Đánh giá tác động của chính sách việc làm cho lao động xuất khẩu Việt Nam khi về nước đến việc làm và thu nhập của người lao động

Nxuất khẩu Việt Nam khi về nước đến việc làm và thu nhập của nhóm lao động này. Kết quả phân ghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của các chính sách việc làm cho lao động

tích dữ liệu sơ cấp thu thập được từ quá trình điều tra khảo sát gần 500 lao động xuất khẩu về nước tại 05

tỉnh có số lượng lao động đi xuất khẩu thuộc nhóm cao nhất trong cả nước, cho thấy rằng các chính sách

việc làm cho lao động xuất khẩu Việt Nam khi về nước có tác động tích cực tới kết quả tìm kiếm việc làm

và nâng cao thu nhập cho người lao động. Kết quả nghiên cứu là căn cứ để các cơ quan quản lý Nhà nước

Trung ương và địa phương có biện pháp kịp thời nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của các chính sách

việc làm cho lao động xuất khẩu Việt Nam khi về nước.

pdf 13 trang yennguyen 8420
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá tác động của chính sách việc làm cho lao động xuất khẩu Việt Nam khi về nước đến việc làm và thu nhập của người lao động", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá tác động của chính sách việc làm cho lao động xuất khẩu Việt Nam khi về nước đến việc làm và thu nhập của người lao động

Đánh giá tác động của chính sách việc làm cho lao động xuất khẩu Việt Nam khi về nước đến việc làm và thu nhập của người lao động
Sè 133/2019 thương mại
khoa học
1
2 
12 
21 
33 
51 
63 
MỤC LỤC 
KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ 
1. Bùi Hữu Đức và Vũ Thị Yến - Đánh giá tác động của chính sách việc làm cho lao động xuất khẩu 
Việt Nam khi về nước đến việc làm và thu nhập của người lao động. Mã số: 133.1GEMg.11 
Assessing the Impacts of Employment Policies for Vietnamese Exported Laborers after 
Returning Home on Employment And Income 
2. Vũ Thị Thanh Huyền và Trần Việt Thảo - Tác động của phát triển công nghiệp chế biến chế tạo 
đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Mã số: 133.1DECo.11 
The Impacts of Processing and Manufacturing Development on Vietnam’s Economy 
QUẢN TRỊ KINH DOANH 
3. Phan Thị Lý và Võ Thị Ngọc Thúy - Tác động của công khai tiêu cực về khủng hoảng sản phẩm 
đến hình ảnh công ty và nhận biết thương hiệu: Trường hợp doanh nghiệp kinh doanh ngành hàng tiêu 
dùng nhanh. Mã số: 133.2BAdm.21 
The Impacts of Publicizing Negations of Product Crisis on Company’s Image and Brand 
Identity: A Case-Study of Fast-Moving Consumer Goods Businesses 
4. Phạm Thu Hương và Trần Minh Thu - Các yếu tố tác động tới ý định mua sản phẩm có bao bì 
thân thiện với môi trường của giới trẻ Việt Nam tại Hà Nội. Mã số: 133.2BMkt.21 
Factors Affecting Intentions to Buy Products with Environment-Friendly Packaging by Young 
Vietnamese in Hanoi City 
5. Đỗ Thị Vân Trang - Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của các doanh nghiệp xây dựng 
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Mã số: 133.2FiBa.21 
Factors Affecting Profitability of Listed Construction Enterprises on Vietnam’s Stock Market 
Ý KIẾN TRAO ĐỔI 
6. Lê Quang Cảnh - Tự chủ tài chính và kết quả học tập ở các trường trung học phổ thông Việt Nam. 
Mã số: 133.3OMIs.32 
Financial Autonomy and Learning Results at High Schools in Vietnam 
ISSN 1859-3666
1
1. Đặt vấn đề 
Hiện nay, để giải quyết việc làm và nâng cao thu 
nhập cho phần lớn lao động, Chính phủ chỉ đạo Bộ 
Lao động Thương binh và Xã hội thực hiện hàng 
loạt các chương trình, đề án nhằm đẩy mạnh công 
tác xuất khẩu lao động, với mục tiêu đưa một triệu 
lao động Việt Nam đi làm việc theo hợp đồng lao 
động có thời hạn ở nước ngoài trong thời gian tới. 
Theo Cục Quản lý lao động ngoài nước, thuộc Bộ 
Lao động Thương binh và Xã hội, bình quân mỗi 
năm nước ta có khoảng 100.000 lao động đi làm 
việc tại nước ngoài. Vì thế, hàng năm số lượng lao 
động trở về nước sau khi hết thời gian làm việc ở 
nước ngoài theo hợp đồng lao động là rất lớn, trung 
bình khoảng từ 70.000 đến 80.000 lao động trở về, 
gia nhập vào thị trường lao động trong nước mỗi 
năm. 
