). 
Giải phẫu khoang NMC: 
Từ da vào khoang NMC phải qua các lớp: da, tổ chức dưới da, dây chằng sau gai, 
dây chằng liên gai, dây chằng vàng, khoang NMC. 
Qua mỗi lớp đều gặp sức cản khác nhau, nhất là ở da rồi đến dây chằng vàng. 
Khoang NMC nằm giữa dây chằng vàng và màng cứng từ lỗ chẩm đến khe xương 
cùng. Màng cứng tận cùng ở đốt cùng 2 nhưng khoang NMC tận cùng ở khe 
xương cùng cách đỉnh xương cụt 5 cm. 
Thể tích khoang NMC=115-275 ml(người lớn). Ở một số bệnh nhân ở lỗ chẩm 
màng cứng không đinh hoàn toàn nên khoang NMC tuỷ sống thông với khoang 
NMC trên não. 
Chuẩn bị bệnh nhân: 
Khám kỹ bệnh nhân: Cột sống, đốt sống, mạch, huyết áp(HA≤90 mmHg không 
nên gây tê NMC). 
Vệ sinh toàn thân: đặc biệt vùng lưng chỗ định chọc kim. 
Nhịn ăn, uống như các phẫu thuật khác. 
Chuẩn bị bệnh nhân về tinh thần. 
Chuẩn bị về thuốc: 
Tối hôm trước và sáng hôm mổ nên cho Gacdenal. 
Tiền tê: Atropin 0,01mg/kg cân nặng, Dimedrol 0,05mg/kg cân nặng. 
Chỉ định: 
Phẫu thuật dưới cơ hoành nhưng ngoài ổ bụng: tiết niệu, phụ khoa, đáy chậu, chi 
dưới. 
Mổ các cơ quan trong ổ bụng(chỉ tương đối). 
Phẫu thuật lồng ngực(không tốt lắm). Gây tê NMC+giãn cơ+hô hấp nhân tạo. 
Phẫu thuật đầu, cổ, chi trên(không nên làm). 
Chống chỉ định: 
Nhiễm trùng da vùng lưng. 
Nhiễm khuẩn huyết. 
Huyết áp tối đa≤90 mmHg. 
Mạch <60 lần/phút mà dùng atropin mạch không lên. 
Đang Shock(vì huyết áp còn giữ được chỉ là cơ chế tự bảo vệ). 
Dị ứng thuốc. 
Dị dạng cột sống. 
Lao cột sống. 
Có suy hô hấp. 
Không có phương tiện hô hấp nhân tao. 
Kỹ thuật 
+ Người gây mê: 
Rửa tay, mặc áo, đi găng như phẫu thuật viên. 
Tự mình kiểm tra lại các thuốc và phương tiện. 
+ Tư thế bệnh nhân: 
Nằm cong lưng tôm(đầu cúi, lưng cong, đùi gấp vào bụng, cẳng chân gấp vào đùi, 
2 tay ôm đầu gối). 
Ngồi trên bàn, để chân xuống một ghế đầu, kiểu này dễ xác định đốt sống nhưng 
dễ ngã cần có một người phụ giúp bệnh nhân. 
+ Sát trùng da: 
Cồn Iot rồi cồn trắng 700 cho sạch Iot hoặc dùng Betadin. 
+ Xác định đốt sống: 
Có 5 (mốc theo thứ tự): 
Đường nội 2 mào chậu phía lưng đi qua khe đốt l4-5(có trường hợp qua thân đốt 
L4). 
Đốt sống 12 mang xương sườn 12. 
Nếu bệnh nhân ngồi thẳng hai tay xuôi theo thân-Kẻ một đường ngang cực dưới 
hai xương bả vai ® sẽ đi ngang qua khe đốt D9-D9(T8-T9), 
Đường nối liền đầu trong của gờ xương bả vai hai bên sẽ đi ngang dưới mỏm gai 
của D3(D3-D4). 
Khi bệnh nhân ngồi đầu cúi tối đa®mỏm gai sống nhô cao nhất là C7. 
+ Chọn vị trí chọc kim:(tham khảo) 
Cắt vú: D4-D6. 
Lồng ngực: D7-D8. 
Bụng trên: D8-D9. 
Bụng dưới: D10-D11. 
Thận niệu quản: D11-D12. 
Chi dưới: L3-L4-L5. 
Bộ phận sinh dục: L1-L2. 
Tuyến tiền liệt: L2-L3. 
Đáy chậu: L3-L4. 
+ Như vậy không bao giờ lên quá D4 vì: 
Trường hợp màng cứng dính quanh lỗ chẩm không hoàn toàn –> thuốc lên não sẽ 
nguy hiểm. 
Khoang NMC ở trên hẹp –> dễ chọc vào khoang dưới nhện –> tuỷ sống. 
