Cơ sở lí luận về năng lực tư duy logic trong nghiên cứu khoa học

Abstract: The competency and thinking level must be constantly trained to improve. The practice

of thinking in general and logical thinking in particular must be started from the time a person can

perceive. In order to train logical thinking, the people must have basic knowledge of logical

science, first of all formal logic through learning activities, scientific research and application in

work and life. Researching the theoretical basis of logical thinking competency in scientific

research will contribute to improving the accuracy, uniformity, continuity, thoroughness,

reasonableness of arguments, enhancing efficiency and belief in set goals.

pdf 6 trang yennguyen 8660
Bạn đang xem tài liệu "Cơ sở lí luận về năng lực tư duy logic trong nghiên cứu khoa học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ sở lí luận về năng lực tư duy logic trong nghiên cứu khoa học

Cơ sở lí luận về năng lực tư duy logic trong nghiên cứu khoa học
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 180-184; 210 
180 
Email: huyen79hp@gmail.com 
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NĂNG LỰC TƯ DUY LOGIC 
TRONG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
Nguyễn Thu Huyền - Học viện Hành chính Quốc gia 
Ngày nhận bài: 03/6/2019; ngày chỉnh sửa: 20/6/2019; ngày duyệt đăng: 16/7/2019. 
Abstract: The competency and thinking level must be constantly trained to improve. The practice 
of thinking in general and logical thinking in particular must be started from the time a person can 
perceive. In order to train logical thinking, the people must have basic knowledge of logical 
science, first of all formal logic through learning activities, scientific research and application in 
work and life. Researching the theoretical basis of logical thinking competency in scientific 
research will contribute to improving the accuracy, uniformity, continuity, thoroughness, 
reasonableness of arguments, enhancing efficiency and belief in set goals. 
Keywords: Competence, logical thinking, scientific research. 
1. Mở đầu 
Con người muốn tồn tại và phát triển không thể 
không tư duy. Tư duy định hướng, chỉ đạo mọi hoạt động 
sống và luôn vận động cùng với sự phát triển của chính 
con người và xã hội nhưng năng lực và trình độ tư duy 
lại phụ thuộc nhiều vào những điều kiện khách quan và 
chủ quan, trong đó vai trò của yếu tố chủ quan đặc biệt 
quan trọng. 
Năng lực và trình độ tư duy phải được con người 
thường xuyên rèn luyện mới có thể ngày một nâng cao. 
Sự rèn luyện về tư duy nói chung và tư duy logic nói 
riêng phải được bắt đầu từ khi con người có thể nhận 
thức. Để rèn luyện tư duy logic, con người phải có những 
tri thức cơ bản về khoa học logic, trước hết là logic hình 
thức thông qua các hoạt động học tập, nghiên cứu khoa 
học (NCKH) và vận dụng trong công việc, đời sống. 
 Nhiệm vụ cơ bản của tư duy logic trong NCKH là 
làm sáng tỏ con đường đạt tới mục tiêu nghiên cứu bằng 
các thao tác logic và phương pháp lập luận chuẩn xác. 
Tri thức logic học góp phần giúp cho con người nâng cao 
trình độ tư duy, tạo ra thói quen suy nghĩ “thông minh” 
hơn, nâng cao tính chính xác, tính đồng nhất, tính liên 
tục, triệt để, tính có căn cứ của lập luận, tăng cường tính 
hiệu quả và niềm tin vào mục tiêu đặt ra. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Một số khái niệm 
2.1.1. Năng lực 
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Năng lực là đặc 
điểm của cá nhân thể hiện mức độ thông thạo, nghĩa là 
có thể thực hiện một cách thành thục và chắc chắn một 
số dạng hoạt động nào đó” [1; tr 41]. 
Theo cách hiểu thông thường, năng lực là sự kết hợp 
của tư duy, khái niệm và thái độ có sẵn hoặc ở dạng tiềm 
năng có thể học hỏi được của một cá nhân hoặc tổ chức 
để thực hiện thành công nhiệm vụ. Nói một cách khác, 
năng lực là “khả năng vận dụng những kiến thức, kinh 
nghiệm, kĩ năng, thái độ và sự đam mê để hành động một 
cách phù hợp và có hiệu quả trong các tình huống đa 
dạng của cuộc sống”. 
Trần Khánh Đức đã nêu rõ năng lực là “khả năng tiếp 
nhận và vận dụng tổng hợp, có hiệu quả mọi tiềm năng 
của con người (tri thức, kĩ năng, thái độ, thể lực, niềm 
tin...) để thực hiện có chất lượng và hiệu quả công việc 
hoặc đối phó với một tình huống, trạng thái nào đó trong 
cuộc sống và lao động nghề nghiệp của mỗi cá nhân theo 
các chuẩn mực nhất định” [2; tr 29]. 