Tuy nhiên, số lượng lao động này sau khi hết 
thời hạn hợp đồng, quay trở về nước lại có nguy cơ 
cao rơi vào tình trạng tái thất nghiệp. Theo kết quả 
khảo sát của tác giả tại 05 tỉnh có số lượng lao động 
xuất khẩu nhiều nhất cả nước là: Nghệ An, Thanh 
Hóa, Hà Tĩnh, Hải Dương, Nam Định, cho thấy có 
tới 18,07% lao động xuất khẩu về nước thất nghiệp, 
mà nguyên nhân chính là do người lao động không 
tìm kiếm được việc làm phù hợp với tay nghề và 
kinh nghiệm họ đã tích lũy được trong thời gian làm 
ở nước ngoài. Trong khi các doanh nghiệp trong 
nước, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư 
nước ngoài tại Việt Nam đang rất thiếu lực lượng lao 
động có tay nghề và trình độ thì lao động xuất khẩu 
về nước là những người có ưu thế về kỹ năng, kinh 
nghiệm, tay nghề và tác phong làm việc công 
nghiệp, đồng thời có trình độ ngoại ngữ nhất định, 
lại gặp khó khăn khi tìm kiếm việc làm tại quê 
hương. Điều này cho thấy, các chính sách để kết nối 
giữa lao động xuất khẩu khi về nước với các doanh 
nghiệp trong nước là rất cần thiết và đóng vai trò 
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM 
CHO LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU VIỆT NAM 
KHI VỀ NƯỚC ĐẾN VIỆC LÀM VÀ THU NHẬP 
CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG 
Bùi Hữu Đức 
Đại học Thương mại 
Email: buihuuduc@tmu.edu.vn 
Vũ Thị Yến 
Đại học Thương mại 
Email: yenvu.tm@gmail.com 
Ngày nhận: 20/08/2019 Ngày nhận lại: 10/09/2019 Ngày duyệt đăng: 16/09/2019 
N
 ghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của các chính sách việc làm cho lao động 
xuất khẩu Việt Nam khi về nước đến việc làm và thu nhập của nhóm lao động này. Kết quả phân 
tích dữ liệu sơ cấp thu thập được từ quá trình điều tra khảo sát gần 500 lao động xuất khẩu về nước tại 05 
tỉnh có số lượng lao động đi xuất khẩu thuộc nhóm cao nhất trong cả nước, cho thấy rằng các chính sách 
việc làm cho lao động xuất khẩu Việt Nam khi về nước có tác động tích cực tới kết quả tìm kiếm việc làm 
và nâng cao thu nhập cho người lao động. Kết quả nghiên cứu là căn cứ để các cơ quan quản lý Nhà nước 
Trung ương và địa phương có biện pháp kịp thời nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của các chính sách 
việc làm cho lao động xuất khẩu Việt Nam khi về nước. 
Từ khóa: chính sách việc làm, lao động xuất khẩu, đánh giá tác động.
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
khoa hoïc 
thöông maïi2 Sè 133/2019
?
2
quan trọng trong việc hỗ trợ người lao động hồi 
hương tìm kiếm được việc làm phù hợp, tăng thu 
nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống cho bản thân 
và gia đình họ. 
Vấn đề đặt ra là, hiện nay nước ta mới chỉ chú 
trọng đến một chiều đưa lao động đi xuất khẩu, 
chiều còn lại là tiếp nhận và hỗ trợ lao động trở về 
tái hòa nhập vào thị trường lao động trong nước, thì 
Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước có liên 
quan vẫn chưa thực sự chú trọng và quan tâm đúng 
mực, các chính sách việc làm dành riêng cho nhóm 
lao động xuất khẩu Việt Nam khi về nước đang còn 
thiếu và chưa bao phủ rộng. Quá trình triển khai 
chính sách việc làm cho lao động xuất khẩu khi về 
nước ở cả cấp Trung ương và địa phương còn gặp 
nhiều khó khăn, do hạn chế về mặt nhận thức xã hội 
về vai trò của các chính sách này, cũng như các điều 
kiện nguồn lực để triển khai chính sách vào thực tiễn 
còn nhiều hạn chế. 
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm nhấn mạnh 
vai trò và tác động của các chính sách việc làm lên 
việc làm và thu nhập của nhóm lao động xuất khẩu 
khi về nước. Kết quả nghiên cứu cho thấy rõ sự khác 
biệt giữa tỷ lệ có việc làm và thu nhập bình quân của 
hai nhóm: một nhóm là lao động xuất khẩu về nước 
có thụ hưởng chính sách việc làm dành riêng cho họ 
và một nhóm lao động xuất khẩu về nước không 
tham gia thụ hưởng chính sách việc làm. 
