Các yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nghiên cứu dùng mẫu c NHTMCP, NHTMNN, NHLD) với phương pháp nghiên cứu định lượng trong giai đoạn 2006-2011. Qua phân tích thống kê, tương ủa 37 ngân hàng thương mại VN (Gồm
quan và hồi quy dữ liệu bảng không cân xứng với hiệu ứng Fixed Effect,
nghiên cứu đã tìm thấy sự tác động của một số yếu tố đến khả năng thanh
khoản của các ngân hàng thương mại tại VN. Cụ thể là, “Tỷ lệ vốn chủ sở
hữu”, “Tỷ lệ nợ xấu” và “Tỷ lệ lợi nhuận” có mối tương quan thuận; ngược
lại, “Tỷ lệ cho vay trên huy động” có mối tương quan nghịch với khả năng
thanh khoản của các ngân hàng thương mại VN. Tuy nhiên, nghiên cứu này
không tìm thấy ảnh hưởng của “Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng”, “Quy mô
ngân hàng” đối với khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại
VN.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 23 (33) - Tháng 07-08/2015 Nghiên Cứu & Trao Đổi 32 1. Sự cần thiết nghiên cứu Cuộc khủng hoảng từ việc cho vay dưới chuẩn của Mỹ xảy ra vào tháng 8 năm 2007 đã nhấn chìm toàn bộ nền kinh tế Mỹ cũng như hệ thống tài chính toàn cầu. Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (BCBS 2004) chỉ ra rằng một trong những nguyên nhân gốc rễ của cuộc khủng hoảng là vấn đề thanh khoản, đã phần lớn bị bỏ qua trong quá khứ. Cuộc khủng hoảng chỉ ra rằng những ngân hàng dựa nhiều vào thị trường tiền tệ ngắn hạn tài trợ cho các tài sản hoạt động của họ có xu hướng bị vấn đề thanh khoản rất lớn. Từ cuộc khủng hoảng trên, đa số các ngân hàng thương mại đã quan tâm đến vấn đề thanh khoản vì nó chính là vấn đề sống còn của các ngân hàng trong thời kỳ hiện đến sự đổ vỡ của toàn hệ thống. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề thanh khoản trong hệ thống ngân hàng là vô cùng cần thiết, nếu các ngân hàng có khả năng thanh khoản tốt thì không những có thể giúp cho thị trường tài chính ổn định mà nền kinh tế đất nước sẽ vận hành tốt. Đặc biệt, trong điều kiện của VN hiện nay, những vấn đề về thanh khoản đang được quan tâm hàng đầu và thường được đưa ra từ đầu năm để trong năm đó có thể quản lý tốt. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản của các ngân hàng thương mại VN” để nghiên cứu. 2. Cơ sở lý thuyết 2.1. Những vấn đề cơ bản về thanh khoản ngân hàng a. Thanh khoản và rủi ro thanh nay. Ở VN, hơn hai thập kỷ qua, kể từ khi hệ thống ngân hàng VN thực hiện quá trình cải cách các ngân hàng thương mại (NHTM) đã có bước phát triển mới cả về lượng và chất, nhưng vấn đề rủi ro thanh khoản dường như chưa được quan tâm đúng mức. Một trong những nhiệm vụ quan trọng mà các nhà quản lý ngân hàng cần thực hiện là đảm bảo khả năng thanh khoản hợp lý cho ngân hàng. Ngân hàng có khả năng thanh khoản tốt, hay nói cách khác là ngân hàng không gặp rủi ro thanh khoản khi luôn có được nguồn vốn khả dụng với chi phí hợp lý vào đúng thời điểm mà ngân hàng cần. Điều này có nghĩa nếu ngân hàng không có đủ nguồn vốn cần thiết để đáp ứng mọi nhu cầu của thị trường sẽ có thể mất khả năng thanh toán, mất uy tín và dẫn Các yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam VŨ THỊ HỒNG Trường Cao đẳng nghề GTVT Đường thủy II Nghiên cứu dùng mẫu của 37 ngân hàng thương mại VN (Gồm NHTMCP, NHTMNN, NHLD) với phương pháp nghiên cứu định lượng trong giai đoạn 2006-2011. Qua phân tích thống kê, tương quan và hồi quy dữ liệu bảng không cân xứng với hiệu ứng Fixed Effect, nghiên cứu đã tìm thấy sự tác động của một số yếu tố đến khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại tại VN. Cụ thể là, “Tỷ lệ vốn chủ sở hữu”, “Tỷ lệ nợ xấu” và “Tỷ lệ lợi nhuận” có mối tương quan thuận; ngược lại, “Tỷ lệ cho vay trên huy động” có mối tương quan