Đặc điểm của dịch ca khúc và bản dịch ca khúc Anh-Việt

Tóm tắt: Bài viết của chúng tôi trình bày đặc điểm của dịch ca khúc và bản dịch ca khúc Anh-Việt.

Trên cơ sở lý thuyết dịch ca khúc và chiến thuật dịch ca khúc của Peter Low, chúng tôi chọn 3 bản dịch ca

khúc Anh - Việt để tìm hiểu các đặc điểm trong chuyển dịch. Việc phân tích 3 bản dịch cho thấy bản dịch

nghĩa chứng tỏ sự giống nhau về mặt ngữ nghĩa như nội dung, nhân vật, kịch bản. Ở bản dịch phỏng, dịch

giả đã giữ lại được chủ điểm, kịch bản và nhân vật. Còn với bản dịch thoát ly, nội dung ca khúc được làm

mới hoàn toàn. Nghiên cứu còn chỉ ra rằng tất cả các bản dịch đều tuân theo nguyên lý Pentathlon mà Low

đề xuất - ưu tiên yếu tố giai điệu, các yếu tố còn lại hỗ trợ lẫn nhau. Kết quả nghiên cứu còn chỉ rõ vần điệu

là yếu tố khó đảm bảo nhưng trong ba bản dịch lời Việt vần điệu lại được đảm bảo rất tốt.

pdf 8 trang yennguyen 5980
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm của dịch ca khúc và bản dịch ca khúc Anh-Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm của dịch ca khúc và bản dịch ca khúc Anh-Việt

Đặc điểm của dịch ca khúc và bản dịch ca khúc Anh-Việt
ĐẶC ĐIỂM CỦA DỊCH CA KHÚC 
VÀ BẢN DỊCH CA KHÚC ANH-VIỆT
Đoàn Thúy Quỳnh*
Khoa Tiếng Anh, Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN, 
Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận bài ngày 17 tháng 1 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 27 tháng 3 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 29 tháng 3 năm 2019
Tóm tắt: Bài viết của chúng tôi trình bày đặc điểm của dịch ca khúc và bản dịch ca khúc Anh-Việt. 
Trên cơ sở lý thuyết dịch ca khúc và chiến thuật dịch ca khúc của Peter Low, chúng tôi chọn 3 bản dịch ca 
khúc Anh - Việt để tìm hiểu các đặc điểm trong chuyển dịch. Việc phân tích 3 bản dịch cho thấy bản dịch 
nghĩa chứng tỏ sự giống nhau về mặt ngữ nghĩa như nội dung, nhân vật, kịch bản. Ở bản dịch phỏng, dịch 
giả đã giữ lại được chủ điểm, kịch bản và nhân vật. Còn với bản dịch thoát ly, nội dung ca khúc được làm 
mới hoàn toàn. Nghiên cứu còn chỉ ra rằng tất cả các bản dịch đều tuân theo nguyên lý Pentathlon mà Low 
đề xuất - ưu tiên yếu tố giai điệu, các yếu tố còn lại hỗ trợ lẫn nhau. Kết quả nghiên cứu còn chỉ rõ vần điệu 
là yếu tố khó đảm bảo nhưng trong ba bản dịch lời Việt vần điệu lại được đảm bảo rất tốt.
Từ khoá: dịch ca khúc, phỏng dịch, nhạc nhẹ, ca khúc tiếng Anh, bản dịch lời Việt
1. Đặt vấn đề1
Dịch ca khúc là một lĩnh vực đang được 
quan tâm trong nghiên cứu dịch thuật và 
hoạt động dịch thuật. Ngoài việc dịch những 
loại hình ngôn bản như phóng sự, hợp đồng, 
quảng cáo, bài báo khoa học, sách, giáo trình 
để phục vục cho cuộc sống và sự phát triển 
của đất nước, các dịch giả còn đặc biệt quan 
tâm tới dịch các loại ngôn bản phục vụ cho 
đời sống tinh thần của người dân như các tác 
phẩm nghệ thuật, các tác phẩm văn học, thơ 
và đặc biệt là ca khúc. Các bản dịch ca khúc 
ra đời đồng nghĩa với việc nghiên cứu dịch 
ca khúc được quan tâm. Dịch ca khúc được 
nghiên cứu trong các lĩnh vực khác nhau như 
sư phạm, âm nhạc và dịch thuật. Trong lĩnh 
vực dịch thuật, các nghiên cứu về dịch ca khúc 
tập trung vào việc xác định bản dịch ca khúc 
là một bản dịch nghĩa, dịch phỏng hay là hoạt 
động viết lại. Bài viết sau đây của chúng tôi sẽ 
tập trung vào việc trả lời câu hỏi: Các bản dịch 
sao phỏng, dịch nghĩa và dịch thoát ly ca khúc 
được xác định trên cơ sở nào? Dịch ca khúc 
phải tuân theo những biện pháp và nguyên tắc 
* ĐT: 84-912548706
 Email: quynh.vnu297@gmail.com
nào? Dựa trên cơ sở đó, chúng tôi chọn ba bản 
dịch ca khúc tiếng Anh lời Việt của ba nhạc sĩ 
dịch giả Anh Bằng, Lê Hựu Hà và Phạm Duy 
để phân tích những đặc điểm về ngôn ngữ 
trong bản dịch, biện pháp được sử dụng để 
dịch và những nguyên lý tuân thủ trong dịch. 
