Một số kết quả mới về đặc điểm thạch học và tuổi U-Pb của thành tạo Granit khối Bến Tuần, khối Đá Thẻ

Khối granit Bến Tuần thuộc đới cấu trúc Long Đại, còn khối Đá Thẻ thuộc

đới cấu trúc Đà Nẵng - Sê Kông, hiện tại hầu hết các nghiên cứu xếp các đá

của hai khối vào phức hệ Bà Nà tuổi Kreta. Kết quả nghiên cứu cho thấy hai

khối xâm nhập này có những đặc điểm thạch học và khoáng vật tương đối

khác biệt. Theo đó, khối Bến Tuần xuất hiện kiểu đá granit giàu các ổ

pegmatit với đặc trưng khoáng vật phụ giàu orthit, sphen. Kết quả tuổi U -

Pb zircon xác định bằng phương pháp SHRIMP cho granitoid khối Bến Tuần

là 244,5 ± 1,5 tr.n (T2), khối Đá Thẻ là 427 ± 2,4 tr.n (D1) cho thấy hai khối

xâm nhập Bến Tuần và Đá Thẻ không cùng một phức hệ magma xâm nhập,

chúng được hình thành trong bối cảnh kiến tạo khác nhau. Các thành tạo

magma xâm nhập khối Đá Thẻ liên quan chặt chẽ đến hoạt động tạo núi

Caledoni, còn các thành tạo magma xâm nhập khối Bến Tuần liên quan đến

hoạt động tạo núi Indosini. Kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng

trong luận giải kiến tạo đai tạo núi Trường Sơn, Đà Nẵng - Sê Kông trong

thời kỳ Paleozoi - Mesozoi trong bối cảnh kiến tạo chung vùng Đông Nam

Châu Á.

pdf 11 trang yennguyen 6240
Bạn đang xem tài liệu "Một số kết quả mới về đặc điểm thạch học và tuổi U-Pb của thành tạo Granit khối Bến Tuần, khối Đá Thẻ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số kết quả mới về đặc điểm thạch học và tuổi U-Pb của thành tạo Granit khối Bến Tuần, khối Đá Thẻ