nghịch với khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại VN. Tuy nhiên, nghiên cứu này không tìm thấy ảnh hưởng của “Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng”, “Quy mô ngân hàng” đối với khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại VN. Từ khóa: Ngân hàng thương mại VN, khả năng thanh khoản, thanh khoản, chính sách quản lý. Số 23 (33) - Tháng 07-08/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Nghiên Cứu & Trao Đổi 33 khoản Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng cho rằng: “Thanh khoản là một thuật ngữ chuyên ngành nói về khả năng đáp ứng các nhu cầu về sử dụng vốn khả dụng phục vụ cho hoạt động kinh doanh tại mọi thời điểm như chi trả tiền gửi, cho vay, thanh toán, giao dịch vốn...” Theo Duttweiler (2009), có hai khía cạnh khác nhau về thanh khoản cần phải đặc biệt quan tâm, đó là thanh khoản tự nhiên và thanh khoản nhân tạo. Trong đó, thanh khoản tự nhiên nghĩa là các dòng lưu chuyển xuất phát từ tài sản hoặc nợ nhưng có thời gian đáo hạn theo luật định. Trong lĩnh vực ngân hàng, khi một giao dịch với khách hàng thường được tái tục, có thể với cùng số tiền hoặc với số tiền nhỏ hơn/lớn hơn thì nhìn chung nhóm khách hàng này thường hành động gần như theo cách có thể dự đoán được. Điều này không chỉ đúng với các tài sản mà còn đúng với các khoản nợ. Còn thanh khoản nhân tạo lại được tạo ra thông qua khả năng chuyển tài sản thành tiền mặt trước ngày đáo hạn. Ở đây có thể thấy hầu như lúc nào cũng có thể dễ dàng chuyển một chứng khoán cụ thể thành tiền mặt, đặc biệt nếu vẫn còn công ty nào muốn chuyển chứng khoán thành tiền mặt thì thị trường vẫn còn khả năng chấp nhận các giao dịch. Từ trước đến nay đã có nhiều khái niệm khác nhau về rủi ro thanh khoản. Nhưng rủi ro thanh khoản có thể được hiểu là rủi ro khi NHTM không có khả năng thanh toán tại một thời điểm nào đó, hoặc phải huy động các nguồn vốn với chi phí cao để đáp ứng nhu cầu thanh toán; hoặc do các nguyên nhân chủ quan khác làm mất khả năng thanh toán của NHTM, theo đó nó sẽ kéo theo những hậu quả không mong muốn. (Duttweiler, 2009) b. Nguyên nhân gây ra rủi ro thanh khoản Nhiều nghiên cứu đã tương đối thống nhất khi chỉ ra rằng rủi ro thanh khoản có thể đến từ bên tài sản nợ hoặc tài sản có, hoặc từ hoạt động ngoại bảng của bảng cân đối tài sản của NHTM (Valla và Escorbiac, 2006). Bên cạnh đó, theo Nguyễn Văn Tiến (2010), có ba nguyên nhân tiền đề khiến cho ngân hàng phải đối mặt với rủi ro thanh khoản thường xuyên là: “Thứ nhất, ngân hàng huy động và đi vay vốn thời gian ngắn, sau đó cứ tuần hoàn chúng để cho vay thời gian dài hơn. Do đó nhiều ngân hàng phải đối mặt với sự không trùng khớp về kỳ hạn đến hạn giữa tài sản có và tài sản nợ.” “Thứ hai, sự nhạy cảm của tài sản tài chính với thay đổi lãi suất. Khi lãi suất tăng, nhiều người gửi tiền sẽ rút tiền ra tìm kiếm nơi gửi khác có mức lãi suất cao hơn. Những người có nhu cầu tín dụng sẽ hoãn lại, hoặc rút hết số dư hạn mức tín dụng với lãi suất thấp đã thỏa thuận. Như vậy, thay đổi lãi suất ảnh hưởng đồng thời đến luồng tiền gửi cũng như luồng tiền vay, và cuối cùng là đến thanh khoản của ngân hàng.” “Thứ ba, ngân hàng luôn phải đáp ứng nhu cầu thanh khoản một cách hoàn hảo. Những trục trặc về thanh khoản sẽ làm xói mòn niềm tin của dân chúng vào ngân hàng.” c. Đo lường khả năng thanh khoản Nghiên cứu về tính thanh khoản rất quan trọng đối với thị trường tài chính và các ngân hàng, đặc biệt là từ sau khủng hoảng kinh tế 2008. Theo Aspachs (2005) và Nikolau (2009), tính thanh khoản không đơn giản phụ thuộc vào các yếu tố khách quan bên ngoài (chẳng hạn như thị trường hiệu quả, cơ sở hạ tầng, chi phí giao dịch thấp, số lượng lớn người