Phương pháp nghiên cứu chúng tôi sử dụng là 
phương pháp miêu tả, so sánh và nghiên cứu 
được tiến hành theo cách tiếp cận định tính. 
Nghiên cứu mang lại giá trị hữu ích về mặt lý 
luận khi cung cấp cơ sở cho lý thuyết dịch ca 
khúc; về thực tiễn, nghiên cứu giúp cho các 
dịch giả ca khúc đưa ra những bản dịch chất 
lượng. Nguồn tư liệu gốc được lấy từ ấn bản 
“Học tiếng Anh qua những ca khúc nổi tiếng” 
của Nxb. Phương Đông xuất bản năm 2011. 
Nguồn tư liệu tiếng Việt được lấy từ trang 
web có uy tín “Nhạc ngoại lời Việt”, có kèm 
khuông nhạc và ghi tên nhạc sĩ sáng tác.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Quan niệm về dịch thuật và các biện pháp 
dịch thuật
Newmark (1985) quan niệm rằng: dịch 
thuật là “thay thế một văn bản viết hay diễn 
81Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 80-87
ngôn bằng một văn bản viết hay diễn ngôn có 
cùng nội dung trong ngôn ngữ khác” (tr. 119). 
Theo ông, mọi văn bản đều có thể dịch sang 
một ngôn ngữ khác. 
Theo Catford (1965), dịch thuật “là sự 
thay thế ngữ liệu trong một thứ tiếng (ngôn 
ngữ gốc) bằng ngữ liệu tương đương tiếng 
khác (ngôn ngữ đích)” (tr. 20). 
Cristal (1992) cho rằng: “Người dịch 
không những phải nắm vững ngôn ngữ nguồn, 
họ còn phải hiểu biết cặn kẽ một lĩnh vực xã 
hội, văn hoá và tình cảm cần thiết để chuyển 
tải sang ngôn ngữ đích nếu như muốn chuyển 
tải một cách có hiệu quả nhất” (tr.144). Như 
vậy, theo ông, dịch thuật phải tính đến các yếu 
tố như thành ngữ, điều kiêng kị, các lối sử 
dụng ngôn ngữ phù hợp ở ngôn ngữ đích.
Newmark (1988) đã đề ra 8 biện pháp 
dịch được chia thành hai đường hướng: dịch 
ngữ nghĩa (semantic translation) và dịch 
thông báo (communicative translation). Các 
biện pháp dịch này cũng được Lê Hùng Tiến 
(2007) đề cập rất rõ trong “Vấn đề phương 
pháp trong dịch thuật Anh - Việt” và Nguyễn 
Ninh Bắc (2014) đề cập trong “Biên dịch lời 
bài hát Anh-Việt, Việt-Anh”. 
Dịch ngữ nghĩa nhằm chuyển đổi phạm vi 
ngữ pháp ngữ nghĩa từ ngôn ngữ nguồn sang 
ngôn ngữ đích càng sát càng tốt. Dịch thông 
báo là cách dịch nhằm tạo cho người đọc bản 
dịch dễ tiếp nhận nhất, tương tự như người 
đọc ngôn ngữ gốc. Đối tượng hướng tới của 
hai đường hướng dịch này cũng khác nhau. 
Dịch ngữ nghĩa hướng tới việc tạo ra bản dịch 
sát với bản gốc về nội dung ngữ pháp, ngữ 
nghĩa, kể cả những nét nghĩa của nền văn hoá 
vốn có trong bản gốc. Dịch thông báo hướng 
tới sự truyền thông điệp, hướng tới tác động 
của nó đối với người tiếp nhận bản dịch, 
những nét nghĩa văn hoá trong bản dịch thông 
báo phải được dịch ở ngôn ngữ đích. Dịch ngữ 
nghĩa bao gồm: dịch đối từ (word-for-word 
translation), dịch sát nghĩa (literal translation), 
dịch trung thành (faithful translation) và dịch 
ngữ nghĩa (semantic translation). Dịch thông 
báo bao gồm: dịch thông báo (communicative 
translation), dịch đặc ngữ (idiomatic 
translation), dịch tự do (free translation) và 
dịch sao phỏng (adaptation), trong đó dịch sao 
phỏng là biện pháp dịch chủ yếu dùng để dịch 
thơ, ca khúc và kịch (Newmark, 1988). Biện 
pháp này cũng sẽ được trình bày cụ thể trong 
phần lý thuyết dịch ca khúc của Peter Low. 
2.2. Cơ sở lý thuyết về dịch ca khúc
2.2.1. Quan niệm về dịch ca khúc
Dịch ca khúc là một lĩnh vực nghiên cứu 
trong dịch thuật nhưng quan niệm về dịch ca 
khúc khác với quan niệm thông thường về 
dịch thuật. Dịch ca khúc tuân thủ những biện 
pháp và nguyên tắc riêng của nó. 
Ca khúc là thể loại văn bản mà hình thức 
(giai điệu) diễn đạt quan trọng hơn nội dung 
diễn đạt. Khi dịch lời bài hát, người dịch phải 
tạo ra sự tương đương về hình thức trong bản 
dịch qua việc khai thác các khả năng sẵn có 
của ngôn ngữ hoặc sáng tạo ra hình thức mới 
nếu cần thiết. Tương đương hình thức là tương 
đương mà cả ngôn ngữ gốc và ngôn ngữ dịch 
cũng có các đặc điểm thẩm mĩ do hình thức 
tạo ra (âm nhạc).