2. Cơ sở lý thuyết và các giả thuyết nghiên cứu 
Khái niệm chính sách việc làm và chính sách việc 
làm cho lao động xuất khẩu Việt Nam khi về nước 
- Khái niệm chính sách việc làm: Theo Tổ chức 
lao động quốc tế (ILO), Chính sách việc làm quốc 
gia là một tầm nhìn và một kế hoạch thực tiễn, để 
đạt được các mục tiêu việc làm của một quốc gia. Để 
thực hiện một kế hoạch như vậy Chính phủ phải 
thấy rõ cơ hội và thách thức của quốc gia, và phải 
tham khảo rộng rãi để đạt được thỏa thuận chung 
giữa tất cả các bên quan tâm trong nền kinh tế, bao 
gồm cả người chủ sử dụng lao động và người lao 
động (ILO, 2015). Ở nước ta, chính sách việc làm là 
giải pháp đầu tiên mà Chính phủ và các chuyên gia 
kinh tế nghĩ tới đầu tiên để khắc phục tình trạng 
thiếu việc làm. Chính sách việc làm là chính sách xã 
hội được thể chế hóa bằng luật pháp của Nhà nước, 
một hệ thống các quan điểm, chủ trương, phương 
hướng và biện pháp để giải quyết việc làm cho 
người lao động nhằm góp phần bảo đảm an toàn, ổn 
định và phát triển xã hội. Đây là cách nhìn nhận khá 
đầy đủ và toàn diện về chính sách việc làm, được tác 
giả Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung khẳng định 
trong cuốn:“Về Chính sách việc làm ở Việt Nam” 
năm 1997. Như vậy có thể hiểu, Chính sách việc 
làm là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các mục 
tiêu, các giải pháp và công cụ của Nhà nước nhằm 
sử dụng lực lượng lao động và tạo việc làm cho lực 
lượng lao động đó. Nói cách khác, chính sách việc 
làm là sự thể chế hóa pháp luật của Nhà nước trên 
lĩnh vực lao động và việc làm, là hệ thống các quan 
điểm, phương hướng mục tiêu và các giải pháp giải 
quyết việc làm cho người lao động. 
- Khái niệm chính sách việc làm cho lao động 
xuất khẩu Việt Nam khi về nước: 
Ở Việt Nam, người đi xuất khẩu lao động hay 
còn gọi là lao động xuất khẩu (lao động đi làm việc 
ở nước ngoài theo hợp đồng) được quy định tại 
khoản 1 Điều 3 Luật Người lao động Việt Nam đi 
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2007 ban 
hành theo quyết định của Quốc hội khóa XI số: 
72/2006QH11, ngày 29 tháng 11 năm 2006, như 
sau: “Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo 
hợp đồng là công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam, 
có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật Việt 
Nam và pháp luật của nước tiếp nhận người lao 
động, đi làm việc ở nước ngoài theo quy định của 
Luật này”. 
Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước 
ngoài theo hợp đồng khi hết thời hạn lao động quay 
trở về nước hòa nhập vào lực lượng lao động chung 
của cả nước. Do đó, chính sách việc làm cho lao 
động Việt Nam khi về nước cũng nằm trong khuôn 
khổ của chính sách việc làm nói chung. 
Như vậy, có thể hiểu: Chính sách việc làm cho 
lao động xuất khẩu Việt Nam khi về nước là tổng thể 
các quan điểm, tư tưởng, các mục tiêu, các giải 
pháp và công cụ của Nhà nước nhằm sử dụng lực 
lượng lao động sau khi đi làm việc ở nước ngoài 
theo hợp đồng quay trở về nước tham gia vào nền 
kinh tế và tạo việc làm cho lực lượng lao động đó. 
Các chính sách việc làm chủ yếu cho lao động 
xuất khẩu Việt Nam khi về nước: 
Ở Việt Nam, Chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho 
người lao động nói chung được quy định trong 
Chương II Luật Việc làm năm 2013, bao gồm các 
chính sách cụ thể như: Chính sách tín dụng ưu đãi 
tạo việc làm; Chính sách hỗ trợ chuyển dịch việc 
3
?
Sè 133/2019
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
?làm đối với lao động ở khu vực nông thôn; Chính 
sách việc làm công; Chính sách hỗ trợ lao động đi 
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động; 
Chính sách hỗ trợ phát triển thị trường lao động; 
Chính sách hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm; Chính 
sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ 
năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động. 
Người lao động xuất khẩu Việt Nam khi về nước 
cũng thuộc đối tượng thụ hưởng các chính sách việc 
làm nêu trên. Tuy nhiên, với các đặc điểm riêng về 
kinh nghiệm, kỹ năng, tay nghề và tiền vốn đã tích 
lũy được trong thời gian làm việc ở nước ngoài, nên 
chính sách việc làm cho lao động xuất khẩu Việt Nam 
khi về nước có sự khác biệt và tập trung vào một số 
chính sách cơ bản, để giải quyết tốt hơn mục tiêu của 
chính sách việc làm cho nhóm đối tượng này. 
