Đề tài Rừng mưa nhiệt đới?

Rừng mưa nhiệt đới là một kiểu của hệ sinh thái xuất hiện nhiều tại vĩ độ 28 độ Bắc hay Nam của đường xích đạo (trong khu vực xích đạo giữa chí tuyến Bắc và chí tuyến Nam). Hệ sinh thái này tồn tại nhiệt độ trung bình khá cao và lượng mưa đáng kể. Rừng mưa có thể được tìm thấy ở Châu Á, Châu Úc, Châu Phi, Nam Mỹ, Trung Mỹ và trên nhiều hòn đảo ở Thái Bình Dương, vùng Caribe, Ấn Độ Dương. Theo như bảng phân loại quần xã sinh vật của Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên, rừng mưa nhiệt đới được cho là một dạng rừng ẩm ướt nhiệt đới(hay rừng lá rộng ẩm ướt nhiệt đới) và cũng có thể được xem là rừng thường xanh đồng bằng tại xích đạo.

 

docx 11 trang yennguyen 3520
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Rừng mưa nhiệt đới?", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Rừng mưa nhiệt đới?

Đề tài Rừng mưa nhiệt đới?
Rừng mưa nhiệt đới?
Rừng mưa nhiệt đới?
Rừng mưa nhiệt đới là một kiểu của hệ sinh thái xuất hiện nhiều tại vĩ độ 28 độ Bắc hay Nam của đường xích đạo (trong khu vực xích đạo giữa chí tuyến Bắc và chí tuyến Nam). Hệ sinh thái này tồn tại nhiệt độ trung bình khá cao và lượng mưa đáng kể. Rừng mưa có thể được tìm thấy ở Châu Á, Châu Úc, Châu Phi, Nam Mỹ, Trung Mỹ và trên nhiều hòn đảo ở Thái Bình Dương, vùng Caribe, Ấn Độ Dương. Theo như bảng phân loại quần xã sinh vật của Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên, rừng mưa nhiệt đới được cho là một dạng rừng ẩm ướt nhiệt đới(hay rừng lá rộng ẩm ướt nhiệt đới) và cũng có thể được xem là rừng thường xanh đồng bằng tại xích đạo. 
Mục lục
Tổng quan
Rừng mưa sông Amazon ở Peru
Rừng mưa nhiệt đới có thể được mô tả bằng hai chữ: nóng và ẩm. Có nghĩa là nhiệt độ hàng tháng đều vượt quá 18 độ C (64 độ F) trong cả năm. Lượng mưa trung bình hàng năm không thấp hơn 168 cm (66 inch) và có thể vượt hơn 1000 cm (390 inch) dù rằng nó thường nằm giữa khoảng 175 cm (69 inch) và 200 cm (79 inch). Lượng mưa cao như thế này thường làm cho đất nghèo chất dinh dưỡng do các chất dinh dưỡng dễ tan thường bị rửa trôi đi.
Rừng mưa nhiệt đới thể hiện các mức độ đa dạng sinh học rất cao. Khoảng 40% đến 75% trong tất cả các loài sinh vật đều là bản địa. Rừng mưa còn là nhà của một nửa các sinh vật sống và các loài thực thật của cả hành tinh. Hai phần ba trong tất cả các loài thực vật có hoa có thể được tìm thấy trong các rừng mưa. Một hecta rừng mưa có thể có 42000 loài côn trùng khác nhau, khoảng 807 cây trong 313 loài và 1500 loài thực vật mọc cao hơn. Rừng mưa nhiệt đới còn được gọi là “kho thuốc lớn nhất thế giới”, bởi vì hơn một phần tư các loại thuốc tự nhiên đã được tìm thấy tại đó. Có vẻ như là còn hàng triệu loài thực vật, côn trùng và vi sinh vậtvẫn chưa được phát hiện trong các rừng mưa nhiệt đới.