Peter Low, học giả Đại học New Zealand, 
là một trong những chuyên gia nghiên cứu 
dịch thuật và dịch ca khúc, đã áp dụng khung 
lý thuyết hệ thống của các nhà hình thức Nga 
từ những năm 1920 vào lý luận dịch ca khúc 
của mình, cho rằng: “Dịch ca khúc là sự diễn 
giải văn bản nguồn để tạo thành một văn bản 
đích sao cho có thể hát được”. Low (2005) 
còn định nghĩa bản dịch “có thể hát được” là 
“sự phù hợp về ngữ âm của lời bài hát được 
dịch” ( tr. 192-194).
Franzon (2008), một chuyên gia nghiên cứu 
dịch ca khúc người Thổ Nhĩ Kỳ, kế thừa quan 
điểm của Low, cho rằng “trong dịch ca khúc, 
người nhạc sĩ - người dịch có thể viết lời dựa 
theo bản nhạc gốc hoặc đưa ra lời mới sao cho 
có thể hát được theo bản nhạc gốc” (tr. 376). 
2.2.2. Các biện pháp dịch ca khúc
Theo Low (2005), dịch ca khúc là kiểu 
dịch đặc biệt mà văn bản đích được tạo ra có 
82 Đ.T. Quỳnh/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 80-87
thể không có liên quan đến ngữ nghĩa với văn 
bản gốc. Vì vậy ông cho rằng dịch ca khúc có 
ba biện pháp: dịch nghĩa, dịch sao phỏng và 
dịch thoát ly. Và đối với biện pháp dịch ca 
khúc, dịch giả dịch thành công một ca khúc 
có thể tự quyết định tính năng nào của văn 
bản gốc quan trọng và cần giữ lại. Các biện 
pháp dịch ca khúc của Low được mô tả cụ 
thể như sau:
Biện pháp dịch nghĩa: Dịch nghĩa của một 
ca khúc đề cập tới sự chuyển đổi lớn từ văn 
bản nguồn sang văn bản đích, cho phép sự 
trung thực về ngữ nghĩa. Ở đây, người ta có 
thể tìm thấy ở văn bản đích có nhiều sự giống 
nhau về mặt ngữ nghĩa như nội dung, nhân 
vật, kịch bản. 
Biện pháp dịch sao phỏng: Dịch sao phỏng 
một ca khúc đề cập tới sự chuyển đổi từ văn 
bản nguồn sang văn bản đích mà trong đó dịch 
giả chỉ giữ lại chủ điểm, kịch bản và nhân vật 
ở bản gốc khi dịch, các yếu tố văn hoá cũng 
đã được chuyển đổi thành yếu tố văn hoá của 
ngôn ngữ dịch. Đây là cách dịch mà dịch giả 
chủ yếu tập trung tái tạo nội dung được diễn 
đạt về hình thức. 
Biện pháp dịch thoát ly: Dịch thoát ly là 
biện pháp dịch mà bản dịch không mang bất 
kỳ độ trung thực về ngữ nghĩa hoặc cú pháp 
nào đối với văn bản nguồn. Ngược lại, văn 
bản thay thế là văn bản hoàn toàn mới được 
dịch để hát theo giai điệu có sẵn (Low, 2013). 
Điểm tương đồng duy nhất với văn bản nguồn 
là giai điệu. Tuy nhiên, khi phân tích, lời bài 
hát có cấu trúc khác nhau nhưng thông điệp 
cảm xúc trong ca khúc là độc nhất. Low chỉ 
ra rằng các dịch giả bài hát, những người có 
thể được coi là rành về chữ nghĩa, không cần 
biết ngôn ngữ nguồn và họ có xu hướng tạo ra 
lời bài hát mục tiêu theo cách đó. Như vậy, có 
những ca khúc dịch giả phóng tác mà không 
bám theo yếu tố ngôn ngữ và dịch thuật, chỉ 
mượn giai điệu nước ngoài để đặt lời mới cho 
ca khúc, qua đó truyền đạt những thông điệp 
văn hóa và xã hội khác nhau. Những biện pháp 
dịch ca khúc này tương tự như biện pháp dịch 
sao phỏng của Newmark (1988) mà chúng tôi 
đã đề cập trong phần lý luận ở trên.
2.2.3. Các nguyên tắc đảm bảo trong dịch 
ca khúc
Mục đích của dịch ca khúc là dịch sao 
cho người ta có thể hát được ca khúc đó 
ở bản nhạc có sẵn. Low (2005) đã đề xuất 
nguyên lý “Pentathlon Principles” (nguyên 
lý Pentathlon). Sở dĩ Low gọi là nguyên lý 
Pentathlon vì dịch giả ca khúc phải làm một 
việc có 5 phần, và 5 phần này được ví như 
năm môn thể thao phối hợp (Pentathlon) 
trong thi đấu thể thao Olympic. Nguyên lý 
Pentathlon trong dịch ca khúc gồm 5 yếu tố: 
giai điệu, nội dung, độ tự nhiên, nhịp điệu 
và vần điệu. Theo Nguyên lý Pentathlon, nếu 
người dịch muốn có một bản dịch với mục 
tiêu có thể hát được thì họ cần phải phối hợp 
được 5 yếu tố khi chuyển dịch là giai điệu, 
nội dung, độ tự nhiên, nhịp điệu và vần điệu, 
trong đó yếu tố giai điệu của văn bản gốc 
là quan trọng hơn cả và cần được đảm bảo. 