Căn cứ vào Luật Người Việt Nam đi làm việc ở 
nước ngoài theo hợp đồng năm 2006 và Luật Việc 
làm năm 2013, Nghị định số: 126/2007/NĐ-CP, Quy 
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của 
Luật Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo 
hợp đồng. Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg Phê 
duyệt Đề án Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất 
khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững giai 
đoạn 2009-2020, Nghị định số 61/2015/NĐ-CP, 
Quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ 
quốc gia về việc làm, tác giả nhóm các chính sách 
việc làm cho lao động xuất khẩu Việt Nam khi về 
nước thành bốn chính sách cơ bản sau: 
(1) Chính sách phát triển thị trường lao động: 
chính sách phát triển thị trường lao động cho lao 
động xuất khẩu Việt Nam khi về nước bao gồm hệ 
thống pháp luật về kinh tế và lao động, và các chính 
sách kết nối cung cầu lao động. Hệ thống pháp luật 
kinh tế và lao động có tác động đến cả cung và cầu 
về lao động nhằm đảm bảo quyền tự do lao động, 
tạo việc làm, tăng cường cơ hội việc làm cho lao 
động xuất khẩu khi về nước. Chính sách kết nối 
cung cầu lao động bao gồm việc cung cấp thông tin 
về xu hướng thị trường lao động (việc làm, việc làm 
còn trống, nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp, xu 
hướng về cung lao động, người thất nghiệp, người 
có nhu cầu tìm việc làm) và thực hiện các môi 
giới về lao động (thông qua phát triển hệ thống trung 
tâm dịch vụ việc làm). 
(2) Chính sách tín dụng ưu đãi: Chính sách tín 
dụng ưu đãi cho lao động xuất khẩu Việt Nam khi về 
nước là những quan điểm, giải pháp và công cụ mà 
Nhà nước sử dụng trong quá trình cho đối tượng thụ 
hưởng chính sách được vay vốn với lãi suất ưu đãi, 
với số lượng và thời hạn nhất định nhằm hỗ trợ tài 
chính cho người lao động xuất khẩu về nước ở từng 
thời điểm, đảm bảo cho họ có điều kiện tài chính 
trong quá trình tìm kiếm việc làm và tạo việc làm, 
lao động sản xuất hoặc tiếp tục học tập để có cơ hội 
tìm việc làm tốt hơn trong tương lai. 
(3) Chính sách đào tạo nghề và đào tạo lại: Chính 
sách đào tạo nghề và đào tạo lại cho lao động xuất 
khẩu Việt Nam khi về nước là những quan điểm, mục 
tiêu, giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để 
hỗ trợ cho đối tượng thụ hưởng chính sách được học 
nghề, tham gia các khóa đào tạo nâng cao tay nghề, 
nhờ đó tìm được việc làm phù hợp, việc làm bền vững 
và cho thu nhập ổn định cho người lao động. 
(4) Chính sách hỗ trợ khởi nghiệp kinh doanh: 
Chính sách hỗ trợ khởi nghiệp kinh doanh cho lao 
động xuất khẩu Việt Nam khi về nước là những quan 
điểm, mục tiêu, giải pháp và công cụ mà Nhà nước 
sử dụng để hỗ trợ cho đối tượng được đào tạo bồi 
dưỡng kiến thức về khởi sự doanh nghiệp, về lập và 
lựa chọn các phương án kinh doanh phù hợp, được 
hướng dẫn cách sử dụng vốn kinh doanh hiệu quả, 
được hỗ trợ các thủ tục pháp lý khi thành lập doanh 
nghiệp, được vay vốn kinh doanh với lãi suất ưu đãi. 
Nhằm mục đích hỗ trợ lao động xuất khẩu về nước 
khởi nghiệp kinh doanh thành công, tạo ra việc làm 
tốt với nguồn thu nhập cao và ổn định cho bản thân 
họ, đồng thời tạo ra việc làm cho những người lao 
động khác, góp phần phát triển kinh tế xã hội cho 
địa phương và đất nước. 
Đánh giá tác động của chính sách việc làm cho 
lao động xuất khẩu Việt Nam khi về nước: 
Chính sách việc làm nói chung và chính sách 
việc làm cho lao động xuất khẩu Việt Nam khi về 
nước đều là các chính sách công cơ bản của Chính 
phủ. Do đó, cần thiết phải theo dõi, kiểm tra và đánh 
giá kết quả thực hiện chính sách. 
Đánh giá chính sách nhằm cung cấp thông tin 
cho các cơ quan nhà nước những thông tin hữu dụng 
và kịp thời để quản lý, hướng dẫn các nguồn lực, 
đồng thời đưa ra các biện pháp can thiệp chính sách 
của nhà nước (Lê Văn Hòa, 2016). 
Tác giả Khandker và cộng sự (2010) chỉ ra rằng 
đánh giá tác động của chính sách là một bộ phận 
không thể thiếu trong đánh giá chính sách. Đánh giá 
tác động chính sách là việc lượng hóa hiệu quả của 
Sè 133/20194
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
chính sách đó đối với đối tượng thụ hưởng là các cá 
nhân, hộ gia đình và cộng đồng. 
Theo Bonnal (1997) đánh giá tác động của chính 
sách việc làm là việc phân tích, dự báo tác động của 
chính sách đang được xây dựng đối với các nhóm 
đối tượng khác nhau nhằm lựa chọn giải pháp tối ưu 
thực hiện chính sách. Đánh giá tác động của chính 
sách việc làm được thực hiện thông qua phân tích 
định lượng chỉ định một hoặc nhiều biến kết quả 
quan tâm (ví dụ thu nhập, việc làm) và ước tính sự 
khác biệt mà một chương trình chính sách tạo ra đối 
với các mức của các biến kế ... c hệ số 
trong mô hình hồi quy Logistic. Kết quả của bảng 5 
cho thấy cả 3 chính sách: CSPTTTLĐ, CSĐT và 
CSKN đều có mức ý nghĩa thấp hơn 0,05 cho nên ta 
yên tâm bác bỏ giả thuyết H0 (H0 là giả thuyết tất 
cả các hệ số hồi quy của mô hình Logistic = 0). 