Bernd Meier và Nguyễn Văn Cường cho rằng năng 
lực là khả năng thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả các 
hành động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề trong những 
tình huống khác nhau thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, xã 
hội hay cá nhân trên cơ sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và 
kinh nghiệm cũng như sẵn sàng hành động [3]. 
Theo tác giả Đinh Quang Báo, dù năng lực được định 
nghĩa ở dưới góc độ nào thì nó cũng thể hiện những đặc 
điểm chung, cơ bản sau đây [4]: 
- Nói đến năng lực là đề cập tới xu thế đạt được một 
kết quả nào đó của một công việc cụ thể, do một con 
người cụ thể thực hiện (năng lực học tập, năng lực tư duy, 
năng lực tự quản lí bản thân,...). Do đó, không tồn tại 
năng lực chung chung. 
- Nói đến năng lực là nói đến sự tác động của một cá 
nhân cụ thể tới một đối tượng cụ thể (kiến thức, quan hệ 
xã hội,...) để có một sản phẩm nhất định. Do đó, có thể 
dựa vào đó để phân biệt người này với người khác. 
- Năng lực là một yếu tố cấu thành trong một hoạt 
động cụ thể. Năng lực chỉ tồn tại trong quá trình vận 
động, phát triển của một hoạt động cụ thể. Vì vậy, năng 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 180-184; 210 
181 
lực vừa là mục tiêu, vừa là kết quả hoạt động, nó là điều 
kiện của hoạt động nhưng cũng phát triển trong chính 
hoạt động đó. 
Như vậy, cho dù là khó định nghĩa năng lực một cách 
chính xác nhất nhưng các nhà nghiên cứu đã có cách hiểu 
tương tự nhau về vấn đề này. Tựu chung lại, theo chúng 
tôi, năng lực là tích hợp các kĩ năng tác động một cách 
tự nhiên lên các nội dung trong một loạt các tình huống 
cho trước để giải quyết những vấn đề do những tình 
huống đặt ra. 
2.1.2. Tư duy và tư duy logic 
2.1.2.1. Tư duy 
Trong thực tiễn, có rất nhiều điều ta chưa biết, chưa 
hiểu. Song để làm chủ được thực tiễn, con người cần phải 
hiểu thấu đáo những cái chưa biết đó, phải vạch ra cái 
bản chất, mối quan hệ có tính quy luật của chúng. Quá 
trình đó gọi là tư duy. 
Sinh lí học xem tư duy là một hoạt động của một số 
hệ thần kinh có ở trung ương thần kinh. Hệ thần kinh hoạt 
động theo nguyên lí: các tế bào thần kinh tiếp nhận kích 
thích và lại phát ra một kích thích thứ cấp. Khi các tế bào 
thần kinh hoạt động cũng là lúc chúng thực hiện một 
chức năng nào đó như là: ghi nhớ, phân tích, so sánh, 
đánh giá, tổng hợp,... nghĩa là hệ thần kinh phải tư duy. 
Tư duy không chỉ gắn với bộ não của từng cá thể người 
mà còn gắn với sự tiến hóa của xã hội, trở thành một sản 
phẩm có tính xã hội trong khi vẫn duy trì được tính cá thể 
của một con người nhất định. 
Triết học nghiên cứu tư duy dưới góc độ lí luận nhận 
thức, tư duy được hình thành trong quá trình nhận thức 
và hoạt động thực tiễn của con người. Tư duy và hoạt 
động thực tiễn của con người có sự gắn bó chặt chẽ và 
liên hệ biện chứng với nhau. 
Trong phạm vi bài viết, chúng tôi chọn hướng tiếp 
cận theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt: “Tư duy là 
giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào bản 
chất và phát hiện ra tính quy luật bên trong những hình 
thức như biểu tượng, khái niệm, phán đoán và suy lí” 
[5; tr 1070]. 
2.1.2.2. Tư duy logic 
Theo Vương Tấn Đạt, tư duy logic là tư duy chính 
xác, theo các quy luật, không phạm phải những sai lầm 
trong lập luận, biết phát hiện ra những mâu thuẫn, phẩm 
chất đó của tư duy có giá trị lớn trong bất kì lĩnh vực hoạt 
động khoa học và thực tiễn nào. Tư duy logic của con 
người không phải là bẩm sinh, nó phải được hình thành, 
rèn luyện, củng cố và phát triển thường xuyên [6]. 
Lê Doãn Tá và cộng sự cho rằng tư duy logic là tư 
duy chính xác, tuân thủ các quy luật và hình thức logic 
trên cơ sở tiền đề tư duy chân thực, giúp con người không 
phạm phải sai lầm trong lập luận và biết phát hiện ra mâu 
thuẫn. Các quy luật cơ bản của tư duy logic yêu cầu trong 
quá trình tư duy phải giữ vững một cách nghiêm ngặt tính 
đồng nhất của các tiền đề, từ đó kết luận rút ra mới đúng 
đắn. Nếu trong quá trình lập luận mà đánh tráo, thay đổi 
nội dung các tiền đề thì không thể nào đi đến kết luận 
chính xác. Các quy luật này có tính chất bắt buộc trong 
một dạng kết cấu của tư duy chính xác ở điều kiện phản 
ánh cái ổn định tương đối mà tất cả mọi người, mọi ngành 
khoa học đều phải tuân theo [7]. 