Một số kết quả mới về đặc điểm thạch học và tuổi U-Pb của thành tạo Granit khối Bến Tuần, khối Đá Thẻ
 Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất Tập 60, Kỳ 1 (2019) 15 - 25 15 
Một số kết quả mới về đặc điểm thạch học và tuổi U - Pb của 
thành tạo Granit khối Bến Tuần, khối Đá Thẻ 
Nguyễn Văn Niệm 1, Đỗ Đức Nguyên 1, Mai Trọng Tú 2, Bùi Minh Tâm 3, Ngô Xuân 
Thành 4, Nguyễn Minh Long 1, Đoàn Thị Ngọc Huyền 1, Bùi Hữu Việt 1, Nguyễn Thị 
Bích Thủy 2, Phạm Hùng Thanh 1, Hồ Thị Thư 2 
1 Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, Việt Nam 
2 Tổng cục Địa chất và Khoáng sản, Việt Nam 
3 Tổng Hội địa chất Việt Nam, Việt Nam 
4 Khoa Khoa học và Kỹ thuật địa chất, Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Việt Nam 
THÔNG TIN BÀI BÁO 
TÓM TẮT 
Quá trình: 
Nhận bài 25/12/2018 
Chấp nhận 20/01/2019 
Đăng online 28/02/2019 
 Khối granit Bến Tuần thuộc đới cấu trúc Long Đại, còn khối Đá Thẻ thuộc 
đới cấu trúc Đà Nẵng - Sê Kông, hiện tại hầu hết các nghiên cứu xếp các đá 
của hai khối vào phức hệ Bà Nà tuổi Kreta. Kết quả nghiên cứu cho thấy hai 
khối xâm nhập này có những đặc điểm thạch học và khoáng vật tương đối 
khác biệt. Theo đó, khối Bến Tuần xuất hiện kiểu đá granit giàu các ổ 
pegmatit với đặc trưng khoáng vật phụ giàu orthit, sphen. Kết quả tuổi U - 
Pb zircon xác định bằng phương pháp SHRIMP cho granitoid khối Bến Tuần 
là 244,5 ± 1,5 tr.n (T2), khối Đá Thẻ là 427 ± 2,4 tr.n (D1) cho thấy hai khối 
xâm nhập Bến Tuần và Đá Thẻ không cùng một phức hệ magma xâm nhập, 
chúng được hình thành trong bối cảnh kiến tạo khác nhau. Các thành tạo 
magma xâm nhập khối Đá Thẻ liên quan chặt chẽ đến hoạt động tạo núi 
Caledoni, còn các thành tạo magma xâm nhập khối Bến Tuần liên quan đến 
hoạt động tạo núi Indosini. Kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng 
trong luận giải kiến tạo đai tạo núi Trường Sơn, Đà Nẵng - Sê Kông trong 
thời kỳ Paleozoi - Mesozoi trong bối cảnh kiến tạo chung vùng Đông Nam 
Châu Á. 
© 2019 Trường Đại học Mỏ - Địa chất. Tất cả các quyền được bảo đảm. 
Từ khóa: 
Tuổi U - Pb 
Khối Bến Tuần 
Khối Đá Thẻ 
1. Mở đầu 
Đá magma khu vực Huế và Quảng Nam xuất 
hiện khá phong phú và chúng được cho là có tuổi 
thành tạo từ tiền Cambri đến Kainozoi. Trong số 
đó, các đá magma granit có tuổi Paleozoi sớm và 
loạt đá có tuổi Pecmi - Triat chiếm số lượng chủ 
đạo, thứ yếu là các đá được xếp vào tuổi Kreta 
thuộc loạt Bà Nà. Mặc dù được xếp vào các mức 
tuổi khác nhau. Tuy nhiên việc nghiên cứu chi tiết 
thành phần vật chất cũng như tuổi bằng các 
phương pháp định tuổi hiện đại nhằm xác định 
giai đoạn thành tạo của các đá này còn khá hạn 
chế. Trong khu vực Huế và Quảng Nam hai khối 
_____________________ 
*Tác giả liên hệ 
E - mail: niemnv78@gmail.com 
16 Nguyễn Văn Niệm và nnk. /Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 60 (1), 15 - 25 
magma Đá Thẻ và Bến Tuần đã được xếp vào phức 
hệ Bà Nà; xếp granitoid khối Bến Tuần nói riêng 
cũng như phức hệ Bà Nà nói chung vào kiểu granit 
sáng màu Ankroet tuổi Kreta (Nguyễn Xuân Bao 
và nnk., 2015). Trong khi đó, tuổi của khối Đá Thẻ 
