Đề cương Bài giảng Tâm lý học trẻ em

I. ĐỐI TƢỢNG CỦA TÂM LÝ HỌC TRẺ EM:

Có nhiều khoa học nhiên cứu về trẻ em, mỗi khoa học nghiên cứu trẻ em theo

khía cạnh riêng, với cách riêng của mình. Tâm lý học trẻ em quan tâm đến quá trình

phát triển trẻ em, hình thành nhân cách, trở thành người lớn như thế nào.

Tâm lý học trẻ em là khoa học nghiên cứu những đặc điểm và quy luật phát

triển tâm lý của trẻ, xem sự hoạt động của trẻ, sự phát triển các quá trình, phẩm chất

tâm lý và sự hình thành nhân cách của trẻ theo con đường nào, bằng cơ chế nào.

Có thể nói một cách khái quát rằng đối tượng của tâm lý học trẻ em là sự sự

phát triển tâm lý của trẻ; những đặc điểm, những quy luật đặc trưng cho sự phát triển

tâm lý ở mỗi độ tuổi.

pdf 35 trang yennguyen 4720
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề cương Bài giảng Tâm lý học trẻ em", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề cương Bài giảng Tâm lý học trẻ em

Đề cương Bài giảng Tâm lý học trẻ em
Đề Cương Bài Giảng Tâm lý học trẻ em Đào Việt Cường 
 1 
ĐỀ CƢƠNG 
BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC TRẺ EM 
BÀI 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÂM LÝ HỌC TRẺ EM 
I. ĐỐI TƢỢNG CỦA TÂM LÝ HỌC TRẺ EM: 
Có nhiều khoa học nhiên cứu về trẻ em, mỗi khoa học nghiên cứu trẻ em theo 
khía cạnh riêng, với cách riêng của mình. Tâm lý học trẻ em quan tâm đến quá trình 
phát triển trẻ em, hình thành nhân cách, trở thành người lớn như thế nào. 
Tâm lý học trẻ em là khoa học nghiên cứu những đặc điểm và quy luật phát 
triển tâm lý của trẻ, xem sự hoạt động của trẻ, sự phát triển các quá trình, phẩm chất 
tâm lý và sự hình thành nhân cách của trẻ theo con đường nào, bằng cơ chế nào. 
Có thể nói một cách khái quát rằng đối tượng của tâm lý học trẻ em là sự sự 
phát triển tâm lý của trẻ; những đặc điểm, những quy luật đặc trưng cho sự phát triển 
tâm lý ở mỗi độ tuổi. 
II. Ý NGHĨA CỦA TÂM LÝ HỌC TRẺ EM VÀ QUAN HỆ CỦA NÓ VỚI 
CÁC KHOA HỌC KHÁC: 
Khi nghiên cứu sự phát triển tâm lý của trẻ, tâm lý học trẻ em đã sử dụng các 
tài liệu của nhiều khoa học khác và đến lượt mình nó cũng cung cấp những tài liệu 
có ý nghĩa quan trọng đối với các khoa học khác. 
Tâm lý học trẻ em dựa trên triết học duy vật biện chứng. Các luận điểm triết 
học vạch ra những quy luật chung nhất của sự phát triển các hiện tượng tự nhiên và 
xã hội. Nó chứng minh rằng tâm lý, ý thức con người do xã hội quyết định. Sự hiểu 
biết các quy luật chung giúp cho tâm lý học trẻ em tìm ra cách nhìn đúng đắn đối với 
sự phát triển tâm lý của trẻ em. 
Ngược lại, việc nghiên cứu tỉ mỉ sự phát triển của trẻ em, nhất là việc trẻ em 
nhìn nhận thế giới xung quanh như thế nào sẽ giúp ta hiểu sâu hơn bản chất chung 
của nhận thức con người. 
Tâm lý học trẻ em dựa trên những tri thức về tâm lý con người do tâm lý học 
đại cương cung cấp, đồng thời nó lại cung cấp cứ liệu cho tâm lý học đại cương, cho 
những hiểu biết sâu sắc hơn về những vấn đề tâm lý của người lớn, đặc biệt là những 
quy luật nảy sinh và phát triển tâm lý như thế nào. 
Tâm lý học trẻ em thường xuyên sử dụng những thành tựu giải phẫu sinh lý 
và bệnh học lứa tuổi, nhất là những số liệu về sự phát triển của hệ thần kinh và hoạt 
động thần kinh cao cấp của trẻ. 
Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là bảo đảm sự phát triển của trẻ, chuẩn bị cho 
nó bước vào cuộc sống. Để làm tốt việc này, nhà giáo dục phải nắm vững những đặc 
điểm và quy luật phát triển của đứa trẻ, nếu không sẽ phải mò mẫm và dễ bị sai lệch. 
Trong lĩnh vực giáo dục mầm non, tâm lý học trẻ em có một vị trí đặc biệt. Từ việc 
tổ chức đời sống đến việc hướng dẫn cho trẻ trong các hình thức hoạt động, muốn 
đạt được kết quả tốt, người nuôi dạy cần phải biết những đặc điểm và quy luật phát 
Đề Cương Bài Giảng Tâm lý học trẻ em Đào Việt Cường 
 2 
triển tâm lý của trẻ. Tâm lý học trẻ em không những giúp cho người nuôi dạy trẻ có 
khả năng hiểu trẻ mà còn biết vun trồng và phát triển tất cả những phẩm chất tốt đẹp 
của trẻ. Tránh được những thiếu sót trong công tác giáo dục trẻ. 