Trên cơ sở đó, chúng tôi đưa ra khái niệm về tư duy 
logic như sau: Tư duy logic là quá trình nhận thức đối 
tượng, xác định các yếu tố liên quan đến hình thành và 
kết nối các ý tưởng, nhằm tìm kiếm giải pháp và hành 
động phù hợp với ngữ cảnh của đối tượng. 
2.1.3. Các thao tác tư duy logic 
Theo tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc [8] và Nguyễn 
Quang Uẩn [9] thì tư duy logic được xác định bởi các kĩ 
năng sau: 
- Phân tích là sự phân chia trong tư duy đối tượng hay 
hiện tượng thành những yếu tố hợp thành, các dấu hiệu, 
các đặc tính riêng biệt của đối tượng hay hiện tượng đó 
thành những yếu tố nhỏ hơn hoặc những mối quan hệ 
giữa toàn thể và bộ phận, quan hệ giống, loài. 
- Tổng hợp là hoạt động tư duy logic dùng trí óc để 
hợp nhất các thành phần, kết hợp các bộ phận, các yếu tố 
đã được phân tích để nhận thức, để hiểu sự vật, hiện 
tượng trong một chỉnh thể. Để nhận thức đầy đủ sự vật, 
hiện tượng, con người thường bắt đầu xem xét từ một 
tổng thể toàn vẹn, nghĩa là tổng hợp sơ bộ, sau đó mới 
phân tích từng yếu tố, cuối cùng tổng hợp cao hơn, đầy 
đủ hơn. 
- So sánh là quá trình chia tách riêng các đối tượng, 
đặt chúng song song, nghiên cứu kĩ chúng, trên cơ sở dấu 
hiệu đặc trưng đã biết của sự vật, hiện tượng, tìm ra dấu 
hiệu tượng tự với nó ở sự vật, hiện tượng khác. Nói cách 
khác, so sánh thực ra là phân tích song song hai đối 
tượng, hai vấn đề trên cơ sở giống nhau và khác nhau 
giữa chúng, tức là ta đem sự vật này ra đặt sóng đôi với 
sự vật khác, đối chiếu chúng với nhau, phân tích kĩ từng 
sự vật, khám phá chúng, dùng trí óc để tìm hiểu các sự 
vật, hiện tượng đem so sánh có điểm chung nào đấy về 
thuộc tính bên ngoài hay bản chất bên trong. Tuỳ theo 
mục đích và đối tượng mà phương pháp so sánh có thể 
nặng về sự giống nhau hay sự khác nhau; ví dụ muốn so 
sánh sự khác nhau chủ yếu dùng trong phân tích, còn so 
sánh điểm giống nhau chủ yếu dùng trong tổng hợp. Như 
vậy, so sánh là một thao tác của hoạt động tư duy logic 
nhằm giúp con người tìm ra những điểm tương đồng và 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 180-184; 210 
182 
khác biệt khi đưa đối tượng này ra đối chiếu với đối 
tượng khác dựa trên một tiêu chí nào đó, từ đó nhận thức 
sâu sắc và làm nổi bật đối tượng. 
- Trừu tượng hoá là dùng trí óc để gạt bỏ những yếu 
tố, những thuộc tính, những liên hệ thứ yếu, không cần 
thiết của sự vật, hiện tượng và chỉ giữ lại những yếu tố 
cần thiết cho tư duy. 
- Khái quát hoá là dùng trí óc để hợp nhất nhiều 
đối tượng khác nhau thành một nhóm, một loại theo 
những thuộc tính, những quan hệ chung nhất, bản chất 
nhất. Muốn vạch ra những dấu hiệu bản chất thì phải 
có sự phân tích - tổng hợp sâu sắc sự vật, hiện tượng 
định khái quát. 
- Hệ thống hóa là một thao tác trí tuệ “sắp xếp” các 
loại hiện tượng, đối tượng thành một hệ thống trên cơ sở 
những cái chung. Hệ thống hóa có thể được thực hiện 
dưới hình thức phân chia đối tượng riêng nào đó ra các 
bộ phận, các lớp nhất định hoặc dưới dạng sắp xếp tư liệu 
vào các hệ thống nhất định nào đó. Điều kiện để tiến hành 
hệ thống hóa là đối tượng phải có khả năng phân chia, 
hoặc tập hợp các phần tử riêng lẻ cho trước phải có sự 
liên kết chặt chẽ. 