Như vậy là các hệ số hồi quy mà mô hình tìm 
được có ý nghĩa thống kê, mô hình sử dụng tốt và cả 
3 chính sách đều có ảnh hưởng đến khả năng có việc 
làm tốt của LĐXK về nước. 
Ta có phương trình hồi quy Logistic được biểu 
diễn như sau: 
Việc làm = -7,525 + 1,207 CSPTTTLĐ + 0,457 
CSĐT + 1,241 CSKN 
Có thể thấy rằng, cả 3 chính sách trên đều làm 
tăng khả năng có việc làm tốt của LĐXK về nước, 
trong số đó thì chính sách khởi nghiệp (CSKN) có 
tác động mạnh nhất (hệ số cao nhất), cụ thể là tác 
động biên của CSKN lên 
khả năng có việc làm tốt 
của LĐXK về nước với xác 
xuất ban đầu là 0,5 thì tác 
động này sẽ bằng 0,5* (1-
0,5) *1,241 = 0,31025. Tiếp 
theo đó là tác động biên của 
chính sách phát triển thị 
trường lao động 
(CSPTTTLĐ) lên khả năng 
có việc làm tốt của LĐXK 
về nước với xác xuất ban đầu là 0,5 thì tác động này 
sẽ bằng 0,5* (1-0,5) *1,207 = 0,30175. Cuối cùng là 
tác động biên của CSĐT lên khả năng có việc làm 
tốt của LĐXK về nước với xác suất ban đầu là 0,5 
thì tác động này sẽ bằng 0,5* (1-0,5) * 0,457 = 
0,11425. 
Sè 133/20198
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
Bảng 4: Bảng phân loại Classification Table 
Nguồn: Kết quả chiết xuất trên phần mềm SPSS 22.0 
 Observed 
Predicted 
ViӋc làm Percentage 
Correct Không có 
viӋc làm 
Có viӋc làm 
tӕt 
Step 1 
ViӋc làm Không có viӋc làm 27 63 30 
Có viӋc làm tӕt 34 374 91,7 
Overall 
Percentage 80,5 
Bảng 5: Kết quả hồi quy 
Nguồn: Kết quả chiết xuất trên phần mềm SPSS 22.0 
Variables in the Equation 
B S.E. Wald df Sig. Exp(B) 
Step 1a 
&63777/Ĉ 1,207 0,202 35,745 1 0,000 3,344 
&6Ĉ7 0,457 0,167 7,532 1 0,006 1,580 
CSKN 1,241 0,255 23,602 1 0,000 3,459 
Constant -7,525 0,995 57,153 1 0,000 0,001 
a. Variable(s) entered on step 1: CSDT, CSPTTTLD, CSKN. 
4.2. Chính sách việc làm tác động lên thu nhập 
của lao động xuất khẩu Việt Nam khi về nước 
Tác động của chính sách việc làm lên thu nhập 
của LĐXK khi về nước được đánh giá thông qua kết 
quả thực hiện ước lượng mô hình hồi quy bội. 
Trước tiên, độ phù hợp của mô hình hồi quy bội 
được kiểm định bằng phân tích ANOVA. 
Kết quả kiểm định thống kê F (Fisher) với mức 
ý nghĩa rất bé cho thấy mô hình được ước lượng trên 
tập dữ liệu mẫu có thể được suy luận và khái quát 
cho toàn bộ tổng thể. 
Mức ý nghĩa Significant = 0,000 <0,05 tức là các 
ước lượng của mô hình này có thể được suy luận cho 
toàn bộ đám đông. 
Tác giả sử dụng hệ số phóng đại phương sai 
(VIF) để chuẩn đoán hiện tượng đa cộng tuyến trong 
mô hình. Kết quả của bảng 7 cho thấy giá trị VIF rất 
nhỏ chứng tỏ mô hình không xuất hiện hiện tượng 
đa cộng tuyến (theo Hoàng 
Trọng và Chu Nguyễn Mộng 
Ngọc, 2008) và dữ liệu được 
khảo sát tại một thời điểm 
cho nên sẽ không có hiện 
tượng tự tương quan trong 
mô hình nghiên cứu. 