Rừng mưa nhiệt đới nằm trong những hệ sinh thái bị đe dọa nhất trên toàn thế giới do sự chia cắt quy mô lớn bởi hoạt động của con người. Sự chia cắt môi trường sống gây ra bởi các quá trình địa lý chẳng hạn như hoạt động núi lửa và sự biến đổi khí hậu xảy ra trong quá khứ, và đã được nhận biết là những nguyên nhân quan trọng của sự hình thành loài. Tuy nhiên, sự hủy diệt môi trường sống gây ra nhanh chóng bởi con người bị nghi ngờ là một trong những nguyên nhân chính của sự tuyệt chủng các loài. Rừng mưa nhiệt đới đã là mục tiêu cho việc khai thác gỗ và phá rừng làm đất nông nghiệp quy mô lớn trong suốt thế kỷ 20, và những khu vực được bao phủ bởi rừng mưa trên toàn thế giới đang bị thu nhỏ nhanh chóng. 
Lịch sử
Rừng mưa nhiệt đới đã tồn tại trên Trái đất hàng trăm triệu năm. Hầu hết rừng mưa nhiệt đới ngày nay nằm trên các mảng của siêu lục địa Gondwana, Đại Trung sinh.[13] Sự chia cắt đại lục đã gây ra mất mát rất lớn ở các loài lưỡng cư, cùng lúc đó khí hậu khô hơn đã thúc đẩy sự đa dạng hóa của các loài bò sát. Sự phân chia đã để lại rừng mưa nhiệt đới tại năm vùng đất chính của thế giới: Châu Mỹ, Châu Phi, Đông Nam Á, Madagascar, và New Guinea, với một phần nhỏ hơn nằm ở rìa ngoài của Châu Úc. Tuy nhiên, những chi tiết về nguồn gốc của rừng mưa vẫn còn chưa chắc chắn bởi vì các di chỉ hóa thạch không đầy đủ.
Các kiểu rừng mưa nhiệt đới
Vài kiểu rừng có quần xã sinh vật của rừng mưa nhiệt đới:
Rừng mưa Daintree ở Queensland
'Rừng mưa thường xanh đồng bằng tại xích đạo là các khu rừng nhận lượng mưa cao (hơn 2000 mm, hay 80 inch hàng năm) trong cả năm. Những khu rừng này xuất hiện trong một vành đai xung quanh đường xích đạo, với những khu vực lớn nhất tại lưu vực Amazon ở Nam Mỹ, lưu vực Congo ở Trung Phi, Indonesia, và New Guinea.
Rừng theo mùa ẩm ướt bán thường xanh và rụng lá, nhận lượng mưa cao với một mùa hạ có mưa ấm áp và một mùa đông khô ráo và mát hơn. Một số cây trong những khu rừng này rụng một phần hoặc toàn bộ lá trong mùa đông. Những khu rừng này được tìm thấy ở các vùng thuộc Nam Mỹ, Trung Mỹ và xung quanh Caribê, vùng duyên hải Tây Phi, các vùng của tiểu lục địa Ấn Độ, và băng ngang hầu hết bán đảo Đông Dương.
Rừng mưa vùng núi, một số được biết đến với tên gọi “rừng mây” (rừng sương mù), được tìm thấy ở các khu vực trên núi với khí hậu mát hơn. Tùy thuộc vào vĩ độ, phần giới hạn bên dưới của rừng mưa vùng núi trên các dãy núi lớn thường là giữa 1500m và 2500m, còn phần giới hạn bên trên thì thường là từ 2400m đến 3300m. 
Rừng nước ngọt, gồm bảy loại được biết đến tại khu bảo tồn Tambopata, Peru, Amazon. 
Rừng đầm lầy úng nước lâu dài – Trước đây là hồ móng ngựa, vẫn còn ngập nước nhưng được bao phủ bởi rừng.