2.1.4. Năng lực tư duy logic 
Tác giả Hoàng Thúc Lân cho rằng, năng lực tư duy 
logic là khả năng nắm bắt và vận dụng những tri thức vào 
cuộc sống của con người; là năng lực phản ánh bằng liên 
tưởng, phát hiện và xử lí thông tin trong những tình 
huống, những hoàn cảnh cụ thể. Năng lực tư duy logic 
không đơn giản chỉ dựa vào những năng lực sinh lí, thần 
kinh của bộ não mà nó còn thể hiện trên hai lĩnh vực nhận 
thức và vận dụng những tri thức vào thực tiễn. Tức là chủ 
thể vừa biết khái quát hoá những tri thức đồng thời vừa 
phải cụ thể hoá thành mục tiêu, phương hướng, giải pháp 
cụ thể để xử lí tốt những tình huống thực tế. Các phương 
pháp và hình thức của tư duy tạo thành cơ chế vận hành 
trong hoạt động nhận thức và cũng là công cụ, phương 
thức để thực hiện năng lực tư duy logic. Một mặt, nó giúp 
chủ thể tư duy huy động, sử dụng thành thạo toàn bộ trí 
lực để nhận thức bản chất, phương thức tồn tại của sự vật. 
Mặt khác, nó cụ thể hoá nhận thức đó để chỉ đạo hành 
động thực tiễn của con người [10]. 
Dựa trên hai cơ sở, khái niệm về tư duy logic của tác 
giả Hoàng Thúc Lân và phân tích các giai đoạn của tư 
duy logic của Platônôp, chúng tôi đưa ra khái niệm về 
năng lực tư duy logic như sau: Năng lực tư duy logic là 
khả năng chủ thể nhận thức đối tượng, xác định các yếu 
tố liên quan đến hình thành và kết nối các ý tưởng, nhằm 
tìm kiếm giải pháp và hành động phù hợp với ngữ cảnh 
của đối tượng. 
2.1.5. Khoa học và nghiên cứu khoa học 
2.1.5.1. Khoa học 
Có nhiều cách tiếp cận khái niệm này: 
- Tiếp cận nội dung: Khoa học là hệ thống tri thức về 
thế giới khách quan. 
- Tiếp cận nhận thức: Khoa học là một quá trình nhận 
thức (tìm tòi, phát hiện những quy luật của thế giới khách 
quan). 
- Tiếp cận hoạt động: Khoa học là một dạng hoạt 
động đặc thù của con người nhằm nhận thức về thế giới 
khách quan. 
- Một số cách tiếp cận khác: 
+ Triết học: Khoa học là một hình thái ý thức xã hội. 
+ Nghĩa thông thường: Khoa học là sự sắp xếp hợp 
lí, logic theo trật tự. 
Đặc điểm của khoa học: 
- Khoa học có nguồn gốc từ thực tiễn, được kiểm 
nghiệm trong thực tiễn và được vận dụng vào thực tiễn. 
- Khoa học không có giới hạn trong sự phát triển, nó 
luôn vận động, càng ngày càng hoàn thiện cùng khả năng 
nhận thức và trình độ phát triển. 
- Khoa học ngày càng được ứng dụng nhanh trong 
thực tiễn. 
2.1.5.2. Nghiên cứu khoa học 
NCKH là quá trình nhận thức hướng vào việc khám 
phá những thuộc tính, bản chất của sự vật, hiện tượng 
trong thế giới khách quan nhằm phát triển nhận thức 
khoa học về thế giới. 
Bản chất của NCKH là hoạt động sáng tạo của con 
người nhằm nhận thức thế giới, tạo ra hệ thống tri thức 
có giá trị để sử dụng vào cải tạo thế giới. 
- Chức năng của NCKH: 
+ Mô tả: Trình bày lại những kết quả nghiên cứu một 
hiện tượng hay một sự kiện khoa học làm sao cho đối 
tượng đó được thể hiện đến mức độ nguyên bản tối đa. 
+ Giải thích: Khoa học không chỉ phản ánh trung thực 
các sự kiện của hiện thực mà còn tìm ra nguồn gốc phát 
sinh, phát triển, mối quan hệ của sự kiện với các sự kiện 
khác, với môi trường xung quanh, những điều kiện, 
nguyên nhân, những hệ quả đã hoặc có thể xảy ra. 
+ Phát hiện: khám phá ra bản chất, các quy luật vận 
động và phát triển của sự vật hiện tượng. Phát hiện khoa 
học là trình độ nhận thức sáng tạo cao nhất của con 
người. Kết quả là nêu các khái niệm, phạm trù, các lí 
thuyết khoa học, quy trình công nghệ mới... 