mua và người bán, đặc tính minh bạch của tài sản giao dịch) mà điều quan trọng là nó ảnh hưởng bởi yếu tố bên trong, đặc biệt là các phản ứng của người tham gia thị trường khi đối mặt với sự không chắc chắn và thay đổi giá trị tài sản. Cho tới nay nghiên cứu của một số tác giả như Aspachs & cộng sự (2005), Rychtárik (2009), Praet và Herzberg (2008) đã tập trung vào 4 tỷ số thanh khoản như sau: L1 = Tài sản thanh khoản/ Tổng tài sản Tỷ số này cung cấp một thông tin chung về khả năng thanh khoản của ngân hàng. Tức là trong tổng tài sản của ngân hàng tỷ trọng tài sản thanh khoản là bao nhiêu. Tỷ số này cao tức là khả năng thanh khoản của ngân hàng rất tốt. L 2 = Tài sản thanh khoản / (Tiền gửi + Vốn huy động ngắn hạn) Tỷ số thanh khoản L 2 sử dụng tài sản thanh khoản để đo lường khả năng thanh khoản là rất tốt. Tuy nhiên, tỷ lệ này là tập trung vào mức độ nhạy cảm của ngân hàng khi lựa chọn các loại kinh phí (bao gồm tiền gửi của các hộ gia đình, doanh nghiệp và các tổ chức tài chính khác). Tỷ số này cũng giống L 1 , tức là tỷ số này cao cũng thể hiện thanh khoản của ngân hàng là tốt. L 3 = Khoản cho vay / Tổng tài sản Tỷ số này cho biết có bao nhiêu PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 23 (33) - Tháng 07-08/2015 Nghiên Cứu & Trao Đổi 34 phần trăm khoản cho vay trên tổng tài sản ngân hàng. Do đó tỷ lệ này cao tức là khả năng thanh khoản của ngân hàng yếu. L 4 = Khoản cho vay/ (Tiền gửi + Nguồn vốn ngắn hạn) Tỷ số này cũng giống L 3 , tức là nếu cao thì khả năng thanh khoản của ngân hàng yếu. Các tỷ số này tương ứng với nhiều nghiên cứu khác nhau sẽ sử dụng làm biến phụ thuộc để xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại. d. Dự trữ thanh khoản Theo Duttweiler (2009), để duy trì khả năng thanh toán, một mặt ngân hàng thương mại phải đảm bảo toàn bộ giá trị tài sản có phải lớn hơn các khoản nợ ở mọi thời điểm. Nếu trong kinh doanh vốn cho vay không có khả năng thu hồi và lỗ trong nghiệp vụ chứng khoán sẽ làm cho giá trị tài sản có xuống thấp hơn tài sản nợ và như vậy sẽ dẫn đến ngân hàng mất khả năng thanh toán, có thể phải đóng cửa hoặc phải bán tài sản cho ngân hàng khác. Trong các nguồn dự trữ để đảm bảo khả năng thanh khoản cho các ngân hàng có hai nguồn quan trọng mà các nhà quản lý trong ngân hàng phải đặc biệt quan tâm, đó là: Nguồn dự trữ sơ cấp và nguồn dự trữ thứ cấp. (Duttweiler, 2009) Dự trữ sơ cấp là các khoản mục về ngân quỹ tiền mặt, tiền gửi ở Ngân hàng Trung ương, tiền gửi các ngân hàng khác. Các khoản dự trữ này được sử dụng để dự trữ theo quy định của Ngân hàng Trung ương và đáp ứng nhu cầu bất thường về tiền mặt cho khách hàng hoặc để thực hiện các khoản thanh toán cho ngân hàng khác trong việc thanh toán giữa các ngân hàng. Dự trữ thứ cấp bao gồm các loại chứng khoán có khả năng chuyển thành tiền dễ dàng như: Trái phiếu kho bạc, giấy chấp nhận trả tiền của ngân hàng...Dự trữ thứ cấp được dùng để hỗ trợ cho dự trữ sơ cấp về các nhu cầu rút tiền, thanh toán giữa các ngân hàng và vay mượn của khách hàng đã được dự kiến trước. e. Các lý thuyết về đo lường thanh khoản và các yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản của các NHTM. Các lý thuyết về đo lường thanh khoản: Trước đây, người ta thường sử dụng các tỷ lệ thanh khoản để đưa ra các biện pháp quản lý rủi ro thanh khoản tốt hơn. Tỷ lệ mà các nghiên cứu trước đây sử dụng bao gồm tỷ lệ tài sản thanh khoản/tổng tài sản (ví dụ như Aspachs & cộng sự (2005), Rychtárik (2009), Praet và Herzberg (2008); Demirgüç- Kunt & cộng sự năm 2003), Tỷ lệ tài sản thanh khoản/tiền gửi khách hàng (Aspachs & cộng sự năm 2005; Rychtárik năm 2009; Praet and Herzberg năm 2008), Tỷ lệ tài sản thanh khoản/Tổng huy động ngắn hạn (Indriani, 2004). Nếu các tỷ lệ thanh khoản này cao chứng tỏ ngân hàng hoạt động có hiệu quả và ít rủi ro hơn. