Đánh giá độ bền va đập của tấm kết cấu vỏ tàu composite bởi trọng vật rơi tự do
Tóm tắt: Bài báo công bố kết quả đánh giá độ bền va đập của tấm kết cấu vỏ tàu composite dưới
tác dụng của trọng vật rơi tự do, tấm vỏ tàu composite được nghiên cứu ở cả hai dạng không có nẹp gia
cường và có nẹp gia cường với hình dáng khác nhau. Kết quả nghiên cứu được thực hiện bằng phương
pháp thực nghiệm trên thiết bị thí nghiệm đo va đập tại Khoa Kỹ thuật Giao thông – Trường Đại học
Nha Trang, với kích thước tính toán của tấm composite là 600x600 mm, chiều cao khi bắt đầu rơi của
trọng vật ở 0,5 và 1,0 m, trọng vật có khối lượng 42 kg và hình dạng lưỡi dao. Ngoài ra kết quả thực
nghiệm được so sánh với kết quả mô phỏng bằng Abaqus CAE qua chuyển vị tại hai điểm có giá trị lớn
nhất.
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá độ bền va đập của tấm kết cấu vỏ tàu composite bởi trọng vật rơi tự do", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá độ bền va đập của tấm kết cấu vỏ tàu composite bởi trọng vật rơi tự do
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 32-05/2019 13 ĐÁNH GIÁ ĐỘ BỀN VA ĐẬP CỦA TẤM KẾT CẤU VỎ TÀU COMPOSITE BỞI TRỌNG VẬT RƠI TỰ DO A DROP TEST GENERATION ON THE FRP HULL STRUCTURES Huỳnh Văn Vũ Khoa Kỹ thuật Giao thông, Đại học Nha Trang vuhv@ntu.edu.vn Tóm tắt: Bài báo công bố kết quả đánh giá độ bền va đập của tấm kết cấu vỏ tàu composite dưới tác dụng của trọng vật rơi tự do, tấm vỏ tàu composite được nghiên cứu ở cả hai dạng không có nẹp gia cường và có nẹp gia cường với hình dáng khác nhau. Kết quả nghiên cứu được thực hiện bằng phương pháp thực nghiệm trên thiết bị thí nghiệm đo va đập tại Khoa Kỹ thuật Giao thông – Trường Đại học Nha Trang, với kích thước tính toán của tấm composite là 600x600 mm, chiều cao khi bắt đầu rơi của trọng vật ở 0,5 và 1,0 m, trọng vật có khối lượng 42 kg và hình dạng lưỡi dao. Ngoài ra kết quả thực nghiệm được so sánh với kết quả mô phỏng bằng Abaqus CAE qua chuyển vị tại hai điểm có giá trị lớn nhất. Từ khóa: tấm vỏ tàu composite, va đập, thực nghiệm, mô phỏng, độ bền, biến dạng. Chỉ số phân loại: 2.1 Abstract: The paper publishes the results of drop test generation on the Fiberglass Reinforced Plastic (FRP) hull structures, the FRP structures were considered including the stiffened plate and unstiffened plate with several shapes of cross section. The experiment was conducted by the drop test equipment at the Faculty of Transportation Engineering – Nha Trang University, the plate dimension is 600x600 mm, the struck high is 0.5 and 1.0 m, the gravity of struck is 42 kg with knife shape. The results will be comperated with Abaqus simulation at the largest displacement points. Keywords: The FRP hull structures, drop test, experiment, simulation, displacement. Classification number: 2.1 1. Giới thiệu Va đập là hiện tượng thường xuyên gặp trong đời sống, va đập xảy ra khi một vật di chuyển có vận tốc và có tác động va chạm vào một vật khác [2], các va đập có thể