chưa có công trình nào nghiên cứu về tuổi của 
chúng. 
Với mục đích làm sáng tỏ đặc điểm thạch học 
và tuổi kết tinh của granit Đá Thẻ và Bến Tuần, tập 
thể tác giả đã sử dụng mẫu để phân tích thạch học 
và định tuổi U - Pb zircon bằng phương pháp 
SHRIMP. Bắt đầu từ khảo sát và lấy mẫu nghiên 
cứu hệ thống từ rìa vào trung tâm khối, các tướng 
của granitoid, đới biến đổi, cấu trúc địa chất liên 
quan. Trong nghiên cứu này, 31 mẫu lát mỏng đá 
granitoid, 2 mẫu xác định tuổi U - Pb trên zircon 
bằng phương pháp SHRIMP tại Viện địa chất toàn 
Nga mang tên A.P. Kapinski - VSEGEI, CHLB Nga. 
Các kết quả được dùng để thảo luận về đặc điểm 
thạch học cũng như tuổi kết tinh của các đá này. 
2. Đặc điểm địa chất và vị trí lấy mẫu 
Khối Bến Tuần phân bố ở bờ trái sông Hương, 
khu vực gần ngã ba sông Tả Trạch - Hữu Trạch, 
được xếp vào phức hệ Bà Nà (Nguyễn Văn Trang 
và nnk., 1986, 1995). Trên bản đồ địa chất, khối 
Bến Tuần lộ ra có hình dạng khá đẳng thước với 
diện tích khoảng 17 km2 (Hình 2a) thuộc đới cấu 
trúc Long Đại trong đai tạo núi Paleozoi muộn - 
Mesozoi sớm Trường Sơn. 
Bao quanh khối Bến Tuần là các trầm tích của 
hệ tầng Long Đại (O3 - S1 lđ), gồm các đá trầm tích 
biến chất yếu, có cấu tạo xen nhịp, đá phân lớp 
mỏng - trung bình, phân phiến. Thành phần thạch 
học đặc trưng gồm: cát kết, cát bột kết sericit, đá 
phiến sericit - chlorit , đá phiến thạch anh sericit, 
đá phiến sét màu đen, cát bột kết. Theo lộ trình 
nghiên cứu thực địa, quan sát được đới đá biến đổi 
nhiệt dịch thạch anh - sericit chứa ít turmalin 
thuộc đới ngoại tiếp xúc (Hình 2, Hình 1) trong tập 
bột cát kết hệ tầng Long Đại (tuổi Paleozoi). Đới 
này cách diện lộ granit khối Bến Tuần vài trục mét 
(khu vực Thọ Bình), tương ứng với kết quả đo vẽ 
bản đồ địa chất và tìm kiếm khoáng sản tỷ lệ 1: 
50.000 nhóm tờ Huế (Phạm Huy Thông và nnk., 
1997). Thành phần khoáng vật của đới này gồm: 
thạch anh (45 - 47%), sericit (38 - 40%), felspat 
(13 - 15%), biotit (ít), turmalin (ít), apatit (vài hạt), 
khoáng vật quặng (LM105). 
Ngoài ra trong khu vực nghiên cứu còn có sự 
xuất hiện của các đá magma granit phức hệ Hải 
Vân (1a P3 - T1 hv), các đá này phân bố ở phía tây 
nam khối Bến Tuần với thành phần thạch học 
gồm: granit biotit, granit hai mica hạt vừa - lớn, 
xám sáng, tuổi P3 - T1 hoặc T2 (Lê Đức Phúc, 2009). 
Khối Bến Tuần bị các đứt gãy phương TB - ĐN và 
ĐB - TN chia cắt khá mạnh, tạo các đới khe nứt, các 
đới dập vỡ, phá hủy. Nhiều diện tích xuất hiện các 
mạch nhiệt dịch như thạch anh chứa turmalin, 
mạch chlorit, khoáng hóa sulfua (pyrit, có thể có 
chalcopyrit) cùng các hiện tượng chlorrit hóa, 
epidot hóa, ít kiềm hóa. 
Khối Đá Thẻ nằm ngay núi Đá Thể, cách Trà 
Kiệu 5 km về phía tây nam, khối có dạng thể cán, 
đẳng thước, diện lộ khoảng 21 km2 và một vài vệ 
tinh nhỏ ở xung quanh với diện tích không quá 4 
km2 (Hình 2b). Khối Đá Thẻ nằm trong đai tạo núi 
Paleozoi giữa Đà Nẵng - Sê Kông) (Trần Văn Trị, 
Vũ Khúc, 2009). Các đá granit này cũng đã được 
xếp vào phức hệ Bà Nà, tuổi Kreta, chúng có quan 