BÀI 2: CÁC QUY LUẬT PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TRẺ 
Tâm lý con người và tâm lý động vật luôn luôn phát triển. Tuy nhiên tính 
chất và nội dung của quá trình phát triển trong thế giới động vật và ở con người khác 
nhau. Cơ chế chủ yếu của sự phát triển tâm lý động vật là sự truyền kinh nghiệm từ 
thế hệ trước đến thế hệ sau bằng quy luật di truyền sinh học. Đặc điểm của các chức 
năng tâm lý người là chúng được phát triển trong quá trình trẻ lĩnh hội kinh nghiệm 
– lịch sử, theo quy luật di truyền xã hội hay kế thừa văn hoá. 
Nên người là quá trình đứa trẻ lĩnh hội kinh nghiệm xã hội – lịch sử được loài 
người sáng tạo ra và giữ lại trong nền văn hoá, bằng hoạt động của chính trẻ em và 
luôn luôn được người lớn hướng dẫn – tức là giáo dục. Đây chính là cơ chế của sự 
phát triển tâm lý trẻ em. 
Phân tích cơ chế này, ta nhận thấy những điều kiện đó là những mối quan hệ 
giữa nền văn hoá với sự phát triển của trẻ, giữa hoạt động của chính trẻ với sự phát 
triển của nó, giữa những điều kiện sinh học với sự phát triển của trẻ 
Những mối quan hệ này đều mang tính phổ biến và tính tất yếu khách quan, 
vì vậy nó mang tính quy luật. 
I. QUAN HỆ GIỮA VĂN HOÁ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ: 
Cũng như mọi sinh vật, con người là một bộ phận của vũ trụ, chịu sự chi phối 
chặt chẽ của thế giới tự nhiên, nhưng cao hơn mọi sinh vật khác, con người còn có 
một thế giới nữa do mình sáng tạo ra, đó chính là văn hoá. Do đó nói tới văn hoá là 
nói tới thế giới tinh thần của con người và những thành tựu đạt được trong suốt tiến 
trình lịch sử của nó, để hoàn thiện mình và xã hội. 
Người ta chia văn hoá thành hai hình thái: Văn hoá vật chất và văn hoá tinh 
thần. Dù văn hoá vật chất hay văn hoá tinh thần đều chứa đựng những kinh nghiệm 
xã hội – lịch sử mà loài người đã tích luỹ được. Do đó sự phát triển diễn ra trong quá 
trình trẻ em lĩnh hội kinh nghiệm loài người trong nền văn hoá. 
Ngay từ khi ra đời trẻ đã tiếp xúc với nền văn hoá của loài người. Nền văn 
hoá xã hội với những sản phẩm vật chất tinh thần ngay từ đầu đã là nguồn gốc và nội 
dung của sự phát triển tâm lý. 
Sự phát triển tâm lý của trẻ chịu sự chi phối bởi những điều kiện sống, bởi 
trình độ văn hoá của những người xung quanh, bởi mức độ phong phú và tinh xảo 
của những phương tiện sống, bởi những biến động của xã hội. 
Sớm tiếp xúc với một nền văn hoá cao, đó là điều kiện thuận lợi cho sự hình 
thành và phát triển nhân cách của trẻ. 
Nền văn hoá chứa đựng kinh nghiệm xã hội-lịch sử của toàn nhân loại, nhưng 
ở mỗi dân tộc, mỗi địa phương do những điều kiện sống khác nhau nên đã hình 
Đề Cương Bài Giảng Tâm lý học trẻ em Đào Việt Cường 
 3 
thành nên những phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá khác nhau, tạo nên nền 
văn hoá mang bản sắc dân tộc, bản sắc vùng miền. 
Trong quá trình phát triển, trẻ tiếp nhận văn hoá theo hai con đường: 
- Con đường tự phát: 
Là sự tiếp nhận một cách tự nhiên của các yếu tố trong hoàn cảnh sống chủ 
yếu bằng bắt chước. Với con đường này, sự phát triển tâm lý của trẻ mang tính chất 
tuỳ tiện, những thành đạt nếu có trong bước đường lớn lên đều mang tính ngẫu 
nhiên. 
- Con đường tự giác (tức giáo dục): 
Là sự tác động có mục đích, có kế hoạch của người lớn đối với trẻ nhằm hình 
thành ở trẻ những phẩm chất nhân cách đáp ứng những yêu cầu của xã hội. Nói cách 
khác, giáo dục dưới dạng chung nhất là sự chuẩn bị cho trẻ bước vào đời sống xã 
hội. Đây là con đường chủ yếu để hình thành nhân cách cho trẻ em và để phát triển 
xã hội. 
Ngày nay, với sự tiến bộ của “công nghệ giáo dục”, người ta có thể điều 
khiển sự phát triển một cách chủ động. Trước hết là định hướng cho sự phát triển, 
lựa chọn nội dung và phương pháp tổ chức hoạt động cho trẻ nhằm lĩnh hội những 
kinh nghiệm trong nền văn hoá phù hợp với mỗi trình độ phát triển của trẻ em. 
Như vậy, văn hoá (trong đó có cả giáo dục) đóng vai trò cực kỳ quan trọng 
đối với sự phát triển tâm lý và hình thành nhân cách của trẻ em.. Nếu không được 
sống trong xã hội loài người, không được tiếp xúc với nền văn hoá nhân loại thì đứa 
trẻ sẽ không thể nên Người được. 
Đối với trẻ ở lứa tuổi mầm non, văn hoá gia đình giữ vai trò đặc biệt quan 
trọng. 