Rừng đầm lầy úng nước theo mùa – Các hồ móng ngựa đang trong quá trình thêm nước.
Rừng bãi bồi đồng bằng – Các vị trí bãi bồi thấp nhất với khu rừng dễ nhận thấy.
Rừng bãi bồi đất trung – Rừng cao, thỉnh thoảng ngập nước.
Rừng bãi bồi đất cao – Rừng cao, hiếm khi ngập nước.
Rừng bãi bồi cũ – Là nơi được để ngập trong khoảng 200 năm trước.
Khu bãi bồi cũ – Hiện giờ là bãi đất khô (terra firme), nhưng theo lịch sử thì đã từng là bãi bồi của sông Tambopata.
Cấu trúc rừng 
Rừng mưa nhiệt đới được chia làm các tầng khác nhau, hay còn gọi là lớp, với thảm thực vật được cấu tạo thành một mô hình chiều dọc từ mặt đất đến tán rừng. Mỗi tầng là một quần thể sinh vật duy nhất bao gồm các loại động thực vật khác nhau, thích nghi với điều kiện sống ở riêng tầng đó. Chỉ có tầng trội (tầng vượt tán) là độc nhất ở rừng mưa nhiệt đới, trong khi các tầng khác cũng được tìm thấy ở rừng mưa ôn đới.
Tầng thảm tươi
Là tầng thấp nhất, chỉ nhận được 2% lượng ánh sáng mặt trời. Chỉ có những thực vật nào thích nghi được với ánh nắng ít mới có thể phát triển được dưới này. Cách xa khỏi các bờ sông, đầm lầy và các khoảng rừng thưa, nơi mà các cây tầng thấp rậm rạp được tìm thấy, thì tầng thảm tươi lại tương đối ít các loài thực vật bởi vì ít ánh sáng mặt trời đến được. Điều này cho phép các loài động vật lớn có thể di chuyển dễ dàng hơn, chẳng hạn như: các loài có móng guốc như hươu đùi vằn (Okapia johnstoni), heo vòi (tapirus sp.), tê giác Sumatra (Dicerorhinus sumatrensis), và các loài khỉ không đuôi giồng như khỉ đột đồng bằng phía Tây (Gorilla gorilla), cũng như nhiều loài bò sát, lưỡng cư, và côn trùng. Tầng thảm tươi cũng có các phần thực vật và động vật đang trong trạng thái phân hủy, mà sẽ biến mất nhanh chóng, bởi vì điều kiện ấm, ẩm ướt sẽ đẩy nhanh quá trình phân hủy. Nhiều loại nấm phát triển ở đây cũng giúp phân hủy xác động vật và thực vật.
Tầng dưới tán
Tầng dưới tán nằm giữa tầng tán chính và tầng thảm tươi. Tầng dưới tán là nhà của nhiều loài chim, động vật có vú nhỏ, côn trùng, bò sát, và thú săn mồi. Bao gồm báo (Panthera pardus), ếch phi tiêu độc (Dendrobates sp.), Nasua nasua (họ Gấu mèo Bắc Mỹ), trăn Mỹ nhiệt đới (Boa constrictor), và nhiều loại bọ cánh cứng. Thảm thực vật tại tầng này thường bao gồm các cây bụi chịu bóng, thảo mộc, cây gỗ nhỏ, và các loại dây leo thân gỗ lớn mà hay bò lên các cây gỗ để đón ánh sáng mặt trời. Chỉ có khoảng 5% ánh sáng mặt trời xuyên qua được tầng tán chính để đến được tần dưới tán, làm cho thực vật tần dưới tán ít khi phát triển lên đến 3 m (10 feet). Để thích nghi với mức độ ánh sáng thấp như thế này, các thực vật ở đây thường tiến hóa với lá to hơn. Nhiều cây con mà sẽ phát triển đến tầng tán chính đều nằm ở tầng dưới tán.
Tầng tán chính tại Học viện nghiên cứu rừng Malaysia.