hệ không rõ ràng với các đá granit với phức hệ Quế 
Sơn. Thành phần thạch học của khối Đá Thẻ đặc 
trưng là granit bitoit hạt vừa, khá đều, sáng màu 
đến phớt hồng (felspat kali hóa rất rõ). 
Hình 1. Đới đá biển đổi ngoại tiếp xúc thạch anh - sericit khu vực khối Bến Tuần. 
 Nguyễn Văn Niệm và nnk. /Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 60 (1), 15 - 25 17 
Khối Đá Thẻ cũng bị các hệ thống đứt gãy ĐB 
- TN chia cắt, tạo nhiều hệ thống khe nứt, một số 
khu vực xuất hiện phổ biến các mạch nhiệt dịch 
chlorit, thạch anh turmalin nhưng chưa gặp sulfua 
như khối Bến Tuần v. v. Phần TB của khối hệ thống 
đứt gãy phương ĐB - TN tạo nên ranh giới của 
chúng với đá vây quanh. 
3. Kết quả nghiên cứu 
3.1. Đặc điểm thạch học - khoáng vật của granit 
khối Bến Tuần và khối Đá Thẻ 
3.1.1. Granit khối Bến Tuần 
Thành phần thạch học của đá gốc granit hạt 
vừa - lớn giàu felspat kali (37 - 38%), plagioclase 
(30 - 32%), thạch anh (27 - 29%); biotit có hai thế 
hệ (3 - 4%). Thực tế, ở đây gặp granit biotit sáng 
màu cấu tạo khối có chứa nhiều ổ pegmatit
Hình 2. Sơ đồ vị trí khối Bến Tuần (a), khối Đá Thẻ (b) và vị trí mẫu định tuổi đồng vị U - Pb. 
18 Nguyễn Văn Niệm và nnk. /Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 60 (1), 15 - 25 
(Hình 6), xung quanh rìa ổ có các dải biotit sinh 
sau rất rõ (thế hệ 2), kết quả này phù hợp với mẫu 
lát mỏng (Hình 4, 5, 6). Khoáng vật phụ gồm: 
apatit, zircon, orthit, fluorit, sphen, khoáng vật 
quặng. 
Đối với đá granit hạt nhỏ: chúng phân bố 
không rõ ranh giới với granit hạt lớn, khá giống 
với granit hạt nhỏ khối Ngọc Tụ (Nguyễn Văn 
Niệm và nnk., 2014) nhưng hiếm khi gặp dạng 
porphyr. Thành phần felspat kali 44 - 45%, 
plagiclas 23 - 25%, thạch anh 27 - 28%, biotit 1,5 - 
2%. Khoáng vật phụ: zircon, orthit, quặng 
3.1.2. Granit khối Đá Thẻ 
Thành phần thạch học đặc trưng bởi: felspat 
kali (20 - 38%), plagioclas (30 - 48%), bitoit (1 - 
4%). Pagioclas bị felspat kali hóa rõ ràng. Ngược 
lại, felspat kali cũng bị anbit hóa (Hình 8, Hình 9). 
Khoáng vật phụ: zircon dạng hạt đẳng thước, 
tắt đới rõ, apatit; khoáng vật quặng. 
Felspat kiềm là khoáng vật phổ biến và chiếm 
hàm lượng cao nhất, có dạng tấm đẳng thước, tha 
hình. Thành phần chủ yếu là orthoclas, không 
màu, mặt sần độ nổi thấp, giao thoa xám tối bậc 1, 
khá phổ biến cấu tạo song tinh carbat. Chúng 
thường bị pectit hóa và bị albit (Hình 5) và 
microclin (felspat kiềm II) thay thế từng phần 
Hình 3. Mặt cắt địa chất thể hiện các kiểu đá khác nhau của granit khối Bến Tuần cùng các quá trình biến đổi. 
 Nguyễn Văn Niệm và nnk. /Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 60 (1), 15 - 25 19 
chúng thường bị sét hóa (Hình 8), một số nơi gặp 
sericit hóa microclin gặp rải rác có hàm lượng 
thấp, phân bố không đều. 
Plasgioclas là khoáng vật có mặt hầu hết trong 
các đá với hàm lượng lớn, chúng có dạng tấm 
ngắn, đẳng thước, tự hình, mặt sần độ nổi thấp, 
không màu, màu giao thoa xám tối bậc 1. Chúng bị 
epidot hóa (Hình 7). 
Thạch anh là khoáng vật phổ biến, sau felspat 
kiềm. Chúng là các hạt nhỏ tha hình, nằm xem lớp 