Văn hoá gia đình là một môi trường đặc biệt, giúp cho sự phát triển của trẻ 
thơ được thuận lợi. Trước hết vì đó là một môi trường an toàn, trong đó đứa trẻ luôn 
ở bên cạnh những người ruột thịt, luôn được thương yêu, ấp ủ nên đã tạo cho đứa trẻ 
cảm giác an toàn về tâm lý, về thể chất. 
Gia đình còn là một môi trường phong phú. Trong gia đình có ông bà, cha 
mẹ, anh chị em, tạo ra những mối quan hệ đa dạng giữa nhiều người ở độ tuổi khác 
nhau.Thế giới đồ vật trong nhà nhiều hình, nhiều vẻ tạo điều kiện cho trẻ làm quen 
với xung quanh. 
Trong gia đình, trẻ được nuôi dạy theo một phương thức, khác với phương 
thức giáo dục nhà trường. Thể hiện ở những đặc điểm sau đây: 
- Gia đình chăm sóc dạy dỗ trẻ bằng tình thương yêu ruột thịt. 
- Người lớn trong gia đình dạy trẻ bằng giao tiếp trực tiếp và thường xuyên 
với các em. 
- Gia đình không tiến hành giáo dục đồng loạt đối với các cháu trong cùng 
một nhóm. Gia đình chăm sóc, dạy dỗ từng cháu một, phù hợp với đặc điểm riêng 
của mỗi cháu. 
- Giáo dục gia đình thường bằng nhiều hình thức mang tính chất tổng hợp và 
đượm màu sắc nghệ thuật. 
Đề Cương Bài Giảng Tâm lý học trẻ em Đào Việt Cường 
 4 
Tuy nhiên hiệu quả của giáo dục gia đình hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ 
văn hoá của mỗi thành viên, đặc biệt là trình độ văn hoá của người mẹ. 
Cùng với sự phát triển của xã hội gia đình cũng đã biến đổi về cơ bản. Tuy 
vậy văn hoá gia đình vẫn luôn luôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với trẻ thơ. 
Sau này khi lớn khôn, mỗi người có thể chịu ảnh hưởng từ nhiều phía của nền văn 
hoá xã hội. Nhưng những gì mà văn hoá gia đình đã hun đúc nên vẫn được mang 
theo trong mỗi người đến suốt đời. 
II. QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA 
TRẺ: 
Để phát triển, để nên người, đứa trẻ phải tự hoạt động để lĩnh hội kinh 
nghiệm xã hội - lịch sử. Hoạt động không chỉ là nơi tâm lý con người được bộc lộ 
mà chính là cái hình thành nên tâm lý của con người. 
Muốn phát triển tâm lý và hình thành nhân cách trẻ em thì nhất thiết phải đưa 
chúng vào những hoạt động nhất định.Giáo dục trước hết phải là quá trình tổ chức 
hoạt động tích cực của trẻ em, qua đó mà chiếm lĩnh nền văn hoá của dân tộc và của 
nhân loại. 
Những phẩm chất tâm lý được hình thành không chỉ phụ thuộc vào tính tích 
cực hoạt động của cá nhân, mà còn phụ thuộc vào chất lượng hoạt động. 
Trong cuộc sống, con người có thể tham gia vào nhiều hoạt động, song có 
những dạng hoạt động trong giai đoạn này là chủ đạo, có ý nghĩa lớn đối với sự phát 
triển tâm lý, nhân cách, còn những hoạt động khác ít có ý nghĩa hơn, chỉ đóng vai 
trò thứ yếu. 
Ở mỗi giai đoạn phát triển có một hoạt động nhất định đóng vai trò chủ đạo, 
hoạt động này có những đặc điểm sau đây: 
- Là hoạt động có đối tượng mới, chưa hề có trước đó. Chính đối tượng mới 
này tạo ra những cái mới trong tâm lý, tức là tạo ra những phát triển. 
- Là hoạt động có khả năng chi phối toàn bộ đời sống tâm lý của trẻ em và 
tiếp theo đó những quá trình tâm lý sẽ được cải tổ, được tổ chức lại bằng hoạt động 
này. 
- Là hoạt động có khả năng chi phối các hoạt động khác cùng diễn ra đồng 
thời trong giai đoạn đó. 
Nhờ những đặc điểm này, hoạt động chủ đạo đã tạo ra những nét đặc trưng 
trong tâm lý của trẻ ở mỗi giai đoạn phát triển. 
Căn cứ vào sự thay đổi cơ bản trong điều kiện sống và hoạt động của trẻ, căn 
cứ vào những thay đổi trong cấu trúc tâm lý của trẻ và sự trưởng thành cơ thể của trẻ 
em, các nhà tâm lý đã chia ra một số thời kỳ chủ yếu trong sự phát triển tâm lý trẻ 
em: 
- Tuổi sơ sinh: mới sinh đến 2 tháng. Hoạt động chủ đạo: Ăn ngủ (chủ yếu 
thỏa mãn nhu cầu cơ thể: nhu cầu dinh dưỡng cho sự phát triển thể chất) 
- Tuổi hài nhi: 2 tháng đến 12 tháng. Hoạt động chủ đạo: Giao tiếp xúc cảm 
trực tiếp với người lớn (Nhu cầu tinh thần: gắn bó với người lớn) 
Đề Cương Bài Giảng Tâm lý học trẻ em Đào Việt Cường 
 5 
- Tuổi nhà trẻ (ấu nhi): 1 tuổi đến 3 tuổi. Hoạt động chủ đạo: Hoạt động với 
đồ vật (Nhu cầu tinh thần: tìm hiểu khám phá đối tượng) 
- Tuổi mẫu giáo: 3 tuổi đến 6 tuổi. Hoạt động chủ đạo: vui chơi (trung tâm là 
trò chơi đóng vai theo chủ đề) (Nhu cầu tinh thần: nhu cầu giao tiếp và thể hiện bản 
thân) 
- Tuổi nhi đồng: 6 tuổi đến 11 tuổi. Hoạt động chủ đạo: Học tập (Nhu cầu 
tinh thần: nhu cầu kiến thức khoa học) 
- Tuổi thiếu niên: 11 tuổi đến 15 tuổi. Hoạt động chủ đạo: Học tập và giao 
lưu nhóm bạn thân. 