Các yếu tố còn lại có chức năng phối hợp với 
nhau và các yếu tố này hoàn toàn được điều 
chỉnh bởi dịch giả để tạo thành một bản dịch 
thành công. 
Giai điệu: Đây là yếu tố quan trọng nhất 
của dịch ca khúc mà Low đề xuất trong 
nguyên lý Pentathlon. Dịch sao cho bản nhạc 
có thể hát được như giai điệu của bản nhạc 
gốc. Khả năng có thể hát được được hiểu là 
sự phù hợp về ngữ âm của lời bài hát (Low, 
2005: 192-194).
Nội dung (nghĩa): Yếu tố thứ hai của 
nguyên lý Pentathlon là nội dung (nghĩa). 
Trong bản dịch ca khúc, người ta cho phép nắn 
chỉnh nội dung. Low nói rằng bản dịch bài hát 
là một bản dịch liên ngôn ngữ (interlingual). 
Điều này khiến một số dịch giả bài hát tạo ra 
một văn bản đích không liên quan đến ngữ 
nghĩa với bản gốc. Tuy nhiên theo quan điểm 
của Low, dịch giả không nên xem thường và 
bỏ qua nghĩa của văn bản nguồn. 
Tính tự nhiên: Yếu tố đứng thứ ba trong 
nguyên lý Pentathlon là tính tự nhiên. Tính tự 
nhiên được thể hiện ở sự sắp xếp trật tự của 
từ ngữ trong câu hát. Lúc này dịch giả phải 
đóng hai vai trò vừa là dịch giả vừa là khán 
83Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 80-87
giả thưởng thức ca khúc để thưởng thức xem 
từ ngữ trong từng câu hát có được tự nhiên 
hay không. Như vậy, nhiệm vụ của dịch giả 
là phải làm cho ca khúc tự nhiên ngay từ giây 
phút đầu tiên nghe ca khúc.
Nhịp điệu: Nhịp điệu là yếu tố khó đảm 
bảo nhất trong dịch ca khúc sang ngôn ngữ 
đích, đặc biệt là bản dịch giữa tiếng Việt và 
các thứ tiếng Ấn – Âu như tiếng Anh. Tiếng 
Việt cơ bản là thứ tiếng đơn âm và đa thanh, 
trong khi đó tiếng Anh là tiếng đa âm, đơn 
thanh. Do đó, từ ngữ của các ngôn ngữ này có 
nhịp điệu lên xuống khác nhau. Lúc này dịch 
giả vừa đóng vai trò là người sáng tác vừa là 
dịch giả để điều chỉnh nhịp điệu của từ ngữ 
trong ngôn ngữ đích cho phù hợp với nhạc cụ 
chơi trong bản nhạc đích và cho tương đương 
với giai điệu nhạc của bản nhạc nguồn. 
Vần điệu: Yếu tố cuối cùng là vần điệu. 
Đảm bảo được yếu tố vần trong lời ca là một 
nguyên tắc khá khó đối với dịch ca khúc vì 
dịch giả đã phải tuân theo nguyên tắc giai 
điệu, nội dung, độ tự nhiên hay nhịp điệu. Vì 
vậy, Low cho rằng vần điệu cũng là một yếu 
tố khó khi dịch ca khúc. Hầu hết các dịch giả 
bài hát có xu hướng tạo ra một bản dịch có 
những thay đổi lớn trong vần điệu hoặc không 
có vần điệu. Tuy nhiên, theo Low, nếu cứ tập 
trung vào các yếu tố khác mà bỏ qua vần điệu 
thì bản dịch sẽ không hấp dẫn. 
Chúng tôi đồng tình với quan điểm của 
Low về dịch ca khúc là việc chuyển dịch một 
bài hát từ ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ 
đích là cần phải bảo tồn giai điệu của bài hát 
ở ngôn ngữ gốc. Chúng tôi cũng đồng tình với 
những biện pháp dịch ca khúc mà Low đề ra 
đó là dịch nghĩa (translation), dịch sao phỏng 
(adaptation) và dịch thoát ly (replacement), 
đồng thời cũng đi theo quan điểm về yếu tố 
được ưu tiên trong dịch ca khúc là ưu tiên yếu 
tố giai điệu (singability) sau đó mới tới các 
yếu tố khác như yếu tố nội dung (sense), độ tự 
nhiên (naturalness), nhịp điệu (rhythm) và vần 
điệu (rhyme). Những yếu tố này phối hợp với 
nhau để tạo nên sự thành công của một bản 
dịch ca khúc.
2.3. Phân tích một số bản dịch lời Việt
Chúng tôi đã chọn ba bản dịch sau đây để 
phân tích các biện pháp dịch ca khúc theo mô 
hình lý thuyết của Low: Bản dịch “Tình nồng 
cháy” của nhạc sĩ Anh Bằng, bản dịch “Đồng 
xanh” của nhạc sĩ Lê Hựu Hà và bản dịch “Ôi 
giàn thiên lý đã xa” của nhạc sĩ Phạm Duy.
2.3.1. Về biện pháp dịch
Bản dịch “Tình nồng cháy” được Anh 
Bằng chuyển thể từ ca khúc “Over and Over” 
của tác giả nhạc sĩ - ca sĩ Nana Mouskour. 
Trong bản dịch, dịch giả Anh Bằng đã đảm 
bảo được một số điểm giống nhau về kịch bản, 
nhân vật (cô gái tự sự về chuyện tình yêu của 
mình) và đặc biệt dịch giả đảm bảo được nội 
dung ngữ nghĩa của bản gốc (những nhóm từ 
ngữ mang nghĩa biểu trưng trong tình yêu). 