Thuốc tê lên cao tác động vào thần kinh hoành–> liệt hô hấp. 
+ Thực tế không đòi hỏi chính xác đến như vây vì khi bơm thuốc vào trong 
khoang liên đốt não, thuốc sẽ lan toả lên trên và xuống dưới. 
+ Chọc kim giữa: 
D4-D5 –> có thể mổ lồng ngực(trừ màng ngoài tim phải thêm thuốc tê vào màng 
tim). 
D7-D8 –> Mổ các cơ quan ở bụng trên. 
D10-L1 –> Mổ bụng dưới, các cơ quan tiết niệu. 
L2-L3 –> Mổ các cơ quan tiết niệu thấp(tuyến tiền liệt, bàng quang, chi dưới). 
+ Đơn giản hơn chỉ cần 2 điểm ở lưng(mổ cao), ở thắt lưng mổ thấp rồi điều khiển 
thuốc lan toả: 
Thay đổi tư thế. 
Luồn Polyten rồi bơm thuốc(còn có tác dụng giảm đau sau mổ). 
Thuốc tê và liều lượng thuốc tê: 
+ Xylocaine: 
Dưới 18 tuổi: 1-1,5% 6mg/kg. 
Trên 18 tuổi®70 tuổi: 2% 8mg/kg. 
70-80 tuổi: 1,5% 200-250mg(tổng liều). 
80-90 tuổi: 1% 150mg(tổng liều). 
+ Novocaine: Dung dịch dùng giống xylocaine, liều lượng(mg) gấp rưỡi đến 2 lần 
xylocaine. 
+ Dicaine: 3%:100mg+ 33ml HTM 9%. 
10-18 tuổi: 15ml. 
18-50 tuổi :22-25ml. 
>50 tuổi: cứ 5 tuổi bớt 2ml. 
+ Pontocaine 5%: người lớn 10-15ml. 
Có thể dùng: Pontocaine 5% + Gelatin 5% + Adrenalin 1/100000 với liều lượng 
như trên có thể tê 6 tiếng. 
Chú ý: Khi hết thời gian tê tuyệt đối nếu phẫu thuật cần co kéo nhiều nên bổ sung 
thêm bằng các thuốc giảm đau trung ương thì thời gian tê có thể kéo dài (90-120 
phút). 
+ Bupivacaine(Marcaine): 1,5-2mg/kg. 
Tai biến: 
1.Đưa thuốc tê vào khoang dưới nhện: Do chọc thủng màng cứng, dị dạng nón 
cùng kim nhỏ nước não tuỷ không ra, luồn polyten thủng màng cứng. 
+ Lâm sàng: 
Sớm nhất bệnh nhân ngừng thở hoàn toàn môi mặt tái nhợt. 
Mất tri giác hoàn toàn. 
Mạch không bắt được, huyết áp không đo được. 
+ Xử trí: 
Hô hấp nhân tạo với O2 ngay. 
Nếu HA<70mmHg cho: 
Truyền huyết thanh mặn 9/1000÷3g CaC2 nhỏ giọt. 
Ephedrin 10-60mg hoặc Adrenalin 1mg(pha truyền tĩnh mạch). 
Cafein 1÷5 ống (tĩnh mạch). 
Nếu mạch chậm< 60lần/phút cho Atropin(truyền cho đến khi mạch ≥ 80lần/phút 
thì thôi. 
+ Đề phòng: 
Thử test nhiều lần, tôn trọng liều tử( bằng liều gây tê tuỷ sống, xylocaine: 2mg/kg 
chờ 5’). 
Hút pittong trước khi bơm thuốc. 
Trong quá trình bơm thuốc tê phải giữ kim cố định tuyệt đối. 
Không dùng Polyten cứng quá và phải thử trước. 
Không dùng đầu kim đầu quá nhọn. 
2.Tụt huyết áp. 
3.Thở yếu hoặc ngừng thở. 
4.Rét run. 
5.Co giật, do nhiễm độc thuốc tê: 
Nhẹ: Seduxen 0,2mg/kg™. 
Nặng: Thiopental 1,25%-20ml. 
6.Mạch chậm: cho atropin. 
7.Nhức đầu. 
8.Buồn nôn, nôn: Cần kiểm tra huyết áp. 
9.Đau lưng: (1/400) do dùng kim to. 
10.Liệt TK: thuốc tê biến chất: pH thấp(coi như acid huỷ hoại TK), đưa Iot vào, 
nhầm thuốc(CaCl2).(6 tháng phục hồi nhanh, 6 tháng÷2 năm, chậm> 2 năm không 
phục hồi. 
11.Nấc: Khi mổ hoặc hậu phẫu do cường phó giao cảm hoặc dạ dầy đầy hơi®kích 
thích cơ hoanhg. 