là một cái búa và cái đinh, tay đấm vào bao cát hoặc là các tai nạn khi tham gia giao thông[3]. Trong lĩnh vực tàu thủy, nghiên cứu về va đập của kết cấu tàu luôn được quan tâm đặc biệt và có tầm quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến độ bền tàu. Các trường hợp tàu gặp tai nạn trên biển xảy ra như hai tàu đang lưu thông trên biển, hay bốc dỡ hàng hóa trên tàu đều rất nguy hiểm [4]. Do đó việc đánh giá, xác định được lực va đập tác dụng lên kết cấu tàu gây biến dạng có thể giúp tính toán, chế tạo được kết cấu tàu đạt độ bền tốt nhất. Va đập với nghiên cứu ở đây được gây ra bởi trọng vật rơi tư do, tác động vào tấm kết cấu, trọng vật có vận tốc ban đầu bằng 0, được rơi từ độ cao nhất định, va đập vào tấm kết cấu gây ra biến dạng. Kết quả nghiên cứu dạng này đối với các kết cấu tàu vỏ thép đã được công bố nhiều [5], đặc biệt được tổng hợp khá đầy đủ trong tài liệu của Paik [6]. Tuy nhiên đối với các kết cấu tàu vỏ composite thì chưa có nhiều nghiên cứu ở dạng va đập này được công bố. Chính vì vậy, bài báo này thực hiện nghiên cứu ứng xử của kết cấu tàu vỏ composite dưới tác dụng của sự va đập do tải trọng rơi tự do ở điều kiện thí nghiệm. Kết quả thí nghiệm được so sánh với kết quả mô phỏng bằng phần mềm thương mại Abaqus CAE. Các mẫu thí nghiệm được chế tạo bằng tay, gồm một mẫu dạng kết cấu tấm phẳng không có nẹp gia cường (được ký hiệu là CSP), một mẫu dạng tấm có nẹp gia cường phẳng (CSP-FB), một mẫu tấm có nẹp gia cường dạng hộp (CSP- UB) và một mẫu tấm kết cấu có nẹp gia cường dạng chữ L (CSP-LB). Chiều cao trọng vật khi rơi là 0,5 m và 1,0 m. Trọng vật có hình dạng lưỡi dao và khối lượng là 42 kg. 2. Cơ sở lý thuyết Bài toán va đập của trọng vật rơi tự do lên tấm kết cấu tàu thủy được mô tả như hình 1. Trọng vật có khối lượng m (kg), rơi tự do từ độ cao h (m) với vận tốc ban đầu bằng vo 14 Journal of Transportation Science and Technology, Vol 32, May 2019 = 0, va chạm vào tấm kết cấu bên dưới với động năng va đập w (kJ) được xác định [2]: w = mv2/2 (1) Trong đó v (m/s) là vận tốc của trọng vật tại thời điểm bắt đầu va chạm với tấm kết cấu, được xác định bằng: ghv 2 (2) Với g = 9,8 m/s2 là gia tốc trọng trường. Hình 1. Sơ đồ biểu diễn bài toán va đập do trọng vật rơi tự do. 3. Mô tả thí nghiệm va đập do rơi tự do 3.1. Giới thiệu về thiết bị thí nghiệm va đập Thiết bị thí nghiệm va đập do rơi tự do của trọng vật được chế tạo tại Khoa Kỹ thuật Giao thông – Trường Đại học Nha Trang (hình 2). Trọng vật được giữ bằng nam châm điện, được nâng lên độ cao h (hmax = 2,2 m). Từ độ cao này, khi ngắt điện của nam châm, trọng vật sẽ rơi tự do không vận tốc ban đầu, va đập vào mẫu thử (là tấm kết cấu) được cố định lên bệ bên dưới thiết bị (kích thước lớn nhất của bệ là 760x760 mm, khu vực trống không có gia cường để xét ảnh hưởng của sự va đập có kích thước lớn nhất là 600x600 mm). Hình 2. Thiết bị thí nghiệm va đập. Trong nghiên cứu này, trọng vật được chọn có hình dạng lưỡi dao, kích thước như trình bày ở