Theo Lê Quang Thiêm (2008), “nói nghĩa 
biểu trưng là nói những mức độ của sự hình 
dung, tưởng tượng mà con người có thể nhận 
được khi liên hệ nghĩa với hình thức biểu hiện 
hoặc phạm vi tồn tại khác trong cuộc sống” 
(tr. 125). Đinh Văn Đức (2001) căn cứ vào ý 
nghĩa khái quát, khả năng kết hợp và chức vụ 
cú pháp đã chia từ vựng tiếng Việt thành 9 
nhóm từ loại gồm nhóm danh từ, động từ, tính 
từ, số từ, đại từ, phụ từ, kết từ, tình thái từ và 
thán từ. Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi 
đề cập tới ba nhóm từ loại chính mang nghĩa 
biểu trưng cho tình yêu là nhóm danh từ, động 
từ và tính từ. Như vậy, về nội dung ngữ nghĩa, 
bản dịch bảo tồn được (1) Nhóm động từ chỉ 
trạng thái (không thể, hy vọng, không dám), 
(2) nhóm động từ mang nghĩa biểu trưng của 
tình yêu (thì thầm, khóc, hôn, trao cho, chia 
tay, nuối tiếc ), (3) nhóm danh từ mang 
nghĩa biểu trưng cho tình yêu (cung hằng, kỷ 
niệm, giấc mơ, giọt lệ, tên, trái tim, mặt trăng, 
đôi mắt, tình yêu và (4) nhóm tính từ mang 
nghĩa biểu trưng cho tình yêu (vĩnh cửu, mãi 
mãi, ). Bản dịch “Tình nồng cháy” là một 
thí dụ điển hình cho biện pháp dịch sát nghĩa. 
Chúng ta có thể thấy rõ nội dung của bản dịch 
nghĩa qua một trích đoạn sau đây:
“I never dare to reach for the moon/ Em 
không mơ hoang kiếp sống trên cung hằng, 
84 Đ.T. Quỳnh/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 80-87
 I never thought I’d know heaven so 
soon/ Em không tham lam diễm phúc trên 
thiên đàng”
“Đồng xanh” là tựa đề được Lê Hựu Hà 
dịch từ ca khúc “Green Fields” của nhóm The 
Brothers Four. Chúng ta có thể thấy rằng trong 
bản dịch, về mặt ngôn từ, tác giả Lê Hựu Hà 
chuyển dịch chưa sát với nguyên bản, nhưng 
dịch giả đã khá trung thành và khá thành công 
với việc tạo ra trong phiên bản tiếng Việt một 
câu chuyện tương tự (chuyện trên cánh đồng 
xanh tươi đẹp có những cặp đôi yêu thương 
nhau và hẹn thề, nhưng khi họ không còn bên 
nhau nữa thì cánh đồng cũng trở nên buồn 
hoang vắng), trong một bối cảnh tương tự 
(thiên nhiên tươi đẹp với bầu trời, đồng xanh, 
thung lũng, cỏ cây, bờ suối, chim muông và có 
cả con người đang yêu) một tâm trạng tương 
tự (hạnh phúc, nuối tiếc, mong chờ, buồn man 
mác). “Đồng xanh” là một minh chứng cho 
biện pháp dịch sao phỏng. 
“Ôi! Giàn thiên lý đã xa” được Phạm Duy 
chuyển dịch từ bài dân ca Anh “Scarborough 
Fair”. Bản dịch lời Việt khác hẳn nguyên bản 
lời Anh. Nội dung của bản gốc nói về phiên 
chợ thanh bình trong thời loạn, phiên chợ mà 
người ta tới để vui chơi, gặp gỡ, hẹn hò và 
trao đổi hàng hóa. Trong bài hát, ngoài 4 thứ 
hương thảo được bày bán trong lễ hội: Mùi 
tây, xô, hồng hương và húng tây còn có hình 
ảnh mộc mạc như cái giếng, áo Cambric (áo 
được mặc trong các dịp đặc biệt ngày hội, lễ 
cưới, lễ hỏi), bụi gai, lưỡi liềm, lưỡi hái, hạt 
tiêu, bờ tường, mảnh đất, bãi cát, đại dương. 
Đây là những hình ảnh nói lên một cuộc sống 
đơn giản, thanh bình mà người dân mơ ước. 
Cái độc đáo của bài hát này là nói về chiến 
tranh nhưng không hề nhắc tới súng đạn hay 
cảnh đổ máu, mà chỉ ẩn dụ qua các hình ảnh 
bình dị trong cuộc sống hằng ngày để mơ ước 
một cuộc sống thanh bình. Bản dịch lời Việt 
không có hình ảnh nào liên quan tới khung 
cảnh phiên chợ thanh bình hay cuộc sống 
người dân thời chiến mà chỉ nói tới hình ảnh 
một chàng trai cứ nhớ mãi về tình yêu không 
thành), tuy nhiên bản dịch rất thành công và 
được rất nhiều khán giả đón nhận và đã trở 
thành một bài hát rất phổ biến tại Việt Nam. 
Đây là một bản dịch thoát ly hoàn toàn với 
nguyên tác. Chúng ta có thể thấy nội dung của 
bản dịch thoát ly qua một khúc hát được trích 
đoạn sau đây:
“Are you going to Scarborough Fair?/Tội 
nghiệp thằng bé cứ nhớ thương mãi quê nhà
Parsley, sage, rosemary, and thyme/ Giàn 
thiên lý đã xa, đã rời xa
Remember me to the one who lives there/ 
Đứa bé lỡ yêu, đã lỡ yêu cô em rồi
For once she was a true love of mine. /
Tình đã quên mỗi sớm mai lặng trôi”.