- Tuổi đầu thanh niên: 15 tuổi đến 18 tuổi. Hoạt động chủ đạo: Học tập gắn 
với xu hướng nghề nghiệp, hoạt động xã hội. 
Tuy nhiên, cần nhớ rằng hoạt động chủ đạo không phải là hoạt động duy nhất 
chi phối đến sự hình thành và phát triển tâm lý của trẻ . 
III. ĐIỀU KIỆN SINH HỌC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ. 
Điều kiện sinh học bao gồm tất cả những yếu tố tạo nên hình thái cơ thể con 
người, trong đó đặc biệt quan trọng là hệ thần kinh, là cơ sở vật chất để diễn ra hoạt 
động tâm lý, như một đại diện của loài người. 
Các điều kiện sinh học không quyết định hoàn toàn sự phát triển tâm lý của 
trẻ theo con đường di truyền sinh học, nhưng cũng cần phải xác định rõ vai trò của 
nó trong sự phát triển ấy. 
Ngay từ khi lọt lòng mẹ, trẻ đã kế thừa từ tổ tiên của mình cấu tạo và chức 
năng cơ thể, đã có một hệ thần kinh với một bộ não người có khả năng trở thành cơ 
quan hoạt động tâm lý cực kỳ phức tạp mà chỉ con người mới có. Không có bộ não 
người thì không thể nảy sinh các phẩm chất tâm lý của con người. 
Điều kiện sinh học còn ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý của trẻ ở những 
điều sau đây: 
- Những chức năng tâm lý sơ đẳng của con người như các cảm giác gắn liền 
với các giác quan. Chất lượng hoạt động của các giác quan sẽ ảnh hưởng đến các 
chức năng tâm lý bậc cao. 
- Kiểu hoạt động thần kinh cấp cao (mạnh hay yếu; cân bằng hay không cân 
bằng; linh hoạt hay không linh hoạt). Điều đó ảnh hưởng đến cách bộc lộ của hoạt 
động tâm lý, khiến cho hành vi của mỗi người mang sắc thái riêng. 
- Những độc tố trong cơ thể cha mẹ cũng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển tâm 
lý của trẻ em, nhất là đến trí tuệ. Chẳng hạn con cái của những người bị nhiễm chất 
độc màu da cam, nghiện ma tuý, nghiện rượu sẽ làm cho những tế bào của vỏ bán 
cầu đại não của con cái hoạt động không bình thường dẫn đến nhiều khuyết tật trong 
đời sống tâm lý và thường là chậm phát triển trí tuệ. 
Tóm lại: Những điều kiện sinh học có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển tâm lý 
của trẻ. Ảnh hưởng đó là ở chỗ nó tạo điều kiện thuận lợi hay gây trở ngại cho sự 
phát triển tâm lý với tốc độ nhanh hay chậm, dễ dàng hay khó khăn. 
Đề Cương Bài Giảng Tâm lý học trẻ em Đào Việt Cường 
 6 
Bài 3 : ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ TRONG NĂM ĐẦU 
I. ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ SƠ SINH (0 – 2 tháng). 
1.Vai trò của các phản xạ không điều kiện. 
Từ đời sống trong bụng mẹ, một môi trường trường đối ổn định, đứa trẻ ra 
đời như đột ngột bị đẩy vào một hoàn cảnh mới mẻ của môi trường không khí, với 
vô số kích thích của thế giới bên ngoài. 
Đời sống của bé trong môi trường mới được bảo đảm nhờ có những cơ chế di 
truyền có sẵn: hệ thống thần kinh đã sẵn sàng thích nghi với điều kiện bên ngoài, 
những hệ cơ quan cơ bản của cơ thể bắt đầu khởi động, nhờ đó trong những ngày 
đầu tiên các phản xạ tự vệ được thực hiện. Bên cạnh những phản xạ tự vệ, còn có 
các phản xạ định hướng, tức là những phản ứng của trẻ hướng tới những kích thích 
mới lạ. Phản xạ định hướng là cơ sở ban đầu của hoạt động tìm tòi của trẻ. Tuy 
nhiên sự tìm tòi của trẻ còn bị hạn chế bởi các giác quan còn quá non nớt. 
Trong những ngày đầu tiên của cuộc sống của trẻ đã có một số phản xạ không 
điều kiện, giúp trẻ thích ứng với hoàn cảnh sống mới. Phản xạ thở, phản xạ mắt và 
những phản xạ về nhiệt độ đều là những phản xạ bẩm sinh được thực hiện sau khi 
sinh ra. 
Tuy mới sinh ra đứa trẻ hầu như bất lực không tự phát triển được, nhưng lại 
có khả năng tiếp nhận kinh nghiệm và hành vi đặc biệt của con người. 