Tầng tán chính 
Tầng tán chính là tầng quan trọng nhất của một khu rừng, tạo thành phần mái che cho hai tầng còn lại. Nó bao gồm phần lớn các cây gỗ to nhất, thường là cao từ 30–45 m. Các cây thường xanh cao, lá rộng là các cây chiếm ưu thế. Những khu vực có quần thể sinh vật rậm rạp nhất thường được tìm thấy tại tầng tán chính của rừng, vì nó thường hỗ trợ nhiều quần thể thực vật biểu sinh bao gồm lan, cây họ dứa, rêu và địa y. Những thực vật biểu sinh này bám vào các thân và cành, nhánh của cây để lấy nước và khoáng chất từ mưa và các mảng vật chất thu được từ các cây hỗ trợ. Quần thể động vật ở đây cũng tương tự như trên tầng trội, nhưng đa dạng hơn. Người ta cho là tổng tất cả các loài chân khớp của tầng tán chính nhiệt đới có thể lên đến 20 triệu loài. Những loài khác sống ở tầng này bao gồm nhiều loài chim, chẳng hạn như Ceratogymna elata, Hedydipna collaris, vẹt xám châu Phi, Ramphastos sulfuratus, vẹt hồng cũng như các loài động vật khác như Ateles, Papilio antimachus, Bradypus, Potos flavus, Tamandua. 
Tầng trội (Tầng vượt tán)
Tầng trội có ít các cây gỗ lớn, mọc cao hơn tầng tán chính, vươn đến độ cao 45 – 55 m, dù rằng thỉnh thoảng một vài loài sẽ mọc cao đến 70 – 80 m. Ví dụ như cây Lecythis ampla.  Những cây này cần phải có khả năng chịu được nhiệt độ cao và gió mạnh mà hay xuất hiện ở trên tầng tán chính tại một số vùng. Vài loài động vật đặc biệt sống tại tầng này chẳng hạn như đại bàng rừng châu Phi, Colobus polykomos, dơi quạ lớn. 
Tuy nhiên, sự phân tầng không phải luôn luôn rõ ràng. Các khu rừng mưa luôn thay đổi không ngừng và nhiều thay đổi ảnh hưởng đến cấu trúc của rừng. Ví dụ, khi các cây tầng trội và tầng tán chính bị đổ, chúng sẽ tạo ra các khoảng hở. Những khoảng hở trên tầng tán chính của rừng được biết đến là rất quan trọng đối với việc trồng và phát triển của cây ở rừng mưa. Người ta đánh giá rằng khoảng 75% các loài cây tại La Selva Biological Station, Costa Rica đều phụ thuộc vào các khoảng hở tại tầng tán chính để nảy mầm hạt giống hay để phát triển qua khỏi giai đoạn cây con
Sinh thái học
Khí hậu
Hầu hết rừng mưa nhiệt đới đều nằm xung quanh hoặc gần đường xích đạo, do đó tồn tại cái gọi là khí hậu xích đạo, đặc trưng bởi ba thông số khí hậu chính: nhiệt độ, lượng mưa, và cường độ mùa khô. Các thông số khác ảnh hưởng đến rừng mưa nhiệt đới là nồng độ cacbon điôxít, bức xạ mặt trời, và sự hiện hữu của nitơ. Nói chung, các kiểu khí hậu đều bao gồm nhiệt độ ấm và lượng mưa hàng năm cao. Tuy nhiên, lượng mưa phong phú thay đổi xuyên suốt cả năm tạo nên các mùa khô và mưa riêng biệt. Rừng mưa được phân loại bởi lượng mưa nhận được hàng năm, mà cho phép các nhà sinh thái học xác định được sự khác biệt trong các khu rừng mà có cấu trúc tương tự nhau