Mục đích của NCKH không chỉ nhằm vào việc nhận 
thức thế giới mà còn cải tạo thế giới và một khoa học đích 
thực thì luôn vì cuộc sống của con người. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 180-184; 210 
183 
2.1.6. Năng lực tư duy logic trong nghiên cứu khoa học 
Trên cơ sở phân tích khái niệm năng lực tư duy logic 
và NCKH, chúng tôi xác định khái niệm năng lực tư 
duy logic trong NCKH như sau: Năng lực tư duy logic 
trong NCKH là khả năng chủ thể nhận thức đối tượng, 
xác định các yếu tố liên quan đến hình thành và kết nối 
các ý tưởng, tìm kiếm giải pháp và hành động phù hợp 
với ngữ cảnh của đối tượng để nhận thức và khám phá 
những thuộc tính, bản chất của sự vật, hiện tượng trong 
thế giới khách quan nhằm phát triển nhận thức khoa 
học về thế giới. 
Tư duy logic là một bộ phận của tư duy khoa học. 
Chính vì vậy, để nâng cao năng lực NCKH thì việc nâng 
cao năng lực tư duy logic có vai trò hết sức quan trọng. 
Trong quá trình hình thành, phát triển của mình, mỗi 
khoa học đều có đối tượng riêng, phương pháp riêng. 
Song, tất cả các khoa học với hệ thống tri thức đồ sộ của 
chúng đều là kết quả của hoạt động tư duy khoa học của 
con người. Cũng chính vì vậy mà các khoa học đều phải 
dựa vào “những cơ sở” chung của tư duy khoa học - đó 
là những thao tác cơ bản của tư duy nhận thức, tức là tư 
duy logic. Từ đó có thể thấy, chúng ta không thể tiến hành 
các hoạt động NCKH mà lại không nắm vững “những cơ 
sở” chung đó. Nói cách khác, để có NCKH có kết quả tốt 
chúng ta phải thông thạo tư duy logic. 
Tư duy logic có tác động to lớn đến hoạt động nhận 
thức. Điều này được biểu hiện ở những khía cạnh sau: 
Thứ nhất, tư duy logic cho ta một sự hiểu biết 
tương đối đầy đủ và có hệ thống về các vấn đề chúng 
ta đang nhận thức. Có tư duy logic, chúng ta sẽ hiểu 
được hệ thống các quy luật, quy tắc của vấn đề chúng 
ta nghiên cứu. 
Trong cuộc sống hằng ngày, mọi hoạt động của con 
người đều thông qua tư duy của họ. Khác với hành động 
của con vật mang tính bản năng, hành động của con 
người luôn mang tính tự giác. Con người, trước khi bắt 
tay vào hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới, đều đã có 
sẵn dự án trong đầu. Sự khác biệt ấy là vì con người có 
tư duy và biết vận dụng sức mạnh của tư duy vào việc 
thực hiện các mục đích của mình. Trong quá trình hoạt 
động đó, con người dần dần phát hiện ra các thao tác 
của tư duy. Song, sự phát hiện ấy mang tính rời rạc, 
không có hệ thống và đôi khi chưa được hiểu thấu một 
cách rõ ràng. 
Trong hoạt động nhận thức cũng vậy, khi con người 
tiến hành các hoạt động nhận thức khoa học, hoạt động 
của họ trong từng thời điểm thường tập trung vào một 
lĩnh vực nào đấy, chẳng hạn nhận thức vật lí tập trung 
vào hình thái vận động vật lí... Trong những hoạt động 
nhận thức ấy, con người cũng dần dần phát hiện ra các 
thao tác của tư duy. Tuy nhiên, cũng giống như hoạt động 
thực tiễn, sự phát hiện của con người trong các trường 
hợp này không mang tính hệ thống. 
Với tư cách một khoa học về tư duy đúng đắn, ngay 
từ khi mới ra đời, logic học đã đặt ra nhiệm vụ nghiên 
cứu một cách có hệ thống các đặc trưng, các thao tác của 
tư duy và trình bày chúng dưới dạng các quy luật, quy tắc 
của logic học. Như vậy, rèn luyện để có tư duy logic 
không chỉ là con đường ngắn nhất mà còn là con đường 
tối ưu để hiểu biết sâu sắc các đặc trưng, các thao tác của 
tư duy. Trên cơ sở đó, nó cho phép chúng ta vận dụng 
một cách tự giác các đặc trưng và thao tác vào hoạt động 
nhận thức về hiện thực khách quan. 
Hơn thế nữa, tư duy logic còn giúp cho con người 
không chỉ nắm vững mà còn rèn luyện các kĩ năng, kĩ 
xảo tư duy, thành thạo và nâng cao khả năng vận dụng 
các quy luật, quy tắc của sự vật hiện tượng vào hoạt động 
nhận thức, cũng như vận dụng các tri thức vào hoạt động 
thực tiễn vì những lợi ích của cá nhân và xã hội. 
Thứ hai, cùng với sự phát triển của thực tiễn và của 
nhận thức, con người càng ngày càng có sự hiểu biết đầy 
đủ hơn, sâu sắc hơn, chính xác hơn về bản thân tư duy. 