Kết quả chạy mô hình hồi 
quy bội cho thấy biến CSTD 
có giá trị Sig = 0,271 >0,05 
nên không có ý nghĩa thống 
kê loại bỏ biến CSTD chạy lại mô hình hồi quy bội 
lần thứ 2. Kết quả như sau: 
Nhìn vào bảng 7, ta thấy các ước lượng của hệ số 
hồi quy đều đạt mức ý nghĩa thống kê (giá trị Sig 
đều < 0.1). Hệ số Beta đã chuẩn hóa đều mang dấu 
dương cho thấy cả 3 chính sách là CSPTTTLĐ, 
CSĐT và CSKN đều có tác động cùng chiều đến thu 
nhập của LĐXK về nước, trong số 3 chính sách đó 
thì CSKN là có mức ảnh hưởng cao nhất và quan 
trọng nhất (với hệ số Beta chuẩn hóa là 0,351), tiếp 
đến là CSĐT (với hệ số Beta đã chuẩn hóa là 0,239), 
cuối cùng CSPTTTLĐ là có tác động yếu nhất (với 
hệ số Beta chuẩn hóa chỉ đạt 0,110). 
Ta có phương trình thể hiện mức độ tác động của 
các chính sách việc làm đến thu nhập của LĐXK khi 
về nước như sau: 
Thu nhập = -13,045 + 0,976 
CSPTTTLĐ + 2,045 CSĐT + 
3,273 CSKN 
Phương trình hồi quy mà mô 
hình ước lượng được có dạng 
đường thẳng, khi các yếu tố khác 
không thay đổi nếu CSPTTTLĐ 
tăng thêm 1 đơn vị (mức độ quan 
trọng) thì thu nhập của LĐXK về 
nước tăng lên 0,976 triệu 
đồng/tháng; khi các yếu tố khác không thay đổi nếu 
CSĐT tăng thêm 1 đơn vị thì thu nhập của người 
LĐXK khi về nước tăng thêm 2,045 triệu 
đồng/tháng; tương tự khi các yếu tố khác không thay 
đổi nếu CSKN tăng thêm 1 đơn vị thì thu nhập của 
người LĐXK khi về nước tăng thêm 3,273 triệu 
đồng/tháng. 
Có thể kết luận rằng, chính sách khởi nghiệp, 
chính sách đào tạo và chính sách phát triển thị trường 
lao động nếu được thực hiện tốt sẽ có tác động tích 
cực làm tăng thu nhập cho LĐXK về nước. 
5. Thảo luận về kết quả và một số hàm ý 
chính sách 
5.1. Thảo luận 
Từ kết quả phân tích mô hình cho thấy chính 
sách việc làm cho LĐXK Việt Nam khi về nước có 
tác động thuận chiều và tích cực đến việc tìm được 
việc làm tốt của LĐXK khi về nước, đồng thời góp 
phần làm tăng thu nhập cho những lao động thuộc 
nhóm này có tham gia thụ hưởng chính sách việc 
9
?
Sè 133/2019
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
Bảng 6: Kết quả phân tích ANOVA tổng hợp 
Nguồn: Kết quả chiết xuất trên phần mềm SPSS 22.0 
Mô hình Tәng bình SKѭѫQJ df 
%uQKSKѭѫQJ 
trung bình cӝng F Sig. 
Hӗi quy 11625,443 3 3875,148 89,620 
0,000b 
PhҫQGѭ 21360,533 494 43,240 
Tәng 32985,976 497 
Bảng 7: Kết quả phân tích hồi quy tổng hợp 
Nguồn: Kết quả chiết xuất trên phần mềm SPSS 22.0 
Mô hình 
HӋ sӕ 
FKѭDFKXҭn hóa 
HӋ sӕ 
chuҭn hóa 
t 
Sig. 
Thӕng kê 
tính cӝng tuyӃn 
B Sai sӕ 
chuҭn 
Beta Dung sai VIF 
(Constant) -13,045 1,380 -9,452 0,000 
&63777/Ĉ 0,976 0,459 0,110 2,128 0,034 0,486 2,056 
&6ĈT 2,045 0,371 0,239 5,514 0,000 0,696 1,438 
CSKN 3,273 0,467 0,351 7,014 0,000 0,524 1,908 
?làm dành cho họ. Tuy nhiên, trên thực tế các chính 
sách việc làm của nước ta dành cho nhóm đối tượng 
LĐXK Việt Nam khi về nước chưa thực sự phát huy 
đúng mục tiêu và đạt được hiệu quả chính sách, do 
gặp phải một số vấn đề sau: 
- Chính phủ đã ban hành chính sách hỗ trợ tạo 
việc làm, khuyến khích tạo việc làm cho LĐXK Việt 
Nam khi về nước, hỗ trợ tín dụng nếu cần thiết cho 
nhóm đối tượng lao động này (thể hiện ở điều 59 và 
60 Luật Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài 
theo hợp đồng). Tuy nhiên các chính sách này mới 
dừng lại ở việc khuyến khích và hỗ trợ một cách 
chung chung. Do đó, cần bổ sung và cụ thể hóa đơn 
vị nào chịu trách nhiệm thi hành chính sách này (Bộ 
Lao động TB&XH hay Cục Quản lý lao động ngoài 
nước), Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Lao động 
TB&XH tại các địa phương đóng vai trò như thế nào 
và chịu trách nhiệm thực thi chính sách ra sao. Để các 
đơn vị biết về trách nhiệm phải thực thi của mình và 
chịu trách nhiệm về kết quả triển khai chính sách của 
đơn vị mình, đồng thời có các báo cáo hàng năm đầy 
đủ, kịp thời để Chính phủ nắm được kết quả và kịp 
thời bổ sung, điều chỉnh chính sách phù hợp thực tiễn. 