này. Theo như sự phân loại của Holdridge về hệ sinh thái nhiệt đới, rừng mưa nhiệt đới thật sự có lượng mưa hàng năm cao hơn 800 cm và nhiệt độ hàng năm cao hơn 24 độ C. Tuy nhiên, hầu hết rừng mưa nhiệt đới đồng bằng có thể được phân loại là rừng mưa nhiệt đới ẩm ướt, mà khác nhau về lượng mưa. Sinh thái học rừng mưa nhiệt đới – động học, kết cấu và chức năng – rất nhạy cảm với các thay đổi về khí hậu, đặc biệt là lượng mưa. Khí hậu của những khu rừng này bị ảnh hưởng bởi một dải mây gọi là Đới hội tụ liên chí tuyến (Intertropical Convergence Zone) nằm gần được xích đạo và được tạo nên bởi những cơn gió mậu dịch từ Bắc và Nam bán cầu. Vị trí của dải mây này thay đổi theo mùa, di chuyển về phía Bắc vào mùa hạ ở hướng Bắc và về phía Nam vào đông của hướng Bắc, kết quả là nó sẽ ảnh hưởng đến các mùa mưa và khô tại các vùng nhiệt đớiNhững vùng này đã trải qua sự ấm lên mạnh với một tốc độ khoảng 0.26 độ C mỗi thập kỷ, trùng khớp với hiện tượng ấm lên toàn cầu do khí thải nhà kính từ các hoạt động của con người vào bầu khí quyển. Các nghiên cứu cũng tìm thấy rằng lượng mưa hàng năm đã giảm bớt và vùng nhiệt đới châu Á đã trải qua sự tăng cường độ mùa khô trong khi vùng Amazon lại không có thay đổi đáng kể nào về lượng mưa hay mùa khôNgoài ra, hiện tượng dao động thời tiết phương Nam – El Nino (El Nino – Southern Oscillation, ENSO) làm tăng sự biến đổi khí hậu, thay đổi lượng mưa và nhiệt độ, hậu quả là hạn hán và cường độ mùa khô tăng lên. Vì sự tăng nhiệt độ do các hoạt động của con người làm tăng cường độ và tần suất của ENSO, làm cho các khu rừng mưa nhiệt đới dễ bị ảnh hưởng bởi áp lực và tăng số lượng thực vật bị chết. 
Ngày bắt đầu và hướng gió chính của gió mùa hè Tây Nam.
Đất rừng
Các loại đất
Các loại đất trong vùng nhiệt đới có tính đa dạng cao và là kết quả của sự kết hợp những thay đổi, chẳng hạn như khí hậu, thảm thực vật, vị trí địa hình, vật chất gốc, và tuổi của đất Hầu hết các loại đất rừng nhiệt đới đều đặc trưng bởi tính rửa trôi và nghèo chất dinh dưỡng; tuy nhiên vẫn có một số vùng có đất màu mỡ. Các loại đất ở khắp nơi trong rừng mưa nhiệt đới được phân loại làm hai dạng, là: đất sét đỏ (ultisol) và đất đỏ vàng (oxisol). Đất sét đỏ là loại đất bị ảnh hưởng mạnh bởi thời tiết, có tính axit, thiếu hụt các chất dinh dưỡng chính chẳng hạn như canxi và kali. Tương tự, đất đỏ vàng cũng có tính axit, lâu đời, thường có màu hơi đỏ, bị ảnh hưởng mạnh bởi thời tiết và có tính lọc bỏ cao, tuy nhiên dễ rút nước hơn so với đất sét đỏ. Do hàm lượng sét trong đất sét đỏ khá cao, nên nước khó thấm vào và chảy ra được. Màu đỏ hung của hai loại đất là kết quả của nhiệt độ và độ ẩm cao tạo thành oxit sắt và nhôm, không tan được trong nước và cũng khó được các loài thực vật chấp nhận.