Chính quá trình hiểu biết ấy là cơ sở tạo ra sự phát triển 
của tư duy logic. Ngày nay, dưới tác động của cách mạng 
khoa học - công nghệ hiện đại, tư duy logic phát triển hết 
sức mạnh mẽ giúp cho con người ngày càng đi hơn sâu 
vào nhận thức các bí mật của thế giới khách quan. 
Từ sự phân tích trên, chúng tôi nhận thấy trong 
NCKH có năng lực tư duy logic sẽ giúp chúng ta: 
- Phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa và hệ 
thống hóa để chuyển các tri thức sang một tình huống mới. 
- Tái hiện kiến thức, thiết lập nhanh chóng các mối 
quan hệ bản chất và giải quyết hiệu quả những tình huống 
cụ thể. 
- Phát hiện cái chung của các hiện tượng khác nhau, 
sự khác nhau giữa các hiện tượng tương tự. 
- Áp dụng kiến thức vào thực tiễn một cách nhanh 
chóng, nhuần nhuyễn. 
- Luôn suy nghĩ về cách tư duy, cách giải quyết vấn 
đề, từ đó rút ra những nhận xét về quy trình tư duy. 
- Tư duy logic tốt sẽ là điều kiện tiên quyết giúp 
chúng ta trở thành những công dân tốt, luôn có quan 
điểm, tư tưởng, hành vi và thái độ tiến bộ, có tính cộng 
đồng cao. 
- Người có tư duy logic tốt sẽ có điều kiện tốt hơn để 
thành công, bởi họ có khả năng nhận thức đúng bản chất 
sự vật, hiện tượng, có những phương án và cách thức giải 
quyết vấn đề hiệu quả, vận dụng kiến thức lí thuyết vào 
giải quyết các vấn đề trong thực tiễn. 
- Người tư duy logic tốt sẽ luôn tự điều chỉnh để có 
trạng thái tâm lí tốt, giải quyết các vấn đề đặt ra với hiệu 
quả cao nhất. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 180-184; 210 
184 
Vì những lí do nêu trên, mỗi cán bộ, công chức, viên 
chức, giảng viên và học viên cần phải rèn luyện để có tư 
duy logic tốt mới có thể đáp ứng được những yêu cầu 
thực tiễn hiện nay nói chung và trong công tác NCKH 
nói riêng. 
2.2. Các yếu tố cấu thành năng lực tư duy logic trong 
nghiên cứu khoa học 
Dựa vào các khái niệm về năng lực, năng lực tư duy 
logic và năng lực tư duy logic trong NCKH đã nêu ở trên, 
chúng tôi xác định các yếu tố cấu thành năng lực tư duy 
logic trong NCKH như sau: 
2.2.1. Khả năng nhận diện đối tượng cần nghiên cứu 
Đây là khả năng chủ thể nhận biết sơ bộ, đưa ra 
những nhận định sơ bộ hay giả định có giá trị về đối 
tượng cần nghiên cứu. Quá trình nhận diện đối tượng có 
thể được thực hiện theo logic các hành động sau: Tiếp 
cận đối tượng → định dạng đối tượng, hoặc gọi tên đối 
tượng → xác định vai trò/nhiệm vụ của việc nghiên cứu 
đối tượng. 
Trong NCKH, chúng ta cần có những suy luận logic 
trên cơ sở lí thuyết đã biết để nhận diện đối tượng. 
2.2.2 Khả năng tự đặt câu hỏi, câu trả lời dự kiến liên 
quan đến đối tượng cần nghiên cứu 
Đây là khả năng chủ thể đưa ra những thắc mắc, 
những câu hỏi, câu trả lời có liên quan đến đối tượng. Để 
có thể tự đặt ra các câu hỏi, người học cần thực hiện theo 
logic cụ thể sau: Từ tên gọi của đối tượng và giá trị nhiệm 
vụ của việc nghiên cứu đối tượng → đề xuất các câu hỏi 
về đặc điểm, đặc trưng của đối tượng → đặt các câu 
hỏi/đưa ra các câu trả lời liên quan để xác định cách tìm 
hiểu đối tượng (sử dụng tài liệu, phương tiện, công cụ, 
biện pháp nào...). 
2.2.3. Khả năng hình thành, kết nối các ý tưởng trong 
nghiên cứu khoa học 
Đây là khả năng chủ thể tìm kiếm/huy động những 
kiến thức liên quan đến đối tượng nghiên cứu và đề xuất 
các giải pháp/cách thức nghiên cứu đối tượng. Quá trình 
hình thành, kết nối ý tưởng trong NCKH được người học 
thực hiện theo logic sau: Từ đặc điểm, đặc trưng của đối 
tượng → xác định được những đối tượng liên quan đến 
đối tượng đang nghiên cứu/tìm hiểu → huy động kiến 
thức đã biết về đối tượng (đã có kinh nghiệm nghiên cứu 
đối tượng tương tự chưa? có thể học kinh nghiệm tìm 
hiểu đối tượng từ ai, bằng cách nào?) → hình dung ra các 
bước cụ thể để tìm hiểu đối tượng → đưa ra các giải pháp 
có thể sử dụng để nghiên cứu/tìm hiểu đối tượng. 