2.Tì ... c một số hành vi 
của mình. Từng bước một, trẻ 4 tuổi có thể điều khiển được quá trình ghi nhớ và nhớ 
lại một “tài liệu” nào đó do người lớn giao cho, ghi nhớ một bài thơ ngắn trẻ thích. 
Do hiểu được nhiều hành vi ngôn ngữ và biết sử dụng những hành vi ngôn 
ngữ, trẻ có thể bước đầu vận dụng để lập kế hoạch hành động và chỉ đạo hành động, 
trẻ thường nói to khi hành động. 
Việc phát triển, bộc lộ ý chí của trẻ mẫu giáo nhỡ phụ thuộc vào các nhiệm 
vụ mà người lớn giao cho trẻ (nhiệm vụ phải vừa sức với trẻ). 
Để giáo dục ý chí cho trẻ, cần phải giáo dục động cơ cho trẻ. Thường ở lứa 
tuổi này mục đích và động cơ trùng nhau, chưa tách ra được. 
V. SỰ PHÁT TRIỂN ĐỘNG CƠ VÀ SỰ HÌNH THÀNH HỆ THỐNG ĐỘNG 
CƠ. 
Cuối tuổi mẫu giáo bé, trong hành vi của trẻ đã xuất hiện những loại động cơ 
khác nhau, nhưng những động cơ ấy còn mờ nhạt, yế ớt, tản mạn. 
Đến cuối tuổi mẫu giáo nhỡ, các động cơ đã xuất hiện ở tuổi mẫu giáo bé 
được phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt đến cuối tuổi mẫu giáo nhỡ và lớn thì những 
động cơ đạo đức thể hiện thái độ của trẻ đối với những người khác có một ý nghĩa 
hết sức quan trọng trong sự phát triển các động cơ hành vi. 
Từ tuổi mẫu giáo nhỡ, những động cơ “vì xã hội” bắt đầu chiếm vị trí ngày 
càng lớn trong số các động cơ đạo đức. Trong thời kỳ này, trẻ đã hiểu rằng những 
hành vi của chúng có thể mang lại lợi ích cho những người khác và chúng bắt đầu 
thực hiện những công việc vì người khác theo sáng kiến của riêng mình. 
Động cơ hành vi của trẻ mẫu giáo nhỡ và lớn trở nên nhiều màu nhiều vẻ: 
động cơ muốn tự khẳng định mình, động cơ muốn nhận thức, muốn khám phá thế 
giới xung quanh, động cơ thi đua, động cơ xã hội Cần phải quan tâm đến nội dung 
động cơ của trẻ, cần phải phát huy động cơ tích cực và ngăn chặn động cơ tiêu cực. 
Ở lứa tuổi này đã bắt đầu hình thành quan hệ phụ thuộc theo thứ bậc của các 
động cơ, được gọi là hệ thống thứ bậc các động cơ. Đó là một cấu tạo tâm lý mới 
trong sự phát triển nhân cách của trẻ mẫu giáo. 
Trong hệ thống thứ bậc này, các động cơ được sắp xếp theo ý nghĩa quan 
trọng của mỗi động cơ đối với bản thân đứa trẻ. Trước một công việc, mỗi trẻ em 
đều có thể có một hệ thống thứ bậc các động cơ thúc đẩy. Sự khác nhau giữa trẻ em 
ở đây rõ nhất là trong hệ thống thứ bậc của động cơ, xem động cơ nào chiếm ưu thế 
Đề Cương Bài Giảng Tâm lý học trẻ em Đào Việt Cường 
 31 
nhất. Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào sự giáo dục của người lớn và ảnh hưởng của 
cuộc sống bên ngoài mà trẻ tiếp xúc. 
Hệ thống thứ bậc các động cơ được hình thành ở tuổi này khiến cho toàn bộ 
hành vi của trẻ nhằm theo một xu hướng nhất định. Đây là điểm khác với hành vi 
của trẻ mẫu giáo bé. 
Ở trẻ mẫu giáo nhỡ trở đi, hành vi của chúng tương đối dễ xác định. Nếu 
động cơ vì xã hội chiếm ưu thế thì trẻ sẽ thực hiện những hành vi mang tính đạo đức 
tốt đẹp. Ngược lại nếu động cơ nhằm thoả mãn quyền lợi riêng chiếm ưu thế thì 
trong nhiều trường hợp trẻ sẽ hành động nhằm tìm kiếm những quyền lợi cá nhân 
ích kỷ, dẫn đến những sai phạm nghiêm trọng về quy tắc đạo đức xã hội. Đối với 
những đứa trẻ này cần áp dụng những biện pháp giáo dục thích hợp, có hiệu quả 
nhằm thay đổi những cơ sở của nhân cách đã được hình thành một cách bất lợi này, 
trước hết phải cảm hoá trẻ bằng tình yêu thương, đồng thời lại đòi hỏi ở chúng sự 
yêu thương và quan tâm đến những người xung quanh, tạo ra những tình huống để 
gợi lên ở trẻ những hành vi đạo đức tốt đẹp. 
Bài 8 : ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TRẺ TUỔI MẪU GIÁO LỚN 
I. HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA TRẺ MẪU GIÁO LỚN. 
Học tập ở mẫu giáo lớn vẫn là “Học mà chơi, chơi mà học”. Học theo nghĩa 
là chơi theo một trình tự hành động gần giống như học, bởi lẽ việc thiết kế “Học mà 
chơi” thể hiện: 
Nội dung học vừa nhẹ nhàng, vừa hấp dẫn trẻ, đối tượng của “tiết học” là 
những kiến thức rất cụ thể, trực quan sinh động. 