hình 3, khối lượng của trọng vật cân được là m = 42 kg. Hình 3. Hình dáng và kích thước của trọng vật. 3.2. Mẫu thí nghiệm Mẫu thí nghiệm là các tấm kết cấu tàu vỏ composite thu nhỏ, có kích thước toàn bộ là 760x760 mm, kích thước vùng chịu ảnh hưởng của hiện tượng va đập là 600x600 mm (hình 4), đây là kích thước lớn nhất của bệ gắn mẫu trên thiết bị thí nghiệm va đập). Kết cấu của tấm là dạng không có nẹp gia cường, nẹp gia cường phẳng, nẹp gia cường L và nẹp gia cường hộp như trình bày trong hình 5. Bảng 1. Thông số cơ bản của tấm Mat. Tỷ trọng E1 E2 12 G12 G13 G23 2,65E-9 4400 4400 0,34 1640 1640 1640 Mẫu kết cấu composite được làm 4 lớp, độ dày dMat 350 = 0,65 mm, dVải 330 = 0,76 mm. Thông số vật liệu được thể hiện ở bảng 1 và 2 [7]. Bảng 2. Thông số cơ bản của tấm vải. Tỷ trọng E1 E2 12 G12 G13 G23 2,5E-9 22100 3800 0,2 13800 13800 5500 Hình 4. Kích thước của tấm kết cấu composite. TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 32-05/2019 15 Hình 5. Kích thước mặt cắt ngang của tấm kết cấu composite có nẹp gia cường. 3.3. Mô tả thí nghiệm Cố định tấm kết cấu vào bệ bằng bulong M16 (hình 6), các gờ gia cường được chế tạo từ thép AH32 hình chữ I (150x5/100x10 mm), các sườn gia cường với bệ thí nghiệm được cố định bằng phương pháp hàn đảm bảo độ đồng tâm giữa bệ và giá đỡ, điều này làm thiết bị dễ hiệu chỉnh cân bằng trước khi lắp đặt thí nghiệm. Trong quá trình gắn tấm kết cấu phải đảm bảo không tạo ra biến dạng nào do việc xiết bulong gây nên, tránh làm mờ các đường lưới chia vì đây là cơ sở để đo giá trị biến dạng của tấm sau khi quá trình va đập kết thúc. Hình 6. Cố định tấm kết cấu vào bệ. Căn chỉnh trọng vật (hình 7). Sử dụng nam châm điện nâng trọng vật lên độ cao h nhất định (như bảng 3, việc lựa chọn chiều cao rơi là 0,5m và 1,0m là ngẫu nhiên, có thể lựa chọn chiều cao rơi tùy ý với điều kiện duy nhất là nhỏ hơn 2,2m vì đó là chiều cao lớn nhất mà thiết bị thí nghiệm này nâng được), việc căn chỉnh được tiến hành sao cho hai đầu tiếp xúc của trọng vật đạt được độ cao cần thiết, cố định theo các hướng, sử dụng con dọi để căn chỉnh vị trí rơi. Hình 7. Căn chỉnh trọng vật. Thả trọng vật (hình 8). Ngắt điện của nam châm, trọng vật rơi tự do va đập vào tấm kết cấu. Lưu ý đứng sau tấm lưới bảo vệ để đảm bảo an toàn. Đo và ghi nhận giá trị biến dạng theo chiều cao tại các vị trí nút lưới chia bằng đồng hồ so (hình 9). Việc đo được thực hiện với đồng hồ so Mitutoyo, với thông số độ chia: 0,01 mm, phạm vi đo: 0 – 10 mm, sai số: ±13 μm. Để đảm bảo độ chính xác, trước khi đo kiểm tra bề mặt chuẩn của phần giá đặt đồng hồ so được tiến hành với thước thủy bình để đảm bảo giá đo phẳng và không nghiêng. Chọn gốc chuẩn ở mép dưới, góc phải của tấm kết cấu nơi gần với sườn gia cường nhất, và việc đo được tiến hành liên tục với gốc chuẩn đã chọn để đảm bảo sai số khi đo là ít nhất. Hình 8. Thả trọng vật rơi tự do. 16 Journal of Transportation Science and Technology, Vol 32, May 2019 Hình 9. Đo biến dạng của tấm kết cấu