2.2.4. Khả năng tìm kiếm giải pháp và hành động trong 
nghiên cứu khoa học 
Đây là khả năng giúp chủ thể chọn ra một giải pháp 
tốt và sử dụng các phương tiện để thực hiện có hiệu quả 
giải pháp đó. Từ các ý tưởng đã đề xuất, người học lựa 
chọn một giải pháp được cho là tốt nhất → lên kế hoạch 
thực hiện giải pháp → thực hiện giải pháp đã chọn. 
2.2.5. Khả năng phân tích, đánh giá và rút kinh nghiệm 
trong nghiên cứu khoa học 
Khả năng này giúp chủ thể xử lí các kết quả thu được, 
trình bày được mối quan hệ giữa các kết quả (vẽ bảng, 
biểu, sơ đồ, biểu đồ, đồ thị...); phân tích mối quan hệ nhân 
quả để rút ra tính quy luật; đưa ra những kết luận có giá 
trị từ kết quả thu được; suy ngẫm và rút kinh nghiệm cho 
bản thân. 
Để phân tích được kết quả thu được và rút ra kinh 
nghiệm cũng như kết luận, cần sử dụng các thao tác tư 
duy để phân tích giải pháp, xem xét mức độ đạt được của 
giải pháp → suy ngẫm về giải pháp thực hiện và rút ra 
kinh nghiệm → giải thích kết quả thu được và khái quát 
giải pháp thành quy trình áp dụng cho các đối tượng 
tương tự. 
2.2.6. Khả năng vận dụng, tổng kết thực tiễn, khái quát 
lí luận 
Việc nhận thức, phát hiện tri thức mới cũng như sự 
vận dụng các tri thức đã có vào thực tiễn đòi hỏi chủ thể 
phải có khả năng tổng kết thực tiễn, khái quát về mặt lí 
luận. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn mà đánh giá tri thức, 
lí luận đã có để kịp thời điều chỉnh hành vi của chủ thể. 
Những sự không phù hợp giữa lí thuyết với thực tiễn có 
thể là do hai nguyên nhân: 1) Do sự vận dụng chưa đúng; 
2) Do lí thuyết không hợp lí. Trên cơ sở kết quả phân tích 
về sự không phù hợp ấy mà chủ thể (cá nhân, tập thể) có 
thể điều chỉnh hoạt động, cải biến cách thức vận dụng 
của mình, hoặc cũng có thể phải sửa đổi, bổ sung, phát 
triển lí thuyết. Hơn nữa, với sự biến động của thực tiễn, 
chủ thể cần phải có năng lực tổng kết thực tiễn mới để 
xây dựng được lí thuyết phù hợp với thực tiễn mới. 
3. Kết luận 
Như vậy, tư duy logic cũng như bất kì loại tư duy nào 
khác đều có thể rèn luyện và phát triển. Tuy nhiên, hiệu 
quả và mức độ phát triển năng lực tư duy logic lại phụ 
thuộc vào sự lựa chọn biện pháp nào để cho hoạt động 
nhận thức phù hợp với từng nội dung cụ thể. Thực chất, 
rèn luyện kĩ năng tư duy là tạo điều kiện để nắm vững 
một hệ thống các thao tác nhằm làm sáng tỏ những thông 
tin chứa đựng trong nhiệm vụ nghiên cứu và đối chiếu 
chúng với hành động cụ thể. Để có năng lực tư duy logic 
trong NCKH cần phải: - Xây dựng biện pháp kích thích 
được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của chủ thể; 
- Gây ra các mâu thuẫn và các yêu cầu cho chủ thể; - Phải 
thể hiện rõ bản chất và mức độ kiến thức cần huy động; 
- Phải thể hiện rõ động cơ của chủ thể trong NCKH. 
(Xem tiếp trang 210) 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 205-210 
210 
tưởng liên quan 
đến toán học 
không biết 
hỏi như nào 
gia tranh luận. 