Các trình tự học tập diễn ra giống với tiết học, nhưng không nghiêm ngặt, 
căng thẳng như tiết học. Nhưng tiết học vẫn đủ các bước lên lớp như: tổ chức lớp, 
tiến hành tiết dạy (vào bài, nêu câu hỏi đặt vấn đề, giảng giải khái niệm), kết thúc 
tiết dạy bằng cách cho trẻ nhắc lại những khái niệm đã học (củng cố bài) 
Những chức năng tâm lý diễn ra trong “tiết học” giống như tiết học ở lớp 
một, học sinh phải chú ý nghe cô hướng dẫn, giảng giải, phải sử dụng các hình thức 
nhớ, các thao tác tư duy diễn ra theo yêu cầu của tiết học. Ý thức được huy động đến 
mức tối đa để hiểu bài. 
Quan hệ bạn bè trong khi “Học mà chơi” cũng được thiết lập gần như quan hệ 
bạn bè ở lớp một, quan hệ cô và trẻ cũng tương tự như cô giáo và học sinh ở lớp một 
nghĩa là cô có thể đứng “giảng bài” nhưng cũng có thể ngồi cùng trẻ để giải thích, 
phân tích chứng minh. Ngôn ngữ của cô vừa mạch lạc, rõ ràng vừa diễn cảm, đặc 
biệt ở môn truyện, thơ lại kèm cả tranh, ảnh 
Các “tiết” học âm nhạc, nghệ thuật tạo hình đã khơi dậy hứng thú học tập 
thật sự đối với trẻ. 
Tóm lại: Trẻ tập làm quen với các tiết học để lĩnh hội những tri thức đơn giản 
gần gũi đối với trẻ, nhưng là tiền đề để trẻ vào lớp một. Trẻ dần dần nhận thức được 
nhiệm vụ học tập, bổn phận, trách nhiệm của học sinh phải làm gì cho cô giáo vui 
lòng, bạn bè yêu mến. 
Đề Cương Bài Giảng Tâm lý học trẻ em Đào Việt Cường 
 32 
II. SỰ PHÁT TRIỂN CHÚ Ý CỦA TRẺ MẪU GIÁO LỚN. 
Nhiều phẩm chất chú ý của trẻ đã được phát triển, trẻ biết hướng ý thức của 
mình vào các đối tượng cần cho vui chơi, học tập hoặc lao động tự phục vụ. 
Trẻ có khả năng chú ý có chủ định từ 37 – 51 phút, đối tượng chú ý hấp dẫn, 
nhiều thay đổi, kích thích được sự tò mò, ham hiểu biết của trẻ. 
Trẻ có thể phân phối được chú ý vào 2, 3 đối tượng cùng một lúc, tuy nhiên 
thời gian phân phối chú ý chưa bền vững, dễ dao động. 
Di chuyển chú ý của trẻ nhanh, nếu sự hướng dẫn di chuyển tốt. Sự phân tán 
chú ý ở trẻ còn mạnh, nhiều khi trẻ không tự chủ được do xung lực bản năng chi 
phối. Do vậy cần thay đổi đồ chơi, trò chơi hấp dẫn hơn. 
Ở giai đoạn này ý nghĩa của âm thanh làm cho trẻ đã chú ý nhiều. Từ âm 
thanh bên ngoài, trẻ biết chú ý tập trung vào sự suy nghĩ, cảm xúc bên trong óc trẻ. 
Cần luyện tập các phẩm chất chú ý cho trẻ qua các trò chơi và các tiết học. 
III. SỰ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CỦA TRẺ TUỔI MẪU GIÁO LỚN. 
Trẻ sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ theo các hướng: 
Nắm vững ngữ âm và ngữ điệu khi sử dụng tiếng mẹ đẻ: Trẻ biết đọc diễn 
cảm, biết dùng điệu bộ bổ sung cho ngôn ngữ nói. 
Vốn từ và cơ cấu ngữ pháp phát triển. 
Các tính chất ngôn ngữ thường gặp ở trẻ 5 – 6 tuổi là: 
Ngôn ngữ giải thích, trẻ có nhu cầu nhận sự giải thích và cũng thích giải thích 
cho các bạn. 
Ngôn ngữ tình huống (hoàn cảnh) do giao tiếp với người xung quanh bằng 
những thông tin mà trẻ trực tiếp tri giác được trong khung cảnh. 
Tính mạch lạc rõ ràng: do vốn từ của trẻ chiếm 50% là danh từ, nên câu nói 
của trẻ thường ngắn gọn, rõ ràng. 
Tính địa phương trong ngôn ngữ nền văn hoá của địa phương, cộng đồng thể 
hiện rõ trong ngôn ngữ của trẻ (nói ngọng, nói mất dấu ). 
Tính cá nhân đã bộc lộ rõ qua các sắc thái khác nhau của trẻ, đặc biệt ở chức 
năng ngôn ngữ biểu cảm. 
Việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp và các tính chất của ngôn ngữ ở trẻ 
phụ thuộc phần lớn vào việc hướng dẫn và sự gương mẫu về lời nói của người lớn. 
III. SỰ PHÁT TRIỂN CÁC QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA TRẺ MẪU 
GIÁO LỚN. 
Các hiện tượng tâm lý như tri giác, trí nhớ, tưởng tượng về cơ bản là sự nối 
tiếp sự phát triển ở lứa tuổi từ 4 – 5 tuổi nhưng đạt chất lượng mới hơn. Thể hiện ở: 
+ Mức độ phong phú của các kiểu loại. 
+ Mức độ chủ định các quá trình tâm lý rõ ràng hơn, có ý thức hơn. 