- Các chính sách việc làm cho LĐXK Việt Nam 
khi về nước hiện vẫn còn rất thiếu và chưa bao phủ 
rộng. Các chính sách hiện tại mới chỉ chủ yếu cung 
cấp thông tin việc làm, tuyển dụng, môi giới giới 
thiệu việc làm cho LĐXK thuộc diện IM Japan và 
EPS Hàn Quốc về nước. Các đối tượng LĐXK Việt 
Nam từ các thị trường khác trở về chưa nhận được 
sự quan tâm và hỗ trợ việc làm từ Chính phủ. 
- Chính sách phát triển thông tin thị trường lao 
động đã phát huy được vai trò khi thực hiện được 
việc cung cấp thông tin thị trường lao động cho 
LĐXK khi về nước để người lao động nắm bắt được 
thông tin việc làm tuyển dụng và lựa chọn công việc 
tốt, phù hợp cho bản thân. Trung tâm Lao động 
ngoài nước đã phối hợp với một số Trung tâm dịch 
vụ việc làm tổ chức thành công các phiên giao dịch 
việc làm cho LĐXK Việt Nam khi về nước. Tuy 
nhiên, thông tin thị trường lao động và số phiên giao 
dịch việc làm mới chỉ tổ chức được với số lượng quá 
ít, số lượng LĐXK về nước tiếp cận được với thông 
tin việc làm tuyển dụng và tham gia vào các phiên 
giao dịch việc làm chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ tổng số 
LĐXK Việt Nam về nước hàng năm. 
- Chính sách tín dụng ưu đãi cho LĐXK về nước 
không nêu rõ nguồn vốn sử dụng cho LĐXK về nước 
vay được lấy từ đâu, hiện tại các địa phương đều 
đang sử dụng chung với nguồn vốn từ Quỹ quốc gia 
về giải quyết việc làm để cho LĐXK về nước có nhu 
cầu vay vốn phát triển kinh doanh. Tuy nhiên, từ năm 
2016 ngân sách Trung ương không phân bổ thêm vốn 
vào Quỹ quốc gia giải quyết việc làm về cho các địa 
phương. Do đó, các địa phương cho vay vốn theo 
hình thức quay vòng từ nguồn vốn phân bổ hiện có, 
trong khi nhu cầu vay vốn của lao động nông thôn rất 
nhiều và lao động nông thôn thuộc hộ nghèo, cận 
nghèo, gia đình chính sách sẽ được ưu tiên vay 
nguồn vốn ít ỏi này, nên LĐXK về nước nhiều khi 
không có cơ hội tiếp cận nguồn vốn vay này. 
- Chính sách đào tạo nghề và đào tạo lại cho 
LĐXK Việt Nam khi về nước chưa phát huy hiệu 
quả. Chất lượng đào tạo của một số ngành nghề tại 
các địa phương còn thấp, chưa bắt kịp xu hướng thị 
trường lao động. Vì thế không thu hút được LĐXK 
về nước tham gia học tập nâng cao tay nghề. 
- Chính sách hỗ trợ khởi nghiệp kinh doanh cho 
LĐXK về nước mới chỉ được triển khai ở một vài địa 
phương, chưa được nhân rộng trên cả nước. Chính 
phủ cần bổ sung chính sách và cơ chế hỗ trợ để các 
địa phương triển khai mạnh mẽ và lan tỏa phong trào 
khởi nghiệp kinh doanh, thúc đẩy LĐXK về nước 
tích cực khởi nghiệp kinh doanh tại địa phương. 
5.2. Một số hàm ý chính sách 
- Chính phủ cần hoàn thiện khung pháp lý, cơ 
chế chính sách hỗ trợ LĐXK về nước tìm kiếm việc 
làm tốt, gia nhập vào thị trường lao động địa 
phương. Chính phủ cần cụ thể hóa các quy định tại 
Điều 59 và Điều 60 của Luật đưa người Việt Nam đi 
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, đối với người 
lao động đi làm việc ở nước ngoài trở về nước bằng 
các chương trình, biện pháp phù hợp về hỗ trợ việc 
làm và cho phát huy tay nghề, kỹ năng của LĐXK 
sau khi trở về nước. Đồng thời, bổ sung vào Điều 8 
và Điều 14 của Nghị định 126/2007/NĐ-CP về trách 
nhiệm của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và 
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc quản lý nhà 
nước đối với người đi làm việc ở nước ngoài trở về. 