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu sử dụng tỷ lệ vốn vay/tổng tài sản (ví dụ như Demirgüç-Kunt và Huizinga năm 1999; Athanasoglou & cộng sự, 2006.), tỷ lệ cho vay ròng với khách hàng/tài trợ ngắn hạn (ví dụ như Pasiouras và Kosmidou, 2007; Naceur và Kandil, 2009) để đánh giá rủi ro thanh khoản của ngân hàng. Nếu các tỷ số này cao có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản của các ngân hàng. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản: Từ lúc thanh khoản trở thành vấn đề đáng được quan tâm của các ngân hàng thương mại thì đã có rất nhiều lý luận, nhiều tác giả đề cập đến những yếu tố có thể ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản. Tuy nhiên, những nghiên cứu cho kết quả đáng tin cậy nhất đa số tập trung vào các nghiên cứu về ngân hàng ở châu Âu và Bắc Mỹ. Những nghiên cứu trên tập trung vào hai nhóm yếu tố chính có thể ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại: Nhóm thứ nhất là những yếu tố nội tại của chính bản thân các ngân hàng đó như: lợi nhuận, vốn chủ sở hữu, tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ cho vay trên huy động, quy mô ngân hàng, tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng... Nhóm thứ hai đề cập đến các yếu tố vĩ mô như: tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát, lãi suất cho vay, lãi suất cơ bản của NHTW, lãi suất bình quân liên ngân hàng... Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ tập trung vào các yếu tố nội tại, chưa đi sâu vào phân tích ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô đến khả năng thanh khoản của các ngân hàng. 2.2. Các nguyên tắc của Basel về quản lý thanh khoản trong ngân hàng Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng là một diễn đàn cho sự hợp tác thường xuyên về các vấn đề liên quan đến giám sát hoạt động ngân hàng. Mục tiêu của Ủy ban là hiểu rõ hơn về các vấn đề mấu chốt trong việc giám sát hoạt động ngân hàng và nâng cao chất lượng giám sát hoạt động ngân hàng trên toàn cầu. Trong các công việc về giám Số 23 (33) - Tháng 07-08/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Nghiên Cứu & Trao Đổi 35 sát khả năng thanh khoản, Ủy ban Basel đã nỗ lực mở rộng cách hiểu về cách thức một ngân hàng quản lý khả năng thanh khoản của mình ở phạm vi toàn cầu trên cơ sở bù trừ các giao dịch trong nội bộ. Những tiến bộ gần đây về phương diện tài chính và công nghệ đã cung cấp cho các ngân hàng những phương pháp mới để cấp vốn cho các hoạt động của mình và quản lý khả năng thanh khoản. Vì vậy, Ủy ban Basel đã đưa ra một số nguyên tắc cơ bản nhằm đánh giá công tác quản lý thanh khoản trong ngân hàng như sau: (Ngân hàng thanh toán quốc tế, 2009) Nguyên tắc 1: Mỗi ngân hàng cần thống nhất về một chiến lược quản lý khả năng thanh khoản hàng ngày. Chiến lược này cần được truyền đạt trong toàn ngân hàng. Nguyên tắc 2: Hội đồng quản trị của một ngân hàng phải là cơ quan kiểm duyệt chiến lược và các chính sách cơ bản liên quan đến quản lý khả năng thanh khoản của ngân hàng. Hội đồng quản trị cũng cần đảm bảo là các cán bộ quản lý cao cấp của ngân hàng thực hiện những biện pháp cần thiết để theo dõi và kiểm soát rủi ro thanh khoản. Nguyên tắc 3: Mỗi ngân hàng cần có một cơ cấu quản lý để thực hiện có hiệu quả chiến lược về khả năng thanh khoản. Cơ cấu này cần bao gồm sự tham gia thường xuyên của các thành viên thuộc nhóm cán bộ quản lý cao cấp. Nguyên tắc 4: Một ngân hàng cần có hệ thống thông tin đầy đủ cho việc đo lường, theo dõi, kiểm soát và báo cáo rủi ro thanh khoản. Các báo cáo cần được cung cấp kịp thời cho hội