Đề Cương Bài Giảng Tâm lý học trẻ em Đào Việt Cường 
 33 
+ Tính mục đích hình thành và phát triển ở mức độ cao hơn. 
+ Độ nhạy cảm của các giác quan được tinh nhạy hơn. 
+ Khả năng kiềm chế các phản ứng tâm lý được phát triển. 
Ở đây chúng ta chỉ đề cập tới quá trình tâm lý phát triển mạnh mẽ và đặc 
trưng nhất, đó là tư duy. 
Sự phát triển tư duy ở độ tuổi này mạnh mẽ về kiểu loại, các thao tác và thiết 
lập nhanh chóng các mối quan hệ giữa các sự kiện, hiện tượng, thông tin giữa mới 
và cũ, gần và xa 
Đặc tính chung của sự phát triển tư duy: 
Trẻ đã biết phân tích tổng hợp không chỉ dừng lại ở đồ vật, hình ảnh mà ngay 
cả từ ngữ. 
Tư duy của trẻ dần dần mất đi tính duy kỷ, tiến dần đến khách quan, hiện 
thực hơn. Dần dần trẻ phân biệt được thực và hư. 
Đã có tư duy trừu tượng với các con số, không gian, thời gian, quan hệ xã 
hội 
Ý thức rõ về những ý nghĩ, tình cảm của mình, trách nhiệm đối với hành vi. 
Các phẩm chất của tư duy đã bộc lộ đủ về cấu tạo và chức năng hoạt động 
của nó như tính mục đích, độc lập sáng tạo, tính linh hoạt, độ mềm dẻo 
Ở trẻ 5 – 6 tuổi phát triển cả 3 loại tư duy, tư duy hành động trực quan vẫn 
chiếm ưu thế. Tuy nhiên do nhiệm vụ hoạt động mà cả loại tư duy hình ảnh trực 
quan, tư duy trừu tượng dược phát triển ở trẻ. Loại tư duy này giúp trẻ đến gần với 
hiện thực khách quan. 
V. SỰ PHÁT TRIỂN XÚC CẢM, TÌNH CẢM VÀ Ý CHÍ CỦA TRẺ MẪU 
GIÁO LỚN. 
1. Sự phát triển xúc cảm và tình cảm. 
Ở lứa tuổi này trẻ xuất hiện tình cảm bạn bè. 
Đời sống xúc cảm, tình cảm ổn định hơn so với trẻ 4 – 5 tuổi, mức độ phong 
phú, phức tạp tăng dần theo các mối quan hệ giao tiếp với những người xung quanh. 
Các sắc thái xúc cảm con người trong quan hệ với các loại lứa tuổi khác 
nhau, vị trí xã hội khác nhau, được hình thành như: Tình cảm mẹ con, ông bà, anh 
chị em, tình cảm với cô giáo, với người thân, người lạ 
Tuy nhiên đời sống xúc cảm của trẻ còn dễ dao động, mang tính chất tình 
huống. 
a. Tình cảm trí tuệ: Tình cảm trí tuệ của trẻ phát triển, mỗi nhận thức mới đều 
kích thích niềm vui, hứng thú, sự say mê thích thú của trẻ; tính tò mò ham hiểu biết, 
làm nảy sinh nhiều xúc cảm tích cực; trong vui chơi, học tập, lao động tự phục vụ 
nhiều thành công thất bại củng cố sự phát triển tình cảm trí tuệ ở trẻ. 
b. Tình cảm đạo đức: Do lĩnh hội được ý nghĩa các chuẩn mực hành vi tốt, 
xấu. Qua vui chơi giao tiếp với mọi người; do các thói quen nếp sống tốt được gia 
Đề Cương Bài Giảng Tâm lý học trẻ em Đào Việt Cường 
 34 
đình, các lớp mẫu giáo xây dựng cho trẻ Trẻ ý thức được nhiều hành vi tốt đẹp 
cần thực hiện để vui lòng mọi người. 
c. Tình cảm thẩm mỹ: Qua các tiết học nghệ thuật tạo hình, âm nhạc, tìm hiểu 
môi trường xung quanh Cùng với những nhận thức về cái đẹp tự nhiên, hài hoà về 
bố cục, sắp xếp trong gia đình và lớp học. Trẻ ý thức rõ nét về cái đẹp cái xấu theo 
chuẩn (lúc đầu theo chuẩn của bé dần dần phù hợp với đánh giá của những người 
xung quanh) xúc cảm thẩm mỹ, óc thẩm mỹ phát triển. 
2. Sự phát triển ý chí . 
Do có khả năng làm chủ được nhiều hành vi, được người lớn giao cho nhiều 
việc nhỏ Trẻ dần dần đã xác định rõ mục đích của hành động. Trẻ dần dần tách 
động cơ ra khỏi mục đích với sự cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. 
Trẻ muốn chơi trò chơi, trẻ muốn được nghe kể chuyện nhiều hơn nhưng 
không được cô giáo đáp ứng, phải chuyển trò chơi mà trẻ không thích. 
Tính mục đích càng ngày càng được trẻ ý thức và cố gắng hoàn thành công 
việc. 
Tính kế hoạch xuất hiện, trẻ biết sắp xếp “công việc” vui chơi và phải quét 
nhà, nhặt rau để khi mẹ về là mọi việc phải xong cho mẹ hài lòng. 
Tinh thần trách nhiệm bản thân dần dần được hình thành ở trẻ. 
Sự phát triển ý chí mạnh hay yếu tuỳ thuộc phần lớn vào sự giáo dục, các 
biện pháp giáo dục của cha mẹ, cô giáo và những người lớn xung quanh. 