tại các nút lưới chia bằng đồng hồ so. 4. Kết quả thí nghiệm Thông số của các lượt thí nghiệm được trình bày ở bảng 3. Bảng 3. Thông số của các lượt thí nghiệm. Tên mẫu Chiều cao rơi h, [m] Vận tốc va đập v, [m/s] Động năng va đập w, [kJ] CSP 0,5 3,130 205,7 CSP-FB 1,0 4,227 375,2 CSP-UB 1,0 4,227 375,2 CSP-LB 1,0 4,227 375,2 Một số nhận xét đối với kết quả thí nghiệm: Kết quả thí nghiệm cho thấy tại hai vị trí mép ngoài cùng của trọng vật khi tiếp xúc với tấm kết cấu có biến dạng lớn nhất (như hai điểm được khoanh tròn ở hình 10), giá trị biến dạng tại hai điểm này được thể hiện ở bảng 4. Hình 10. Vị trí tiếp xúc của trọng vật lên tấm kết cấu và hai vị trí đo biến dạng (hình khoanh tròn) Bảng 4. Giá trị biến dạng của tấm kết cấu sau khi bị va đập Tên mẫu Biến dạng Tại điểm 1 U1, [mm] Tại điểm 2 U2, [mm] Giá trị trung bình, [mm] CSP 13,0 13,7 13,35 CSP-FB 8,80 8,89 8,845 CSP-UB 8,52 8,65 8,585 CSP-LB 11,60 11,65 11,625 Các tấm kết cấu có độ võng đều ở nhịp giữa, và các nẹp gia cường bị ảnh hưởng bởi lực va đập của trọng vật nên có các vết nứt, gãy tại nhịp giữa của tấm kết cấu. Đối với tấm kết cấu CSP-FB, bị biến dạng tương đối lớn khi các nẹp đứng không chịu được lực tác dụng từ trọng vật và bị rách phần mối nối giữa nẹp gia cường và tấm phẳng của kết cấu. Đối với tấm kết cấu CSP-UB, bị biến dạng ít nhất so với hai tấm kết cấu có gắn nẹp đứng và nẹp chữ L. Trọng vật tác dụng lên tấm kết cấu làm xuất hiện độ võng ở các nẹp gia cường, nhưng sau khi cắt bỏ nẹp gia cường thì thấy xuất hiện gân gỗ bị gãy ở nhịp giữa của tấm kết cấu. Từ đó có thể cho thấy do độ cứng vững của gỗ đã làm giảm đi lực tác dụng của trọng vật lên tấm kết cấu và giảm độ biến dạng của tấm kết cấu. Đối với tấm kết cấu CSP-LB, bị biến dạng lớn, các nẹp chữ L bị gãy ở nhịp giữa của tấm kết cấu. Xuất hiện một nẹp chữ L bị gãy ở ngoài khu vực nhịp giữa, có thể nguyên nhân do trong khi chế tạo độ dày của nẹp không được đồng đều nên ảnh hưởng đến lực tác dụng của trọng vật. 5. Kết quả mô phỏng Nghiên cứu này sử dụng phần mềm thương mại Abaqus CAE [1] để mô phỏng quá trình va đập của trọng vật lên tấm kết cấu với các thông số đầu vào như thí nghiệm đã trình bày. Điều kiện biên của bài toán là fixed (U1 = U2 = U3 = UR1 = UR2 = UR3 = 0) tất cả các cạnh của tấm. Mô hình tính toán của bài toán mô phỏng được thể hiện ở hình 11. Hình 11. Mô hình tính toán của bài toán mô phỏng trong Abaqus Kết quả mô phỏng được so sánh với kết quả thí nghiệm bằng hình ảnh của tấm kết cấu sau khi bị va đập và giá trị biến dạng tại hai điểm mép ngoài cùng của trọng vật khi tiếp xúc với tấm kết cấu (từ hình 12 đến hình 15). TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 32-05/2019 17 U1 = 8,8 mm, U2 = 8,89 mm UMP-FB = 9,2 mm Hình 13. Tấm có nẹp gia cường phẳng, CSP-FB. U1= 8,65 mm, U2= 8,52 mm UMP-FB = 9,18 mm Hình 14. Tấm có nẹp gia cường hộp, CSP-UB. U1 = 11,65 mm, U2 = 11,6 mm UMP-UB = 12,34 mm Hình 15. Tấm có nẹp gia cường chữ L, CSP-LB. Kết quả biến dạng tại hai điểm