giữa các tấm felspat thạch anh không màu, mặt 
sạch, trong tắt sóng nhẹ. Hầu hết trên tất cả các 
mẫu đều gặp thạch anh thế hệ 2, chúng gặm mòn 
tái sinh các khoáng vật nguyên thủy. 
Biotit thường có dạng vảy, tấm nhỏ có dạng 
kéo dài, hai đầu thường có dạng đuôi chim sẻ, một 
số nơi bị gãy vỡ, màu nâu, mặt sân độ nổi cao, đa 
sắc mạnh Ng nâu đậm > Np nâu vàng, tắt đứng 
(1x), chúng thường bị clorit gặm mòn thay thế từ 
rìa vào (Hình 4, 9). Ngoài ra, chúng còn bị felspat 
kali hóa (Hình 8). 
Apatit có hàm lượng thấp song khá phổ biến 
trong đá, tồn tại dưới dạng vi lăng trụ trong bao 
thể biotit. Chúng thường không màu, độ nổi trung 
bình, tắt đứng, màu giao thoa xám bậc 1, không bị 
biến đổi thứ sinh. 
Zircon ít phổ biến, ở dạng hạt nhỏ đẳng thước 
trong bao thể khoáng vật khác, không màu, mặt 
sần, độ nổi rất cao, màu giao thoa xanh đỏ bậc cao, 
tắt đứng có vòng phóng xạ màu đen bao quanh. 
Hình 4. Biotit thế hệ 1 (bt1) bị chlorit hóa gần hoàn 
toàn trong granitoid cấu tạo khối, khối Bến Tuần. 
(+). pl - plagioclas, sf - sphen, zr - zircon. 
Hình 5. Hiện tượng albit hóa (al) khoáng vật 
orthoclas (or) trong granit cấu tạo khối, khối Bến 
Tuần. (+). 
Hình 6. Ổ pegmatit/mạch pegmatit trong nền đá 
granit biotit hạt vừa, sáng màu tại khối Bến Tuần. 
Hình 7. Hiện tượng epidot hóa (ep) khoáng vật 
plagioclas (pl) và xuất hiện ít biotit thế hệ 2 (bt2) 
trong granit cấu tạo khối, khối Bến Tuần. (+). 
20 Nguyễn Văn Niệm và nnk. /Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 60 (1), 15 - 25 
Turmalin là các lăng trụ nhỏ, có các thơ nứt 
ngang, chúng phát triển nhiều ở pha 2 và pha 
mạch, màu xanh lục, đa sắc mạnh No xanh lục > Ne 
xanh vàng, mặt sần, độ nổi rất cao, màu giao thoa 
xanh bậc 2, tắt đứng (T) có một vài tiết diện cắt 
ngang tạo tam giác cong. 
Ilmenit dạng vi hạt, hạt nhỏ tập trung thành 
đám, phân tán không đều. Chúng có màu đen nâu, 
không thấu quang, có màu trắng bông dưới ánh 
sáng phản quang, là khoáng vật khá phổ biến song 
hàm lượng rất nhỏ. 
3.2. Kết quả phân tích tuổi U - Pb trên zircon 
bằng thiết bị SHRIMP 
Mẫu sau khi lấy được rửa sạch dưới dòng 
nước áp lực cao và máy rửa rung nhằm loại bỏ các 
đất đá dính vào đá để tránh hỗn nhiễm. Các mẫu 
đá sau đó được nghiền nhỏ, mẫu bột sau khi 
nghiền được tuyển bằng phương pháp đãi và nhặt 
hạt dưới kính hiển vi soi nổi. Đa số zircon có dạng 
lăng trụ ngắn, tròn cạnh, chiều dài khoảng 90μm - 
210μm. Sau khi tuyển, zircon được gắn bằng nhựa 
epoxy vào một khuôn vòng tròn, và được đánh 
bóng bằng giấy ráp, kích cỡ khác nhau, để lộ phần 
trung tâm hạt. Mẫu sau khi đã đánh bóng được 
đưa vào phân tích đặc điểm cấu trúc hat zircon 
bằng kính hiển vi điện tử quét (SEM) tích hợp bộ 
phận âm cực phát quang CL. Các điểm phân tích 
đồng vị U - Pb trên khoáng vật zircon được chọn 
chủ yếu ở đới cấu trúc ngoài cùng của hạt zircon 
trên cơ sở phân tích cấu trúc của chúng để đảm 
bảo kết quả tuổi phản ánh tuổi thành tạo của 
zircon trong giai đoạn hình thành magma nghiên 
cứu. Các điểm phân tích cũng cần đảm bảo mặt 