- Chính phủ cần chỉ đạo các đơn vị liên quan xây 
dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về LĐXK nhằm quản lý 
sự phát triển về kinh nghiệm, tay nghề, kỹ năng từ 
lúc đi đến lúc về theo dạng hồ sơ việc làm, có mã số, 
họ tên, địa chỉ thường trú, nước đến, kinh nghiệm, 
kỹ năng, ngành nghề, giới tính của từng người lao 
động,... Các cơ sở dữ liệu này giúp tạo ra được một 
Sè 133/201910
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học
sự liên thông giữa cung và cầu việc làm một cách 
hiệu quả, tiết kiệm đối với LĐXK khi trở về (thông 
tin thị trường lao động). Trong các báo cáo về quản 
lý lao động cần có số liệu tách biệt về giới tính, cũng 
như đề cập, phân tích các khía cạnh của vấn đề giới, 
như: đời sống, việc làm, quyền và lợi ích phù hợp 
với quy định của Luật bình đẳng giới (sửa đổi bổ 
sung Khoản 13 Điều 8 Nghị định 126). 
- Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cần chỉ 
đạo Sở Lao động Thương binh và Xã hội các tỉnh 
xây dựng các chính sách cụ thể để hình thành nguồn 
lực hỗ trợ thực hiện đào tạo lại cũng như bồi dưỡng 
kiến thức khởi sự kinh doanh cho những lao động 
trở về có khả năng và yêu cầu để phát huy hiệu quả 
kép của hoạt động người lao động đi làm việc ở 
nước ngoài. Nhất là với những lao động nữ, lao 
động là người dân tộc thiểu số, đã tiết kiệm và chuẩn 
bị được một khoản tài chính, mà có mong muốn 
khởi nghiệp kinh doanh. 
- Chính phủ cần quy định rõ vai trò, trách nhiệm 
của các cơ quan, tổ chức trong việc tư vấn, hỗ trợ 
LĐXK khi về nước gặp khó khăn, nhất là lao động nữ 
trong việc tìm kiếm việc làm và hòa nhập cộng đồng. 
- Bộ Lao động Lao động Thương binh và Xã hội 
cần bổ sung quy định về đào tạo giáo dục định hướng 
cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài 
về: định hướng tích lũy vốn, kiến thức, kinh nghiệm 
trong thời gian làm việc ở nước ngoài, để phục vụ cho 
việc làm trong tương lai, nhất là sau khi về nước. 
 - Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cần hình 
thành cơ chế, chính sách để khuyến khích và thúc 
đẩy các hoạt động dịch vụ việc làm để hỗ trợ có hiệu 
quả người đi làm việc ở nước ngoài trở về trong việc 
tìm kiếm được việc làm phù hợp, phát huy kỹ năng, 
tay nghề đã tích luỹ được. 
- Để xây dựng và quản lý thực hiện các quy định, 
chính sách và chương trình việc làm cho đối tượng 
LĐXK trở về nước. Chính phủ nên thành lập một đơn 
vị chịu trách nhiệm về chính sách cho vấn đề trở về 
và tái hòa nhập của LĐXK. Đơn vị này nên trực thuộc 
Cục Quản lý Lao động Ngoài nước, để đảm bảo các 
chính sách thống nhất và bổ trợ lẫn nhau trong quốc 
gia cũng như với các nước tiếp nhận lao động. Đơn vị 
này sẽ thực hiện Chương trình tái hòa nhập quốc gia 
cho LĐXK Việt Nam khi về nước, trong đó bao gồm: 
tập huấn kỹ năng, tư vấn hoạt động doanh nghiệp và 
kinh doanh, hỗ trợ vay vốn và tín dụng, hỗ trợ pháp 
lý, và hỗ trợ tìm kiếm việc làm,u 
Tài liệu tham khảo: 
1. Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung (1997), 
Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam, NXB 
Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
2. Lê Văn Hòa (2016), Giám sát và đánh giá 
chính sách công, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, 
Hà Nội. 
3. Quốc hội (2006), Luật Người lao động Việt 
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. 
4. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc 
(2008), Phân tích dữ liệu với SPSS, NXB Hồng 
Đức, TP. Hồ Chí Minh. 
5. Bollen Kenneth A. (1989), A new incremental 
fit index for general structural equation models, 
Sociological Methods & Research, 17(3), 303-316. 
6. ILO (2015), National employment policies, 
Retrieved from Employment policy department, 
7. Khandker và cộng sự (2010), Handbook on 
impact evaluation: quantitative methods and prac-
tices, The World Bank. 
8. Liliane Bonnal (1997), Evaluating the impact 
of French employment policies on individual labour 
market histories, Review of Economic Studies 
(1997) 64, 683-713. 
9. World bank (2009), A Practicioner’s guide to 
evaluating the impacts of labor market programs, 
World bank employment policy primer. 
Summary 
The study assesses the impacts of employment 
policies for Vietnamese exported laborers after 
returning home on the employment and income of 
this labor group. An analysis of preliminary data 
collected from a survey on almost 500 exported 
laborers after returning home in 5 provinces with the 
biggest numbers of exported laborers of the entire 
country shows that employment policies for 
Vietnamese exported laborers returning home have 
positive impacts on creating employment and 
improving income for laborers. The research results 
serve as the basis for government and local authori-
ties to timely come up with solutions to improving 
the effectiveness of employment policies for 
Vietnamese exported labors when returning home. 
11Sè 133/2019
Kinh tÕ vμ qu¶n lý
thương mại
khoa học

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_tac_dong_cua_chinh_sach_viec_lam_cho_lao_dong_xuat.pdf