Hóa tính và lý tính của đất có liên quan chặt chẽ với năng suất trên mặt đất và cấu trúc, động lực học của rừng. Các tính chất vật lý của đất ảnh hưởng đến tốc độ thay thế cây trong khi tính chất hóa học chẳng hạn như lượng nitơ và phốtpho ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của rừng. Các loại đất ở Đông và trung tâm Amazon cũng như tại rừng mưa Đông Nam Á là loại lâu đời, nghèo khoáng chất trong khi loại đất ở Tây Amazon (Ecuador và Peru) và vùng núi lửa của Costa Rica là loại đất mới và giàu khoáng chất. Năng suất chính hay việc sản xuất gỗ là cao nhất ở Tây Amazon và thấp nhất ở Đông Amazon, nơi mà có loại đất bị ảnh hưởng mạnh bởi thời tiết và được phân loại là đất đỏ vàng. Ngoài ra, đất ở Amazon do bị ảnh hưởng mạnh bởi thời tiết, làm chúng bị thiếu các khoáng chất như Phốtpho, Kali, Canxi, và Magiê, mà thường là từ các nguồn đá tảng. Tuy nhiên, không phải tất cả rừng mưa nhiệt đới đều được tìm thấy trên đất nghèo dinh dưỡng, mà còn trên cả các bãi bồi và vùng núi lửa giàu chất dinh dưỡng nằm tại vùng đồi Andean, và vùng núi lửa ở Đông Nam Á, châu Phi, và Trung Mỹ. 
Đất đỏ vàng, cằn cỗi, bị ảnh hưởng mạnh bởi thời tiết và có tính lọc bỏ mạnh, đã phát triển trên các nền Gondwanan cổ đại. Sự phân hủy nhanh chóng bởi vi khuẩn ngăn cản sự tích lũy chất mùn. Nồng độ oxít sắt và nhôm bởi quá trình đá ong hóa đã tạo cho đất đỏ vàng một màu đỏ chói và đôi khi sinh ra lớp chất khoáng đọng (ví dụ như Bô-xít). Trên các nền đất mới, đặc biệt là các nền có nguồn gốc từ núi lửa, các loại đất nhiệt đới có thể khá màu mỡ.
Tuần hoàn chất dinh dưỡng
Tốc độ phân hủy cao này là kết quả của lượng nitơ trong đất, lượng mưa, nhiệt độ cao và quần thể vi sinh vật rộng lớn. Ngoài vi khuẩn và các vi sinh vật khác ra, có rất nhiều các yếu tố phân hủy khác chẳng hạn như nấm và mối mà cũng hỗ trợ quá trình này. Sự tuần hoàn chất dinh dưỡng rất quan trọng bởi vì nguồn tài nguyên bên dưới lòng đất ảnh hưởng đến sinh khối ở lớp đất trên và cấu trúc quần thể của rừng mưa nhiệt đới. Những loại đất này đặc trưng bởi lượng phốtpho giới hạn, mà sẽ kiềm chế năng suất chung hay sự hấp thụ cacbon. Đất có chứa các vi sinh vật hữu cơ chẳng hạn như vi khuẩn, mà sẽ phân giải xác thực vật và các vật chất hữu cơ khác thành các dạng cacbon vô cơ được sử dụng bởi thực vật, được gọi là sự phân hủy. Trong suốt quá trình phân hủy, quần thể vi sinh vật hô hấp, hấp thu khí oxy và thải ra khí cacbon. Tốc độ phân hủy có thể được đánh giá bằng cách đo lượng oxy hấp thu. Nhiệt đô và lượng mưa cao làm tăng tốc độ phân hủy, cho phép xác thực vật phân rã nhanh chóng ở các vùng nhiệt đới, tạo ra chất dinh dưỡng mà sẽ được thực vật hấp thụ ngay lập tức thông qua nước ở bề mặt hay dưới lòng đất. Các kiểu hô hấp theo mùa bị ảnh hưởng bởi xác thực vật và lượng mưa, lực đẩy cacbon phân hủy từ các chất trên vào đất. Tốc độ hô hấp là cao nhất vào đầu mùa mưa bởi vì mùa khô trước đó làm tăng lượng xác thực vật và do đó tăng tỉ lệ chất hữu cơ bị rửa trôi vào đất. 