2.3.2. Về nguyên tắc dịch
Về nguyên tắc dịch, chúng tôi sẽ tập trung 
phân tích yếu tố quan trọng nhất trong dịch ca 
khúc là giai điệu – yếu tố quan trọng nhất phải 
đảm bảo và vần điệu – yếu tố mà Low cho 
rằng khó đảm bảo khi dịch ca khúc.
Giai điệu: Ba bản dịch đảm bảo nguyên 
tắc dịch quan trọng nhất mà Low đề ra là đảm 
bảo yếu tố hình thức (giai điệu). Cả ba bản 
dịch đều là bản hát được trên nền nhạc của bản 
gốc, khớp với giai điệu của bản gốc.
Theo Lê Hùng Tiến (2010), dịch lời bài 
hát là loại hình dịch đặc biệt mà trong dịch 
thuật gọi là kết hợp giữa dịch thông thường và 
chuyển dịch âm vị học bộ phận. Dịch thông 
thường là dịch văn bản ở ngôn ngữ nguồn 
thành văn bản ở ngôn ngữ đích trên ba phương 
diện từ vựng-ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ 
dụng. Dịch âm vị học bộ phận là chuyển dịch 
văn bản theo các nguyên tắc âm vị học và ngữ 
âm học để đáp ứng đòi hỏi của văn bản về mặt 
hình thức (vần điệu, giai điệu): một âm tiết 
phải rơi vào một nốt nhạc. 
Với bản nhạc trong tiếng Việt, các âm tiết 
trong tiếng Việt có tính độc lập, phát âm tách 
biệt nên mỗi âm tiết được viết tương ứng với 
một nốt nhạc. Nhưng với bản nhạc trong tiếng 
Anh, từ đa tiết được viết tách ra để mỗi âm 
tiết cũng tương ứng với một nốt nhạc. Đây có 
thể gọi là xu hướng đơn lập hoá về mặt ngữ 
âm – từ đa tiết sẽ được phát âm theo xu hướng 
tách rời từng âm tiết một như trong tiếng Việt, 
85Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 80-87
khác với phát âm trong giao tiếp tiếng Anh, 
các âm tiết trong từ đa tiết được phát âm thành 
một khối (Đoàn Thuý Quỳnh & Hoàng Minh 
Nguyệt, 2019). Đôi khi có những âm tiết được 
nhấn mạnh, có những âm tiết bị lướt qua, và 
có thể vài âm tiết mới tương ứng với một nốt 
nhạc. Bên cạnh đó, dịch giả một ca khúc còn 
phải tuân theo những quy luật đặc biệt của 
ngữ âm học. Nếu âm cuối của câu hát trong 
bản gốc được kết thúc bằng một âm tiết mở 
(nguyên âm) để kéo dài độ ngân nga của câu 
hát, thì âm tiết cuối của câu hát trong bản dịch 
cũng phải được kết thúc bằng âm tiết tương tự. 
Nếu âm cuối của câu hát trong bản gốc là âm 
vang mũi (âm mũi) để tạo độ ngân rung trong 
câu hát, thì âm cuối trong câu hát của bản dịch 
cũng là âm tương tự. Minh chứng sau đây sẽ 
đại diện để chứng minh cho quá trình chuyển 
dịch đặc biệt này:
I/ ne/ver/ dared/ to/ reach/ for/ the/ moon
I/ ne/ver/ thought/ I’d know/ hea/ven/ so/ soon
 (“Over and Over” - Nana Mouskour)
Em/ không/ mơ/ hoang/ kiếp/ sống/ trên/ 
cung/ hằng
Em/ không/ tham/ lam/ diễm/ phúc/ trên/ 
thiên/ đàng
 (“Tình nồng cháy” – Anh Bằng)
Để mỗi âm tiết tương ứng với một nốt 
nhạc, ở câu hát thứ nhất ta thấy từ song tiết 
“never” vốn phát âm thành một khối đã bị chia 
thành hai âm tiết “ne/ver”. Câu hát thứ nhất có 
9 âm tiết, câu hát thứ nhất trong bản dịch cũng 
phải có 9 âm tiết. Ở câu hát thứ hai, hai âm tiết 
“I’d know” đã bị hát lướt để thành 1 âm tiết. 
Do vậy, ở câu hát thứ hai có 9 âm tiết, và câu 
hát thứ 2 trong bản dịch cũng có 9 âm tiết.
Quy luật đặc biệt của ngữ âm học được 
thể hiện ở cặp âm tiết “moon/soon” đứng cuối 
mỗi câu hát ở bản gốc. Đây là cặp âm tiết được 
kết thúc bằng âm mũi /n/, thì cặp “hằng/đàng” 
đứng cuối mỗi câu hát trong bản dịch cũng kết 
thúc bằng âm mũi /ŋ/.
Vần điệu: Một yếu tố mà Low cho rằng 
khó nhất – yếu tố vần điệu thì ở ba bản dịch 
lại thể hiện rất tốt. 