VI. SỰ XÁC ĐỊNH Ý THỨC BẢN NGÃ. 
Tiền đề của ý thức bản ngã là việc tự tách mình ra khỏi người khác đã được 
hình thành từ cuối tuổi ấu nhi. Tuy nhiên phải trải qua một quá trình phát triển thì ý 
thức bản ngã của trẻ mới được xác định rõ ràng.Đến cuối tuổi mẫu giáo, trẻ mới hiểu 
được mình như thế nào, có những phẩm chất gì, những người xung quanh đối xử với 
mình ra sao, và tại sao mình có hành động này hay hành động khác ý thức bản ngã 
được thể hiện rõ nhất trong sự tự đánh giá về thành công và thất bại của mình, về 
những ưu điểm và khuyết điểm của bản thân, về những khả năng và cả sự bất lực 
nữa. 
Để đánh giá bản thân một cách đúng đắn, đầu tiên đứa trẻ phải học cách đánh 
giá người khác và nghe những người xung quanh đánh giá mình như thế nào. 
Thoạt đầu sự đánh giá của trẻ về người khác còn phụ thuộc nhiều vào thái độ 
của nó đối với người này. Chẳng hạn mọi đứa trẻ đều đánh giá mẹ mình bao giờ 
cũng tốt. 
Cuối tuổi mẫu giáo lớn, trẻ nắm được kỹ năng so sánh mình với người khác, 
điều này là cơ sở để tự đánh giá một cách đúng đắn hơn và cũng là cơ sở để noi 
gương những người tốt, việc tốt. 
Ở tuổi mẫu giáo lớn, sự tự ý thức còn được biểu hiện rõ trong sự phát triển 
giới tính của trẻ. Trẻ không những nhận ra mình là trai hay gái mà còn biết nếu mình 
là trai hay gái thì hành vi này phải thể hiện như thế nào cho phù hợp với giới tính 
của mình. 
Đề Cương Bài Giảng Tâm lý học trẻ em Đào Việt Cường 
 35 
Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng giúp trẻ điều khiển và điều chỉnh hành 
vi của mình dần dần phù hợp với những chuẩn mực, những quy tắc xã hội, từ đó 
hành vi của trẻ mang tính xã hội. 
Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng còn cho phép trẻ thực hiện các hành 
động có chủ tâm hơn. Nhờ đó các quá trình tâm lý mang tính chủ định rõ rệt. 
VII. BƢỚC NGOẶT 6 TUỔI VÀ SỰ CHUẨN BỊ VỀ MẶT TÂM LÝ CHO 
TRẺ VÀO HỌC LỚP 1. 
Thời điểm lúc trẻ tròn 6 tuổi là một bước ngoặt quan trọng của trẻ em. Ở độ 
tuổi mẫu giáo lớn là thời kỳ trẻ đang tiến vào bước ngoặt đó với sự biến đổi của hoạt 
động chủ đạo. Hoạt động vui chơi vốn giữ vị trí chủ đạo trong trong suốt thời kỳ 
mẫu giáo, nhưng vào cuối tuổi này không còn giữ nguyên dạng hoàn chỉnh của nó, 
những yếu tố của hoạt động học tập bắt đầu nảy sinh. 
Cuối giai đoạn mẫu giáo lớn, trẻ đã có những tiền đề cần thiết của sự chín 
muồi đến trường về các mặt tâm sinh lý, nhận thức, trí tuệ ngôn ngữ và tâm thế để 
trẻ có thể thích nghi bước đầu với điều kiện học tập ở lớp 1. 
Việc chuẩn bị cho trẻ vào học lớp 1 là chuẩn bị những tiền đề, những yếu tố 
của hoạt động học tập để có thể thích ứng tốt nhất, nhanh nhất đối với việc học ở lớp 
1. Có thể có hai lĩnh vực cần chuẩn bị: 
a. Chuẩn bị chung, tổng quát cho trẻ bao gồm: 
+ Chuẩn bị về thể lực: bảo đảm cho trẻ khoẻ về thể xác và tinh thần, dẻo dai 
và linh hoạt, năng lực phối hợp các vận động cơ bản. 
+ Chuẩn bị về trí tuệ: óc tò mò ham hiểu biết, óc tưởng tượng, chú ý, trí nhớ, 
tư duy 
+ Chuẩn bị về một số nét nhân cách: một số nét ý chí của nhân cách (Tính 
chủ định, tự lập, kiên trì), một số nét nhân cách biểu hiện thái độ đối với xã hội và 
bản thân (lòng tự trọng, tự đánh giá, tinh thần hợp tác) 
b. Chuẩn bị chuyên biệt: Là sự chuẩn bị những năng lực và phẩm chất chuyên 
biệt, trực tiếp giúp trẻ dễ dàng và nhanh chóng thích ứng với việc tham gia vào các 
tiết học, môn học ở lớp 1. Cụ thể là: 
+ Chuẩn bị cho trẻ dễ làm quen, thích ứng với hình thức “tiết học” ở lớp 1 và 
cấp tiểu học sau này. 
+ Chuẩn bị về động cơ học tập. 
+ Chuẩn bị về nhận thức nhiệm vụ học tập. 
+ Chuẩn bị về cách học. 
Việc chuẩn bị tốt các nội dung trên sẽ giúp trẻ nhanh chóng thích nghi, thích 
ứng trường học. 
Hết! 

File đính kèm:

  • pdfde_cuong_bai_giang_tam_ly_hoc_tre_em.pdf