zircon phải phẳng, tại đó không có vết nứt hay 
chứa bao thể nhằm hạn chế hàm lượng đột biến 
của Pb nền. Tuổi U - Pb trên zircon được phân tích 
bằng phương pháp SHRIMP tại Viện địa chất toàn 
Nga mang tên A.P. Kapinski - VSEGEI, CHLB Nga. 
3.2.1. Cấu trúc khoáng vật zircon dưới ảnh âm cực 
phát quang 
Hai mẫu từ hai khối Bến Tuần và Đá Thẻ được 
sử dụng để định tuổi U - Pb trên khoáng vật zircon 
bằng phương pháp định tuổi SHRIMP. Các hạt 
zircon gần như không màu hoặc trong suốt có 
hình dạng tự hình với chiều dài các hạt khoảng 
50μm - 200μm. Ảnh quét CL cho thấy một số hạt 
zircon trong cả hai mẫu có chứa nhân hình ovan 
(Hình 10: hạt zircon 6, 8 và 9) trên mẫu Bến Tuần 
và hình dạng méo mó (Hình 11: hạt zircon 1, 8) 
trên mẫu granit Đá Thẻ. Các nhân này có thể là 
zircon đã được hình thành trong giai đoạn nhiệt 
kiến tạo sớm hơn tuổi của các đá magma nghiên 
cứu. Phần ngoài của các hạt zircon của hai khối 
đều cho thấy riềm tăng trưởng của chúng khá đều 
đặn, sắc nét và tự hình (oscillatory zonation), điển 
hình cho cấu tạo zircon hình thành trong đá 
magma. Kết quả phân tích cũng cho thấy tất cả các 
hạt zircon đều có tỷ số Th/U biến đổi từ 0,22 - 0,38 
(mẫu Bến Tuần) và chủ đạo 0,48 - 0,64 (mẫu Đá 
Thẻ) (Bảng 2, 3), các giá trị này rất phù hợp với 
thành phần zircon được hình thành liên quan đến 
quá trình magma (Léo Afraneo Hartmann, Joao 
Orestes S Santos, 2004). 
Hình 8. Biotit bị felspat kali hóa, plagioclas bị 
sericit hóa (sc), khối Đá Thẻ. (+). 
Hình 9. Biotit bị chlorit hóa (cl), ít muscovite hóa 
(mc), khối Đá Thẻ (+). 
 Nguyễn Văn Niệm và nnk. /Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 60 (1), 15 - 25 21 
3.2.2. Tuổi thành tạo của đá granit khối Bến Tuần 
và khối Đá Thẻ 
09 điểm phân tích rìa khoáng vật zircon (Mẫu 
TS110) trong khối Bến Tuần cho kết quả tuổi 
đồng vị 206Pb/238U từ 241,3 ± 1,6 triệu năm (tr.n) 
đến 249,2 ± 2,1 tr.n. Trên biểu đồ biểu diễn tuổi 
206Pb/238U và 207Pb/235U (Hình 12), chúng tập 
trung gần với đường cong concordia và cho tuổi 
trung bình tương ứng với 244,5 ± 1,5 tr.n với 95% 
kết quả phù hợp và trọng số (MSWD) đạt 0,65 
(Hình 12 và Bảng 2). Như vậy giá trị tuổi 244,5 ± 
1,5 tr.n được xác định là giá trị tuổi kết tinh của 
khối đá magma Bến Tuần trong khu vực nghiên 
cứu. 07 điểm phân tích rìa khoáng vật zircon (Mẫu 
DV160) trong khối Đá Thẻ cho kết quả tuổi đồng 
vị 206Pb/238U từ 419,1 ± 2,5 tr.n đến 440,8 ± 1,9tr.n 
và cho kết quả tuổi concordia tương ứng với 427 
± 2,4tr.n với trọng số kết quả (MSWD) đạt 0,77 
(Hình 13 và Bảng 3). Như vậy giá trị tuổi 427 ± 
2,4tr.n được xác định là giá trị tuổi kết tinh của 
khối đá magma Đá Thẻ trong khu vực nghiên cứu. 
Hình 10. Đặc điểm tinh thể zircon và vị trí phân tích tuổi U - Pb của granit khối Bến Tuần. 
Hình 11. Đặc điểm tinh thể zircon và vị trí phân tích tuổi U - Pb của granit khối Đá Thẻ. 
Hình 12. Biểu đồ Concordia xác định tuổi đồng 
 ... 
granitoid khối Bến Tuần bằng phương pháp Rb - 
Sr, Ar - Ar cho tuổi Kreta (Nguyễn Xuân Bao và 
nnk., 2015). Mặc dù chưa có kết quả định tuổi cho 
các đá granit khối Đá Thẻ, tuy nhiên dựa vào đặc 