đồng quản trị của ngân hàng, các cán bộ quản lý cao cấp và các cán bộ có thẩm quyền khác. Nguyên tắc 5: Mỗi ngân hàng cần xây dựng một quy trình cho việc theo dõi và đo lường liên tục các yêu cầu cấp vốn ròng. Nguyên tắc 6: Các ngân hàng cần phân tích khả năng thanh khoản sử dụng nhiều tình huống dạng “nếu thì”. Nguyên tắc 7: Các ngân hàng ... hu cầu cấp vốn ròng (Nguyên tắc 5). Điều đó có nghĩa khi thanh khoản ngân hàng có nguy cơ bị suy yếu đi thì các nhà quản lý cần quán triệt chính sách tăng vốn lên ở mức độ vừa phải nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản được duy trì ổn định. (Nguyên tắc 1,2) Thứ hai, do tỷ lệ cho vay trên huy động có mối quan hệ nghịch biến với thanh khoản nên ngân hàng cần biết cân đối giữa cho vay và huy động bằng cách duy trì một nguồn dự phòng phù hợp. (Nguyên tắc 8, 9) Thứ ba, do lợi nhuận có mối quan hệ đồng biến với khả năng thanh khoản nên ngân hàng cần luôn đảm bảo nguồn lợi nhuận này. Vì vậy, ngân hàng cần trang bị cho mình một hệ thống thông tin chắc chắn và đầy đủ (Nguyên tắc 4, 13); thêm vào đó, cần luôn luôn nhìn nhận, đánh giá về lợi nhuận một cách khách quan nhất để có thể đánh giá một cách chính xác nhất về tính thanh khoản trong từng thời kỳ (Nguyên tắc 10, 11). Từ đó, các Số 23 (33) - Tháng 07-08/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Nghiên Cứu & Trao Đổi 47 nhà quản lý có thể đưa ra những chính sách tốt nhất nhằm quản lý tốt vấn đề thanh khoản này. Cuối cùng, do nợ xấu có mối quan hệ đồng biến với thanh khoản nhưng lý do chính là do nguồn huy động tăng quá nhanh trong thời gian nghiên cứu. Vì vậy, các nhà quản trị cần nghiên cứu, rà soát lại những nguyên nhân sâu xa đối với ngân hàng của mình, phát huy vai trò của hệ thống kiểm soát nội bộ, không ngừng đưa ra những tình huống xấu nhất có thể xảy ra và đưa ra biện pháp khắc phục chúng. (Nguyên tắc 6, 7, 12). Tóm lại, kết quả nghiên cứu trên sẽ giúp các nhà quản lý thanh khoản dựa trên những nguyên tắc cụ thể của Basel đưa ra những chính sách phù hợp nhất với sự ổn định, phát triển của từng ngân hàng cũng như cả hệ thống ngân hàng nói chung. 5. Kết luận và kiến nghị 5.1. Kết quả đạt được từ nghiên cứu Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của các NHTMVN bao gồm: Tỷ lệ vốn chủ sở hữu, tỷ lệ cho vay trên huy động, tỷ lệ lợi nhuận, tỷ lệ nợ xấu. Nghiên cứu chỉ ra vốn chủ sở hữu, lợi nhuận sau thuế sẽ có tác động mạnh mẽ đến khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại VN. Cụ thể là nếu ngân hàng có thể duy trì ổn định nguồn vốn chủ sở hữu thì khả năng thanh khoản của ngân hàng có thể được đảm bảo, mỗi sự suy giảm của nguồn vốn chủ sở hữu dù là ít chăng nữa cũng có thể gây nên hậu quả là ngân hàng thiếu thanh khoản và có thể dẫn đến sự đổ vỡ. Bên cạnh đó, lợi nhuận sau thuế cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng thanh khoản. Trong thời gian qua khi nền kinh tế của cả thế giới đang trong giai đoạn phục hồi, lợi nhuận của các ngân hàng thương mại VN vẫn đang có xu hướng giảm do đầu tư không hiệu quả thì khả năng thanh khoản của các ngân hàng cũng giảm theo. Tiếp đó, sự so sánh giữa tổng cho vay và tổng huy động được trong ngắn hạn cũng cho thấy sự ảnh hưởng lớn tới khả năng thanh khoản. Nếu các ngân hàng chỉ quan tâm đến việc cho vay nhiều mà không quan tâm đến nguồn huy động được thì chắc chắn trong một giai đoạn nào đó sẽ gây ra thiếu hụt thanh khoản và từ đó có thể gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng. Điều đó cũng có nghĩa nếu các ngân hàng có những biện pháp cân đối giữa nguồn huy động được và cho vay trong ngắn hạn thì có thể tháo gỡ được rất nhiều khó khăn liên quan đến khả năng thanh khoản. Cuối cùng, nợ xấu cũng