Vần trong thơ ca tiếng Anh được phân ra 
thành các loại khác nhau dựa trên các tiêu chí 
khác nhau. Theo Delaney (2003), dựa vào vị 
trí của vần được hiệp với nhau (sự hiệp vần), 
người ta phân thành vần giữa dòng thơ (vần 
lưng) và vần cuối dòng thơ (vần chân). Dựa 
vào số lượng âm tiết của vần được hiệp với 
nhau, người ta phân vần thành vần có một 
âm tiết (vần đơn), vần có hai âm tiết (vần 
đôi) và vần có ba âm tiết (vần ba). Dựa vào 
chức năng hoà âm của các vần được hiệp với 
nhau, Thompson (2006) phân vần thành vần 
hoàn hảo (vần chính), vần chưa hoàn hảo 
(vần thông) và vần chính tả (hiệp vần về mặt 
chính tả). Vần trong thơ ca tiếng Việt được 
phân ra thành các loại khác nhau dựa trên các 
tiêu chí khác nhau. Dựa theo vị trí của vần, 
người ta phân thành vần lưng và vần chân; 
dựa theo mức độ hoà âm của vần, Mai Ngọc 
Chừ (2005) phân thành vần chính, vần thông 
và vần ép; dựa theo sự biến thiên của thanh 
điệu ở âm tiết mang vần, người ta phân chia 
thành vần bằng và vần trắc. Để bàn luận về 
vần, chúng tôi căn cứ vào chức năng hoà âm 
của vần để đưa ra những nhận xét sau đây về 
vần trong ba bản dịch. 
Ở bản dịch “Tình nồng cháy” (Đoàn Thuý 
Quỳnh, 2018: 561), vần được đảm bảo để nối 
liền các câu hát từ câu đầu tới câu cuối. Hơn 
nữa số lượng cặp vần trong bản dịch cũng 
bằng với số cặp vần trong nguyên bản. Bản 
dịch có 9 cặp vần, trong đó có 3 cặp vần hoàn 
hảo (vần chính): tình/mình; dài/mãi; đàng/
bàng; 6 cặp vần không hoàn hảo (vần thông): 
hằng/đàng; rồi/đời; đầy/dài; vàng/tàn; thầm 
vàng; đời /đầy. So với nguyên bản thì nguyên 
bản có 8 cặp vần hoàn hảo: moon/soon; feel/
reveal; name/again; eyes/goodbyes; cried/
signed; true/you gold/old; away/stay và 1 cặp 
vần không hoàn hảo: byes/cried. 
Trong bản dịch “Đồng xanh”, số lượng 
cặp vần ít hơn so với số lượng cặp vần trong 
nguyên tác. Nếu trong nguyên tác có 8 cặp vần 
hoàn hảo: run/sun, above/love, run/sun, heart/
depart, away/day, me/see, return/learn, roam/
home thì trong bản dịch chỉ có 4 cặp vần; 
trong đó có 1 cặp vần hoàn hảo (vần chính): 
86 Đ.T. Quỳnh/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 80-87
người/trời và 3 cặp vần không hoàn hảo (vần 
thông): cây/say, quên/em, hiu/tim. 
Như vậy, ở những bản dịch nghĩa và dịch 
phỏng, dịch giả đã thể hiện được sự xuất hiện 
của vần trong bản dịch, nhưng không thể hiện 
được nhiều vần ở mức độ hoàn hảo. Tuy nhiên, 
đây cũng là những bản dịch rất thành công khi 
cố gắng đảm bảo yếu tố vần điệu trong lời ca.
Bản dịch “Ôi! Giàn thiên lý đã xa” là bản 
dịch thoát ly (tác giả không lệ thuộc vào ngữ 
nghĩa của từ ngữ trong bản gốc mà đặt lời mới 
theo giai điệu nhạc của bản gốc) nên bản dịch 
chứa 6 cặp vần chính (vần hoàn hảo): nhà/xa, 
rồi/trôi, người/khơi, mà/qua, đường/dương, 
trời/ơi và 2 cặp vần ép (vần không hoàn hảo): 
tình/xanh, nàng/thương. Ở nguyên tác, toàn 
bộ số cặp vần đều là vần hoàn hảo (vần chính): 
fair/there, thyme/mine, shirt/work, well/fell, 
leather/feather, land/sand. Như vậy, về mặt 
vần điệu, bản dịch thoát ly đạt tiêu chuẩn cao 
về vần hoàn hảo.
Qua đây, có thể thấy rằng ba bản dịch ca 
khúc lời Việt được khảo sát là các bản dịch 
khá thành công khi đưa yếu tố vần điệu vào 
trong lời dịch.
3. Kết luận
Tóm lại, bài viết của chúng tôi trình bày 
quan niệm về dịch thuật, dịch ca khúc và cơ 
sở lý thuyết về dịch ca khúc. Cơ sở lý thuyết 
dịch ca khúc mà chúng tôi đề cập là cơ sở lý 
thuyết được Peter Low xây dựng dựa trên 
khung lý thuyết hệ thống và ông đã đưa ra các 
chiến thuật dịch ca khúc gồm dịch nghĩa, dịch 
phỏng và dịch thoát ly. Trên cơ sở lý thuyết 
đó, chúng tôi chọn 3 bản dịch ca khúc Anh - 
Việt để tìm hiểu các đặc điểm trong chuyển 
dịch. Việc phân tích 3 bản dịch cho thấy bản 
dịch nghĩa chứng tỏ sự giống nhau về mặt ngữ 
nghĩa như nội dung, nhân vật, kịch bản. Ở bản 
dịch phỏng, dịch giả đã giữ lại được chủ điểm, 
kịch bản và nhân vật. Còn với bản dịch thoát 
ly, nội dung ca khúc được làm mới hoàn toàn. 