Có thể diễn đạt ý 
tưởng dưới sự 
trợ giúp của thầy 
cô hoặc bạn 
hỏi phù hợp với 
nội dung bài 
giải bài toán và 
tìm hiểu cách 
làm khác 
3. Kết luận 
Việc phát triển năng lực GTTH cho HS là rất cần thiết, 
giúp các em phát huy tối đa được khả năng tiếp thu thông 
tin và thể hiện tri thức của mình trong quá trình học Toán, 
đồng thời là cơ hội cho các em tự khẳng định mình và tự 
đánh giá nhau trong học tập. GTTH cũng giúp các em cởi 
mở và tự tin hơn về sự hiểu biết của bản thân đối với các 
vấn đề toán học, tạo nên một môi trường học tập thoải mái 
và thân thiện. Thông qua việc đánh giá năng lực GTTH 
của HS, giáo viên hiểu rõ hơn về năng lực học tập, trình 
độ cũng như những ưu điểm và hạn chế trong học tập toán, 
từ đó quyết định được phương pháp và nội dung giảng dạy 
phù hợp với đối tượng HS tiểu học. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Hymes, D.H. (1971). On Communicative 
Competence. In: J.B. Pride and J. Holmes (eds) 
Sociolinguistics, Penguin Books, Hardmondsworth. 
[2] National Council of Teachers of Mathematics 
(NCTM, 2000). Principles and Standards for 
School mathematics. Reston, VA: Author. 
www.nctm.org. 
[3] Brandee Wilson (2009) Mathematical 
Communication through Written and Oral 
Expression. Action Research Projects. 
( 
mathmidactionresearch/16). 
[4] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ 
thông môn Toán (Ban hành kèm theo Thông tư số 
32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ 
trưởng Bộ GD-ĐT). 
[5] Hoa Ánh Tường (2014). Sử dụng nghiên cứu bài học 
để phát triển năng lực giao tiếp toán học cho học 
sinh trung học cơ sở. Luận án tiến sĩ, Trường Đại 
học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. 
[6] Vũ Quốc Chung (chủ biên, 2007). Phương pháp dạy 
học toán ở Tiểu học. NXB Giáo dục và NXB Đại 
học Sư phạm. 
[7] Savignon S. (1983). Communicating Competence: 
Theory and Classroom Practice. Addison Wesley, 
Reading. 
[8] Bùi Văn Nghị (2009). Vận dụng lí luận vào thực tiễn 
dạy học môn Toán ở trường phổ thông. NXB Đại 
học Sư phạm. 
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NĂNG LỰC TƯ DUY 
(Tiếp theo trang 184) 
Tài liệu tham khảo 
[1] Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách 
khoa Việt Nam (2005). Từ điển Bách khoa Việt Nam 
(tập 3). NXB Từ điển Bách khoa. 
[2] Trần Khánh Đức - Trịnh Văn Minh (2013). Nghiên 
cứu nhu cầu và xây dựng mô hình đào tạo theo năng 
lực trong lĩnh vực giáo dục. Đề tài khoa học cấp Đại 
học Quốc gia Hà Nội, mã số QGTĐ.11.19. 
[3] Bernd Meier - Nguyễn Văn Cường (2016). Lí luận 
dạy học hiện đại - Cơ sở đổi mới mục tiêu nội dung 
và phương pháp dạy học. NXB Đại học Sư phạm. 
[4] Đinh Quang Báo (2012). Những vấn đề chung về 
chương trình giáo dục phổ thông sau 2015. Tài liệu 
hội thảo “Đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ 
thông sau năm 2015”, Bộ GD-ĐT. 
[5] Hoàng Phê (2003). Từ điển tiếng Việt. NXB Đà Nẵng. 
[6] Vương Tấn Đạt (2007). Logic học đại cương. NXB 
Thế giới. 
[7] Lê Doãn Tá - Tô Duy Hợp - Vũ Trọng Dung (2007). 
Giáo trình logic học. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. 
[8] Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2009). Tâm lí học giáo dục. 
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 
[9] Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên, 2007). Giáo trình 
Tâm lí học đại cương. NXB Đại học Sư phạm. 
[10] Hoàng Thúc Lân (2012). Nâng cao năng lực tư duy 
logic với sinh viên khoa Giáo dục chính trị Trường Đại 
học Sư phạm Hà Nội hiện nay. Báo cáo tổng kết nghiên 
cứu khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
[11] Phan Duy Nghĩa (2010). Rèn luyện năng lực tư duy 
thông qua việc khai thác các bài toán. Tạp chí Giáo 
dục, số 247, tr 51-52; 55. 
[12] Lê Thanh Oai (2011). Rèn luyện kĩ năng tư duy cho 
học sinh trong dạy học Sinh học ở trung học phổ 
thông. Tạp chí Giáo dục, số 274, tr 45-48. 
[13] Nguyễn Thành Hưng (2009). Phát triển năng lực tư 
duy toán học cho học sinh ở trường trung học phổ 
thông. Luận án tiến sĩ Giáo dục học, Trường Đại học 
Sư phạm Hà Nội. 
[14] Phan Đức Duy (1999). Một số bài tập tình huống sư 
phạm rèn luyện cho sinh viên kĩ năng tư duy logic 
trong nghiên cứu khoa học. Luận án tiến sĩ Giáo dục 
học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfco_so_li_luan_ve_nang_luc_tu_duy_logic_trong_nghien_cuu_khoa.pdf