là vấn đề rất quan trọng khi nghiên cứu khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại VN. Kết quả nghiên cứu cho thấy quan hệ đồng biến giữa tỷ lệ nợ xấu và khả năng thanh khoản, cũng có nghĩa là khi phát sinh nợ xấu thì các ngân hàng mới thực sự quan tâm đến việc trung hòa nó bằng các tài sản thanh khoản. Thông thường, khi bất kỳ khoản nợ xấu nào phát sinh thì các ngân hàng mới đưa ra những giải pháp để hạn chế nó và cân đối rủi ro bằng những tài sản thanh khoản lại đang là một giải pháp được sử dụng có hiệu quả nhất. 5.2. Các kiến nghị a. Đối với các ngân hàng thương mại - Quản lý tốt các tài sản thanh khoản. Tài sản thanh khoản được hiểu là tài sản có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt với chi phí thấp nhất. Những loại tài sản này có thể dễ dàng được mua bán trên thị trường thứ cấp hoặc được Chính phủ chiết khấu. Cơ cấu của loại tài sản này phụ thuộc vào các yếu tố: + Quy định về dự trữ bắt buộc của NHTW. + Khả năng tạo ra thu nhập của loại tài sản. + Quản lý chủ động danh mục tài sản thanh khoản. + Quản lý tốt các quỹ thanh toán. - Nâng cao khả năng tiếp cận các nguồn vốn. Các ngân hàng cần phải định kỳ đánh giá lại các nỗ lực thiết lập và duy trì các mối quan hệ với các chủ sở hữu, duy trì tính đa dạng hoá của các nguồn vốn. Việc xây dựng các mối quan hệ vững mạnh với những nhà cung cấp vốn then chốt (Các đối tác, các NH đại lý, các khách hàng lớn, hệ thống thanh toán) sẽ cung cấp một tấm đệm thanh khoản khi NH gặp khó khăn về thanh khoản và hình thành nên một phần không thể thiếu trong chính sách quản lý thanh khoản . Sự tập trung vào một số ít nguồn vốn làm tăng rủi ro thanh khoản. Do đó, để kiểm tra tính đa dạng đầy đủ của nguồn, cần phải kiểm tra mức độ phụ thuộc vào những nguồn vốn nhất định. Bộ phận nguồn vốn hoặc bộ phận cụ thể khác trong NH phải có trách nhiệm theo dõi lựa chọn các nguồn vốn khác nhau và các xu hướng hiện hành trong lựa chọn đó. Những nguồn vốn có thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu thanh khoản bao gồm: + Các loại tài sản đã đáo hạn và chưa đáo hạn nhưng có thể bán PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 23 (33) - Tháng 07-08/2015 Nghiên Cứu & Trao Đổi 48 được, các chứng khoán hoặc các công cụ đầu tư ngắn hạn khác có thể được chuyển dễ dàng thành tiền mặt. + Tiền gửi huy động bao gồm cả phát hành chứng chỉ tiền gửi dài hạn. + Các hạn mức tín dụng mà NH khác cam kết cấp cho NH này. + Hạn mức chiết khấu do NHNN cấp. + Tiền mặt ngoại tệ nhập khẩu từ NH ở nước ngoài. + Khai thác các cơ chế mà theo đó NH có thể thế chấp tài sản để vay hay ký các hợp đồng mua lại (repo) với các NH khác để có được vốn nhanh nhất. Repo bao gồm một hợp đồng giữa người mua và người bán, thường sử dụng trái phiếu chính phủ hoặc các tài sản tài chính, trong đó người bán trái phiếu cho người mua kết hợp đồng thời với một hợp đồng mua lại những chứng khoán đó ở một mức giá đã thỏa thuận tại một thời điểm nhất định trong tương lai. - Xử lý tốt nợ xấu và nâng cao chất lượng tín dụng Để từng bước xử lý nợ xấu một cách bền vững, hạn chế nợ xấu gia tăng nhằm khơi thông dòng vốn, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và hỗ trợ vốn tích cực cho nền kinh tế, một số giải pháp sau đây cần được các ngân hàng triển khai: Thứ nhất, các ngân hàng chủ động phối hợp với khách hàng vay để cơ cấu lại nợ, giãn thời gian trả nợ và xem xét giảm lãi suất một cách hợp lý cho khách hàng có khó khăn tài chính tạm thời, có chiều hướng cải thiện sản xuất kinh doanh tích cực, được đánh giá có khả năng trả nợ theo thời gian cơ cấu lại nợ. Thú hai, tăng cường trích lập, sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu theo quy định của pháp luật. Đẩy