12.Bí đái: Đặt sonde 1-3 ngày sẽ hết. 
13.Viêm màng não tuỷ: 
Do bệnh nhân có nhiễm trùng. 
Do thủ thuật không vô truùng 
14.Thủng động mạch hoặc tĩnh mạch nhỏ: Khi chọc kim hoặc luồn polyten sẽ có 
máu chảy ra® xử trí: lùi kim lại, bơm rửa đến khi dịch trong, chờ một lúc rồi bơm 
thuốc tê, nếu không được ®chuyển phương pháp khác. 
15. Đứt polyten trong màng cứng: Do rút ngược polyten. 
Ưu điểm: 
Tê tốt, tê sâu. 
Vùng mổ ít chảy máu –> khô sạch. 
Bệnh nhân tỉnh –> có thể bảo bệnh nhâ phối hợp với phẫu thuật viên, dễ phát hiện 
tai biến(do thuốc, truyền máu). 
Ruột nằm im khi mổ, nhu động ruột trở lại nhanh. 
Hậu phẫu nhẹ nhàng. 
Không độc cho gan, thận(bệnh tim, bệnh gan, Ure huyết cao có thể gây tê NMC). 
Ở bệnh nhân cao huyết áp có thể dùng liều nhỏ rải rác. 
Thuận tiện cho công tác lưu động. 
Nhược điểm: 
Kỹ thuật khó. 
Tạo ra những vùng tê không cần thiết. 
Bệnh nhân sợ –> cần cho tiền mê nhẹ. 
Đòi hỏi thận trọng khi di chuyển bệnh nhân. 
Gây tụt huyết áp. 
Liều lượng thuốc tê cao(4 lần tê tuỷ sống®dễ nhiễm độc, tốn thuốc). 
Còn cảm giác đụng chạm. 
Không ức chế hêt cảm giác ở ổ bụng(khi mổ thấp lôi kéo ruột thừa bệnh nhân tức 
vùng thượng vị). 
Cảm giác tức không hết(chèn meche, gạc bệnh nhân khó chịu). 
6.3.8. Gây tê tuỷ sống 
Một vài điểm về sinh lý: 
- Khi chọc dò tuỷ sống: 
+ Áp lực nước não tuỷ bị hạ do 
Một số nước não tuỷ(NNT) bị chảy ra ngoài. 
Màng cứng đàn hồi kém, nên khi rút kim ra nó không bịt kín lỗ làm cho NNT ra 
khoang NMC. Bình thường áp lực NNT là 12cm H2O, 
+ Áp lực NNT hạ nhiều hay ít do 
Lượng NNT bị mất. 
Lỗ chọc kim to hay bé. 
Chênh lệch áp lực giữa khoang NMC và khoang dưới nhện. 
+ Phản ứng của cơ thể khi bị mất một lượng NNT: 
Nếu phản ứng của đám rối nhện kém, thời gian hồi phục lâu. 
Nếu đám rối nhện bị kích thích sẽ tăng tiết làm tăng áp lực sọ. 
+ Động tác chọc dò ít nhiều gây ra xung huyết màng cứng(gây nhức đầu). 
- Hiện tượng khuyếch tán của thuốc phụ thuộc các yếu tố sau: 
+ Quy luật chung của 2 chất lỏng khi hoà vào nhau: 
Ở 37OC thuốc khuyếch tán nhiều nhất. 
Số lượng nước não tuỷ(nhiều –> khuyếch tán kém). 
Đậm độ thuốc(cao –> khuyếch tán tăng). 
Tỷ trọng thuốc(tỷ trọng NNT 1,003-1,009). 
- Chú ý: Khi bệnh nhân nằm ngang hoàn toàn điểm cao nhất của cột sống mà 
thuốc tê tỷ trọng thấp đọng lại là L3, điểm thấp nhất mà thuốc tê tỷ trọng thấp 
đọng lại là D5. 
- Ảnh hưởng của gây tê tuỷ sống: 
Một phần nhỏ thuốc tê ngấm vào tuỷ sống nhưng số lượng này không đủ cắt ngang 
tuỷ sống về mặt sinh lý . 
Thuốc tê ngấm vào các rễ TK từ chỗ xuất phát đến lỗ liên đốt. 
Kết quả gây tê sẽ ức chế TK giao cảm, phó giao cảm, vận động và mất phản xạ tuỷ 
sống bị phong bế. 
Chuẩn bị bệnh nhân: Như gây tê NMC. 
Phương tiện: 
Giống như gây tê NMC, nhưng khác là cần kim nhỏ, cứng, mũi nhọn(thường dùng 
số 24,25,26) vì nhỏ ít gây thoát dịch não tuỷ và tổn thương màng cứng®ít nhức 
đầu). 