Rễ cạn
Một điểm nổi bật thường thấy ở nhiều rừng mưa nhiệt đới là bộ rễ cạn khác biệt của cây. Thay vì đâm xuyên vào lớp đất sâu hơn, rẽ cạn tạo thành một mạng lưới rễ lan rộng trên mặt đất để hấp thu chất dinh dưỡng hiệu quả hơn trong một môi trường nghèo chất dinh dưỡng và rất cạnh tranh. Hầu hết các chất dinh dưỡng trong đất ở rừng mưa nhiệt đới thì tập trung ở gần bề mặt vì thời gian thay thế và sự phân hủy các chất hữu cơ, lá khá nhanh. Vì vậy, rễ cạn xuất hiện tại mặt đất để cây có thể tối đa hóa việc hấp thu chất dinh dưỡng và cạnh tranh một cách chủ động với các cây khác. Chúng cũng hỗ trợ sự hút nước và trữ nước, tăng diện tích bề mặt để trao đổi khí, tích góp xác thực vật để bổ sung dưỡng chất. Ngoài ra, những rễ này còn giảm sự xói mòn đất và tối đa hóa sự hấp thu dưỡng chất trong suốt những cơn mưa lớn bằng cách chuyển hướng dòng nước giàu dưỡng chất xuống thân cây thành các dòng nhỏ hơn, cùng lúc đó hoạt động như một lá chắn bảo vệ cây khỏi các dòng chảy trên mặt đất. Diện tích bề mặt lớn do những rễ này tạo ra cũng giúp tạo sự chống đỡ và độ ổn định cho cây trong rừng mưa, mà thường phát triển lên đến độ cao đáng kể. Độ ổn định bổ sung này cho phép cây chịu đựng được những tác động của các cơn bão khắc nghiệt, do đó làm giảm sự gãy đổ cây. 
Sự nối tiếp trong rừng
Sự nối tiếp là một quá trình sinh thái thay đổi cấu trúc quần thể sinh vật theo thời gian để hướng tới một cấu trúc quần thể ổn định, đa dạng hơn sau một sự xáo trộn ban đầu. Sự xáo trộn ban đầu thì thường là một hiện tượng tự nhiên hoặc sự kiện do con người gây ra. Những sự xáo trộn tự nhiên bao gồm: bão, núi lửa phun trào, sự di chuyển của sông ngòi hoặc chỉ đơn giản như cây gãy tạo nên khoảng hỡ trong rừng. Trong rừng mưa nhiệt đới, những sự xáo trộn tự nhiên giống nhau này đã được lưu rõ trong các di chỉ hóa thạch, và được tin là có ảnh hưởng tích cực đến sự hình thành loài và sự đặc hữu. 
Địa lý 
Khung cảnh nhìn từ trên cao của rừng mưa Amazon tại Manaus
Nam và Trung Mỹ
Rừng mưa Amazon
Các rừng nhiệt đới bờ biển Đại Tây Dương
Châu Phi
Rừng mưa Congo
Rừng mưa Ituri
Rừng Kilum – Ijim
Rừng đồng bằng Madagascar
Châu Á
Rừng mưa Harapan
Châu Úc và châu Đại Dương
Rừng mưa Daintree
Rừng mưa nhiệt đới Hawai
Đa dạng sinh học và sự hình thành loài
Đười ươi con ở Bukit Lawang, Sumatra
Rừng mưa nhiệt đới cho thấy sự đa dạng lớn về các chủng loài động thực vật. Nguồn gốc của sự hình thành loài đáng nhớ này vẫn còn là một thắc mắc trong giới khoa học và sinh thái học nhiều năm liền. Nhiều thuyết đã được phát triển nhằm giải thích tại sao và như thế nào mà các khu rừng nhiệt đới lại có thể đa dạng đến thế.