mép ngoài cùng của trọng vật giữa mô phỏng và thí nghiệm được tổng hợp ở bảng 5. Kết quả mô phỏng tất cả các tấm kết cấu đều có biến dạng, đều ở hai đầu vị trí tiếp xúc của trọng vật và ở đây cũng chịu lực tác dụng lớn nhất. Tuy nhiên hình dạng mô phỏng của tấm kết cấu không chính xác như thí nghiệm. Điều này là do dữ liệu về thuộc tính vật liệu composite của mô phỏng và thí nghiệm chưa giống nhau, các điều kiện ngẫu nhiên trong quá trình chế tạo mẫu và thí nghiệm chưa được đưa trọn vẹn vào bài toán mô phỏng. Nhưng rõ ràng kết quả mô phỏng đã thể hiện được bản chất của quá trình va đập, điều này giúp thực hiện được nhiều kết quả đánh giá độ bền va đập của tấm kết cấu tàu vỏ composite dựa trên mô phỏng mà không cần phải thí nghiệm mất nhiều thời gian và kinh phí. 18 Journal of Transportation Science and Technology, Vol 32, May 2019 Bảng 5. Giá trị biến dạng của tấm kết cấu sau khi bị va đập tại hai điểm đang xét. Tên mẫu Biến dạng Thí nghiệm, [mm] Mô phỏng, [mm] Sai số, [%] CSP 13,0 12,34 5,1 13,7 12,34 9,9 CSP-FB 8,80 9,2 4,5 8,89 9,2 3,0 CSP-UB 8,65 9,18 6,1 8,50 9,18 7,7 CSP-LB 11,65 12,34 5,9 11,60 12,34 6,0 6. Kết luận Bài báo đã nghiên cứu độ bền của bốn dạng tấm kết cấu tàu vỏ composite dưới tác dụng va đập do rơi tự do của trọng vật ở độ cao khác nhau trong điều kiện thí nghiệm. Kết quả thí nghiệm cho biến dạng lớn nhất xảy ra tại hai điểm mép ngoài cùng của trọng vật tiếp xúc với tấm kết cấu khi va đập, nghĩa là động năng va đập tại vị trí này là lớn nhất. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy độ bền va đập của tấm kết cấu không có nẹp gia cường là thấp nhất, của tấm kết cấu có nẹp gia cường dạng hộp là cao nhất, như vậy rõ ràng độ bền của tấm kết cấu được quyết định bởi hình dạng và kích thước của nẹp gia cường. Đồng thời nghiên cứu cũng đã mô phỏng được kết quả thí nghiệm va đập này bằng phần mềm Abaqus, điều này giúp các nguyên cứu về sau có được nhiều kết quả về quá trình va đập do trọng vật rơi tự do lên tấm kết cấu tàu vỏ composite mà không cần phải thí nghiệm mất nhiều thời gian và kinh phí Tài liệu tham khảo [1] Abaqus CAE 2010 Manual [2] Hayashi, T. & Tanaka, Y. (1988). Impact Engineering. Nikkan Kogyo Simbunsha, Tokyo. [3] Johnson, W. (1972). Impact strength of materials. Edward Arnold, London and Crane Rissak, New York. [4] Jones, N. (1997). Structural Impact. Paperback Edition, Cambridge University Press. [5] Paik, J.K. & Chung, J.Y. (1999). A basic study on static and dynamic crushing behavior of a stiffened tube. KSAE Transactions. [6] Paik, J.K. (2003). Ultimate Limit State Design of Steel-plated Structures. Impact mechanics and Design for Accidents. Wiley Publisher. [7] Young W. Kwon & David H. Allen (2008). Multiscale Modeling and Simulation of Composite Materials and Structures. Ngày nhận bài: 8/4/2019 Ngày chuyển phản biện: 11/4/2019 Ngày hoàn thành sửa bài: 2/5/2019 Ngày chấp nhận đăng: 9/5/2019
File đính kèm:
- danh_gia_do_ben_va_dap_cua_tam_ket_cau_vo_tau_composite_boi.pdf