+ Thuốc tê(nếu pha thêm với Adrenalin 1/200000 thời gian tê tăng gấp rưỡi). 
Novocaine: 5% Tỷ trọng 1,010×2ml Tác dụng 90’ 
Percaine: 5% 1,0016×1ml 2-4h 
Entocain 1 % 1,007 x 1,6 ml 90-120’ 
Xylocain 5 % 1,007 x 2ml 120’. 
Xylocain 1% 1,007×5ml 60-
90‘. 
+ Marcaine(Bupivacaine): 0,5%- 0,25-0,3mg/kg, chú ý đối với người Việt Nam 
không được quá 15 mg. 
+ Ngoài ra còn dùng Dolacgan để gây tê tuỷ sống, liều lượng 1mg÷1,4mg/kg.(tuỳ 
kinh nghiệm từng người làm, thường dùng 1,2mg/kg. 
Kỹ thuật: 
Tư thế bệnh nhân: Như gây tê NMC. 
Vô trùng, sát trùng và xác định đốt sống: như gây tê NMC. 
Chọc dò tuỷ sống: Đến khi có nước não tuỷ chảy ra thì bơm thuốc tê-cũng có thể 
gây tê liên tục( luồn polyten), lúc đó liều sau bằng 2/3 liều đầu, ở Việt Nam chưa 
nên làm vì không đủ phương tiện. 
Lâm sàng hiện tượng tê và phản xạ: 
Sau khi tiêm thuốc tê vài phút bệnh nhân tê ngay. Nếu tê thấp bệnh nhân có cảm 
giác kiến bò ở 2 chi dưới, mất cảm giác, mất phản xạ gân bánh chè và phản xạ da 
bìu. 
Cảm giác mất dần từ tầng sinh môn, vùng xương cùng cụt, 2 mông-bìu, âm hộ, 
phía trên mặt sau đùi, cẳng chân bàn chân, mặt trứơc trong đùi, hạ vị, mất phản xạ 
da bụng rồi mất vận động, sâu hơn nữa sẽ giãn cơ tròn. 
Sau khi gây tê vài phút sẽ xuất hiện tụt huyết áp. 
Sau khi tụt huyết áp sẽ xuất hiện triệu chứng co mạch bù trừ ở vùng không tê nên 
màu sắc, da không hồng hào. 
Tai biến: 
+ Nhìn chung như gây tê ngoài màng cứng: 
Tụt huyết áp, mạch chậm. 
Thiểu năng hô hấp. 
Buồn nôn, nôn. 
Bí đái. 
Nhức đầu. 
Điều trị dùng Pleu methylen 5% 2-3ml tiêm tĩnh mạch 2-3 phút. 
Cafein: 0,25mg(Tm). 
MgSO4 50g%x5ml. 
Vit B1 50-100mg+Vit PP 100mg/24h. 
Viêm màng não –> liệt thần kinh sọ do VMN, dính màng não tuỷ. 
Tổn thương tuỷ do chấn thương, chèn ép, dùng thuốc tê hỏng gây liệt. 
Rối loạn cơ tròn. 
17 quy tắc đề phòng biến chứng: 
Chọn kim nhỏ đủ cứng(Gauge 24,25). 
Khi chọc và bơm thuốc phải giữ kim chắc. 
Không để NNT chảy ra nhiều quá. 
Kim, bơm tiêm, pittong phải vừa khít nhau(không mất thuốc). 
Không bơm thuốc vào và hút ra nhiều lần. 
Bù khối lượng tuần hoàn tốt. 
Cho ngửi oxy. 
Nắm vững tỷ trọng thuốc tê trước khi dùng để điều khiển tê. 
Trước khi bơm thuốc phải hút thử. 
Sẵn sàng phương tiện cấp cứu hô hấp và tuần hoàn. 
Theo dõi sát bệnh nhân(hô hấp, huyết áp,vùng tê). 
Thay đổi tư thế bệnh nhân nhẹ, khi còn tác dụng tê để nằm tại giường 3-5h sau khi 
hết tê. 
Tiền tê phải có Atropin. 
Trong khi mổ không nên bàn chuyện ảnh hưởng đến bệnh nhân. 
Thuốc và dụng cụ phải vô trùng. 
Kiểm tra thuốc trước khi dùng. 
Khi mổ nội tạng cần phong bế thêm thuốc tê. 
Chỉ định: như gây tê NMC. 
Chống chỉ định: Như gây tê NMC. 
Ưu điểm: Như gây tê NMC. 
Nhược điểm: Như gây tê NMC. 

File đính kèm:

  • pdfcac_phuong_phap_gay_me_gay_te_trieu_chung_gay_me_va_cac_bien.pdf