Sự cạnh tranh giữa các loài
Sự cạnh tranh giữa các loài là kết quả từ mật độ cao của các chủng loài với môi trường sống giống nhau trong vùng nhiệt đới và nguồn sống bị giới hạn. Loài nào “thua” khi cạnh tranh có thể trở nên tuyệt chủng hoặc phải tìm môi trường sống khác. Cạnh tranh trực tiếp thường sẽ dẫn đến việc một loài chiếm ưu thế một loài khác nhờ vài thuận lợi, cuối cùng đẩy loài kia vào chỗ tuyệt chủng. Sự ngăn cách môi trường sống là một lựa chọn khác. Đây là ngăn cách và hạn chế nguồn sống cần thiết bằng cách tận dụng các nơi ở, nguồn thực phẩm, bụi rậm khác nhau hay sự khác nhau về hành vi nói chung. Một loài với cùng một loại thực phẩm nhưng số lần ăn khác hẳn cũng là một ví dụ của sự ngăn cách môi trường sống. 
Bảo tồn 
Các mối đe dọa 
Sự phá rừng 
Khai thác mỏ quặng 
Mỏ Ok Tedi ở Tây Nam Papua New Guinea
Các mỏ quặng kim loại quý hiếm (vàng, bạc, coltan) và nhiên liệu hóa thạch (dầu và khí thiên nhiên) xuất hiện bên dưới rừng mưa trên toàn cầu. Những nguồn tài nguyên này rất quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia và việc khai thác chùng thường ưu tiên để khuyến khích tăng trưởng kinh tế. Khai thác mỏ quặng có thể cần mở rộng đất rất lớn, trực tiếp gây ra sự phá rừng. Tại Ghana, một quốc gia ở Tây Phi, sự phá rừng vì hoạt động khai thác mỏ quặng trong hàng thập kỷ đã phá hủy và chỉ còn để lại khoảng 12% diện tích rừng mưa nguyên sinh. 
Biến đổi khí hậu
Các vùng nhiệt đới đóng vai trò quan trọng trong việc giảm cacbon điôxít khí quyển. Các vùng nhiệt đới (nổi bật nhất là rừng mưa Amazon) được gọi là các “bồn chứa cacbon”. Vì là tác nhân làm giảm cacbon và là nơi trữ cacbon, khí metan từ đất, nên khi rừng bị phá hủy sẽ làm tăng sự giữ bức xạ năng lượng trên trái đất và các loại khí ở khí quyển. Sự thay đổi khí hậu tăng lên đáng kể là do sự hủy diệt các khu rừng mưa. Một sự mô phỏng đã được thực hiện khi mà toàn bộ rừng mưa ở châu Phi bị xóa sạch. Kết quả là nhiệt độ khí quyển tăng lên từ 2.5 đến 5 độ C. 
Bảo vệ 
Các nỗ lực nhằm bảo vệ và bảo tồn môi trường sống trong rừng mưa nhiệt đới rất đa dạng và lan rộng nhanh. Việc bảo tồn rừng mưa nhiệt đới bao gồm từ việc bảo tồn môi trường sống chặt chẽ đến việc tìm kiếm những phương pháp quản lý hiệu qua cho những người sống trong các rừng mưa nhiệt đới. Chính sách thế giới cũng đưa vào một chương trình hỗ trợ thị trường gọi là “Reducing Emissions from Deforestation và Forest Degradation” (REDD) cho các công ty và chính quyền để giảm lượng cacbon thải ra thông qua sự đầu tư tài chính và việc bảo tồn rừng mưa. 

File đính kèm:

  • docxde_tai_rung_mua_nhiet_doi.docx