nhanh tiến độ bán, xử lý các tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu để thu hồi vốn. Thứ ba, tăng cường hiệu quả, hiệu lực công tác thanh tra, giám sát ngân hàng để bảo đảm các TCTD tuân thủ đúng các quy định về hoạt động ngân hàng, đặc biệt là quy định về cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro và quy định về an toàn hoạt động tín dụng. Cuối cùng, cần thúc đẩy thị trường mua bán nợ phát triển thông qua ban hành và triển khai có hiệu quả các quy định, chính sách về mua bán nợ. b. Đối với Chính phủ Chính phủ cần tăng cường hệ thống kiểm tra giám sát nội bộ của hệ thống NHTM VN, nhất là đối với các NHTM QD hoặc các NHTM QD đã cổ phần hóa nhưng Nhà nước vẫn chiếm đại đa số cổ phần vì những ngân hàng này luôn có tỷ lệ nợ xấu cao nhất trong hệ thống khi so sánh với các NHTMCP khác hay NHLD. Bên cạnh đó, Chính phủ cần không ngừng hoàn thiện hành lang pháp lý. Hệ thống các quy định pháp lý liên quan đến công tác quản trị rủi ro thanh khoản trong các hoạt động của NHTM mới chỉ dừng lại ở mức sơ khai, cần phải hoàn thiện thêm nhiều khía cạnh, cần ban hành một quy chế về rủi ro thanh khoản để hướng dẫn cho các NHTM trong quá trình hoạt động. Quy chế này cần có các quy định rõ về: - Các chỉ tiêu đo lường rủi ro thanh khoản. - Chất lượng tài sản có, các tài sản thanh khoản. - Năng lực đi vay. - Dòng tiền, sự phân bố tài sản và nghĩa vụ tài chính (công nợ) theo ngày đến hạn. Ngoài ra, quy chế về rủi ro thanh khoản cũng cần phải quy định các nguyên tắc nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra tại chỗ, giám sát từ xa của Chính phủ đối với các NHTM nhằm phát hiện sớm những dấu hiệu rủi ro thanh khoản và có biện pháp xử lý kịp thời. c. Đối với Ngân hàng Nhà nước Trước hết, NHNN cần nâng cao vai trò định hướng trong quản lý và tư vấn cho các ngân hàng thương mại thông qua việc thường xuyên tổng hợp, phân tích thông tin thị trường, đưa ra các nhận định và dự báo khách quan, mang tính khoa học để các ngân hàng thương mại có cơ sở tham khảo, định hướng trong việc hoạch định chính sách thanh khoản của mình sao cho vừa đảm bảo phát triển hợp lý, vừa phòng ngừa được rủi ro. Tiếp đó, NHNN cần có sự kiểm tra, kiểm soát có hiệu quả những hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, đảm bảo sự phát triển bền vững và an toàn. Cuối cùng, cần phải hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy thanh tra NH theo ngành dọc từ Trung ương đến địa phương và sự độc lập tương đối về điều hành, hoạt động nghiệp vụ trong tổ chức bộ máy NHNN; ứng dụng những nguyên tắc cơ bản về giám sát hiệu quả hoạt động NH của uỷ ban Basel, tuân thủ những nguyên tắc thận trọng trong công tác thanh tra. 6. Hạn chế của đề tài và đề xuất hướng nghiên cứu mới Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng để hoàn thành luận văn nghiên cứu nhưng do thời gian, kinh nghiệm Số 23 (33) - Tháng 07-08/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Nghiên Cứu & Trao Đổi 49 thực tế và do năng lực có hạn nên nghiên cứu này còn rất nhiều hạn chế: Thứ nhất, bộ dữ liệu còn khá ít (vì dữ liệu bảng nhưng không cân xứng và chỉ lấy trong 6 năm 2006- 2011). Thứ hai, biến phụ thuộc trong mô hình có thể sử dụng 4 biến nhưng nghiên cứu mới chỉ sử dụng một biến. Thứ ba, nghiên cứu chưa xét đến độ trễ của dữ liệu, mối quan hệ phi tuyến. Thứ tư, nghiên cứu chưa xét đến một số yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản như lãi suất cho vay, lãi suất huy động, tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát . Từ những hạn chế nêu trên, hướng nghiên cứu tiếp theo có thể đưa ra là tăng số lượng mẫu nghiên cứu thêm. Bên cạnh đó, khoảng thời gian nghiên cứu có thể mở rộng thêm để tăng