Nghiên cứu còn chỉ ra rằng tất cả các bản dịch 
đều tuân theo nguyên lý Pentathlon mà Low 
đề xuất - ưu tiên yếu tố giai điệu, các yếu tố 
còn lại hỗ trợ lẫn nhau. Kết quả nghiên cứu 
còn cho thấy cả ba bản dịch đảm bảo yếu tố 
vần điệu - yếu tố mà Low cho rằng khá khó 
đảm bảo khi dịch ca khúc. Tuy nhiên, trong 
bài viết này, chúng tôi mới chọn 3 bài hát để 
phân tích và thấy rằng đó là những bản dịch rất 
thành công. Nhiều bản dịch khác chưa được 
khảo sát và có thể không thành công bằng 3 
bài hát này. Chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu 
để làm rõ những điểm thành công cũng như 
khiếm khuyết của chúng theo cơ sở lý thuyết 
đã xác lập trong bài viết này nhằm có những 
đóng góp hữu ích hơn nữa.
Tài liệu tham khảo 
Tiếng Việt
Nguyễn Ninh Bắc (2014). Biên dịch lời bài hát Anh-
Việt, Việt-Anh. Ngôn ngữ và đời sống, 11, tr. 65-71.
Mai Ngọc Chừ (2005). Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng 
ngôn ngữ học. Hà Nội: Nxb. Văn hoá – Thông tin. 
Đinh Văn Đức (2001). Ngữ pháp tiếng Việt – Từ loại. Hà 
Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Thu Huyền chủ biên (2011). Học tiếng Anh qua 
những ca khúc nổi tiếng. Hà Nội: Nxb. Đại học 
Phương Đông. 
Đoàn Thuý Quỳnh (2018). Giá trị của “vần” trong ca khúc 
“Tình nồng cháy”. Hội thảo quốc tế dành cho nghiên 
cứu sinh và học viên cao học (tr. 556-564), Trường 
Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội. 
Đoàn Thuý Quỳnh, Hoàng Minh Nguyệt (2019). Đối 
chiếu hiệp vần trong ca khúc “Over and Over” với 
bản dịch tiếng Việt. Tạp chí Từ điển học & Bách 
khoa thư, 57(1), tr. 91-101.
Lê Quang Thiêm (2008). Ngữ nghĩa học. Hà Nội: Nxb. 
Giáo dục.
Lê Hùng Tiến (2007). Vấn đề phương pháp trong dịch 
thuật Anh – Việt. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: 
Ngoại ngữ, 23(1), tr. 1-14.
Lê Hùng Tiến (2010). Tương đương dịch thuật và tương 
đương trong dịch Anh - Việt. Tạp chí Khoa học 
ĐHQGHN: Ngoại ngữ, 26(3), tr. 141-150.
Tiếng Anh
Catford, J.C. (1965). A linguistic theory of translation. 
London, UK: London University Press.
Cristal, D. (1992). The Cambridge Encyclopedia of 
Language. Cambridge University. 
87Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 80-87
Delaney, D. (2003). Fields of vision. London: Longman.
Franzon, J. (2005). Musical comedy translation: Fidelity 
and format in the Scandinavian My Fair Lady. In 
D. Gorlee (Ed.), Song and Significance: Virtues 
and Vices of Vocal Translation (pp. 263-298). 
Amsterdam/New York: Rodopi. 
Franzon, J. (2008). Choices in Song Translation: 
Singability in print. Subtitles and Sung 
Performances. The Translator, 14(2), 373-399.
Low, P. (2005). The Pentathlon Approach to Translating 
Songs. In Song and Significance (pp. 185-212). 
Amsterdam/New York: Rodopi. 
Low, P. (2013). When Song Cross Language Borders. 
The Translator, 19(2), 229-244. 
Newmark, P. (1985). Approaches to Translation. Oxford 
Pergarnon Press.
Newmark, P. (1988). A textbook of translation. Prentice 
Hall: New York, USA.
Thompson, M. C. (2006). Some Element of Poetry. US 
Royal Fire Work Press.
Nguồn ngữ liệu
lyric.karaoke.com/Album/nhac_ngoai_loi_viet
CHARACTERISTICS OF SONG TRANSLATION 
AND ENGLISH-VIETNAMESE SONG TRANSLATIONS 
Doan Thuy Quynh
Faculty of English, VNU University of Languages and International Studies,
Pham Van Dong, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Abstract: In this article, we review some major theories related to translation and song 
translation. The song translation strategies, which are introduced by Peter Low, are as follows: 
translation, adaptation and replacement (text). He has also introduced the “Pentathlon Principle”, 
which comprises of rhyme, rhythm, naturalness, singability, and sense to song translation. The 
Pentathlon Principle is illustrated by our analysis of 3 Vietnamese versions of English songs. The 
results show that all the tunes are maintained as the original, while the semantically translated 
version ensures the same meaning, content, characters as well as the whole story as the original. 
By contrast, the adapted version only retains the theme, the plot and the characters. For the last 
one, the lyrics are completely novel – the translator creates a new story over the original tune. The 
study results also show that all three versions observe the “Pentathlon Principle”, and singability 
and rhyme come high on the list of priorities.
Keywords: song translation, adaptation, pop music, English songs, Vietnamese versions

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_cua_dich_ca_khuc_va_ban_dich_ca_khuc_anh_viet.pdf