cường tính giải thích cho mô hình nghiên cứu. Tiếp đó, biến phụ thuộc trong mô hình mới chỉ sử dụng một biến là Tài sản thanh khoản/Tổng huy động ngắn hạn nên chúng ta có thể thay thế bằng các biến khác như Tài sản thanh khoản/Tổng tài sản, Tổng cho vay/Tổng tài sản hay Tổng cho vay/Tổng huy động ngắn hạn. Cuối cùng, nghiên cứu này chưa xét đến ảnh hưởng của một số yếu tố vĩ mô và một số yếu tố khác đến khả năng thanh khoản của ngân hàng. Vì vậy, có thể đưa thêm một vài biến vĩ mô hoặc các biến nội tại khác vào mô hình để tăng thêm khả năng giải thích cho biến phụ thuộcl TÀI LIỆU THAM KHẢO Aspachs, O., Nier, E., Tiesset, M. (2005), Liquydity, Banking Regulation and macroeconomics. Proof of shares, bank liquydity from a panel the bank’s UK- resident, Bank of England working paper. Athanasolou, P. P, Delis, M. D, Staikouras, C. K, (2006), Determinants of bank profitability in the South Eastern European Region, Bank of Greece working paper, No. 47. Bank for International Settlement (2009), International framework for liquydity risk measurement, standards and monitoring. Baltagi B. (2005), Econometric Analysis of Panel Data, 3rd Edition. Bonfim, D., Kim, M. (2008), “Liquydity risk in banking: Is there herding?”, International Economic Journal, vol. 22, no. 3, pp. 361-386. Berger, N. A., Bouwman, C. (2006), The Measurement of Bank Liquydity Creation and the Effect of Capital. Bunda, I., Desquylbet, J-B., (2003), The bank liquydity smile across exchange rate regimes. Thứ ba, thực hiện việc cải cách môi trường kinh doanh, cải cách thể chế theo hướng trong sạch, lành mạnh nhằm góp phần nâng cao hạn mức tín nhiệm quốc gia. Khi hạn mức tín nhiệm quốc gia được cải thiện, việc tiếp cận dòng vốn vay trên thị trường quốc tế trở nên dễ dàng hơn và chi phí thấp hơn. Việc tiếp cận nguồn vốn này chắc chắn sẽ bổ sung nguồn vốn đầu tư giúp nâng tầm chất lượng hạ tầng và góp phần thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước. Cuối cùng, các quốc gia cần nổ lực để kiểm soát tốt chỉ số giá và giữ lạm phát ở một mức thích hợp sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp gia tăng sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặc dù nghiên cứu này dựa được tính toán và dựa trên số liệu thống kê từ các nguồn đáng tin cậy nhưng tác giả tin rằng nghiên cứu này vẫn còn một số hạn chế nhất định. Một trong số đó chính là nghiên cứu chưa xét tới yếu tố cú sốc do khủng hoảng kinh tế năm 2008. Thứ hai là sự nghi ngờ về độ trễ nhất định về thời gian của các chỉ số này nhưng chưa được xem xét và đưa vào mô hình hồi quy. Hạn chế trên cũng là hướng nghiên cứu tiếp theol TÀI LIỆU THAM KHẢO Abdual Qayyam Khan & Naeem-ur-Rehman Khattak (2008), An Analysis of Short-Term Effect of Budget Deficits on Macroeconomics Variables: Evidence from Pakistan (1960-2005). Abdul Khaliq, Ilan Noy (2007), Foreign Direct Investment and Economic Growth: Empirical Evidence from Sectoral Data in Indonesia. Barro, Robert (1995), Inflation and Economic Growth. Brender, A., Pisani, F., Ganga, E. (2013), The Sovereign Debt Crisis Placing a Curb on Growth. Dr Muhammad Ramzan, Sarfra Saleem, Izhar Mazhar Butt (5/2013), Budget Deficit and Economic Growth: A Case Study of Pakistan Fisher, Standley (1993), The role of Macroeconomic Factors in Growth. Goher Fatima, M.A (2012), Consequential Effect of Budget Deficit on Economic growth of Pakistan Haruna Mohammed Aliero, Yahya Zakari Abdullahi, Nasiru Adamu (2013), Private Sector Creditand Economic Growth Nexus in Nigeria: An Autoregressive Distributed Lag Bound Approach. Tác động của thâm hụt... (Tiếp theo trang 23)
File đính kèm:
- cac_yeu_to_anh_huong_den_thanh_khoan_cua_cac_ngan_hang_thuon.pdf