điểm thạch học, các tác giả của các tờ bản đồ địa 
chất tỷ lệ 1: 200.000 và 1: 50.000 (Nguyễn Văn 
Trang và nnk., 1986, 1995; Cát Nguyên Hùng và 
nnk., 1996;) xếp các đá của hai khối này vào tuổi 
Kreta. Kết quả nghiên cứu thạch học cho thấy đá 
granit khối Bến Tuần có sự chuyển tướng đa dạng 
hơn đá granit trong khối Đá Thẻ. Khối Bến Tuần 
giàu các ổ pegamtit, mặc dù thành phần khoáng 
vật tạo đá của hai khối tương đồng, tuy nhiên 
khoáng vật phụ thường gặp là orthit và sphen, đặc 
trưng cho nguồn sâu (Bùi Minh Tâm và nnk., 
2010.) trong khi đó khối Đá Thẻ chưa thấy các 
khoáng vật phụ này. Kết quả phân tích cấu trúc, 
thành phần zircon xác định tuổi phân tích bằng 
phương pháp SHRIMP phản ánh tuổi kết tinh của 
khối Bến Tuần và Đá Thẻ theo thứ tự là 244,5 ± 
1,5tr.n (T2) và 427 ± 2,4tr.n (D1). Kết quả này phản 
ảnh các magma của hai khối này hình thành sớm 
hơn nhiều so với các kết quả xác định trước đây 
(xếp chúng vào tuổi Kreta). 
Tuổi 427 ± 2,4tr.n của khối Đá Thẻ tương 
đồng với tuổi của loạt magma giai đoạn Paleozoi 
sớm trong phần rìa bắc địa khối Kon Tum, phản 
ánh một pha magma kiến tạo hoạt động khá mạnh 
mẽ ở rìa bắc địa khối Kon Tum trong thời kỳ 
Ordovic - Silur (410 - 450 Tr.n) tương ứng với “tạo 
núi Caledoni” (Trần Văn Trị, Vũ Khúc, 2009) . Tuy 
nhiên, về bối cảnh địa động lực giai đoạn 
“Caledoni” trong khu vực nghiên cứu này cho đến 
nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau như: (1) 
chúng là các magma gần gũi với magma có nguồn 
gốc liên quan đến đới hút chìm (Tạ Trọng Thắng, 
1998; Trần Văn Trị, Vũ Khúc, 2009); (2) chúng 
được thành tạo trong môi trường rift lục địa (Lan, 
et al., 2003). Gần đây các nghiên cứu về magma 
giai đoạn này trong địa khối Kon Tum các nhà địa 
chất cho rằng loạt magma này hình thành liên 
quan đến hoạt động hút chìm kiểu magma cung 
dọc theo đới khâu Tam Kỳ - Phước Sơn (Tran, H.T 
et al., 2014; Gardner et al., 2017). 
Tuổi 244,5 ± 1,5 tr.n ghi nhận trên khối Bến 
Tuần, tuổi này tương đương với tuổi của các khối 
magma phức hệ Bà Nà, Ngọc Tụ (Lê Đức Phúc, 
2009; Trần Hoàng Vũ và nnk., 2015) có tuổi Triat 
trong khu vực nghiên cứu. Tuổi ghi nhận trong 
khối Bến Tuần cũng phù hợp với giai đoạn magma 
Pecmi - Triat ghi nhận được rộng rãi trên địa khối
Bảng 2. Các giá trị tuổi đồng vị U - Pb của granit khối Bến Tuần (Thừa Thiên Huế). 
 Spot
%
206
Pbc
ppm
U
ppm
Th
232
Th
/
238
U
ppm
206
Pb*
(1)
238
U/
206
Pb
*
±%
(1)
207
Pb
*
/
206
Pb
*
±%
(1)
207
Pb
*
/
235
U
±%
(1)
206
Pb
*
/
238
U
±%
err
corr
TS110_6.1 0,00 403 126 0,32 13,2 241,3 ±1.6 281 ±52 26,220 0,7 0,0519 2,3 0,2730 2,4 0,03814 0,7 ,290
TS110_8.1 0,00 629 230 0,38 20,6 241,5 ±1.4 237 ±43 26,190 0,6 0,0509 1,8 0,2680 1,9 0,03818 0,6 ,297
TS110_7.1 0,00 418 149 0,37 13,7 241,6 ±1.6 239 ±51 26,180 0,7 0,0510 2,2 0.2684 2,3 0,03819 0,7 ,291
TS110_4.1 0,10 867 284 0,34 28,6 242,7 ±1.2 273 ±42 26,060 0,5 0,0517 1,9 0.2736 1,9 0,03837 0,5 ,267
TS110_9.1 0,16 624 200 0,33 20,6 242,7 ±1.6 263 ±54 26,060 0,7 0,0515 2,4 0.2725 2,5 0,03837 0,7 ,274
TS110_5.1 0,00 958 289 0,31 31,9 245,1 ±1.2 251 ±34 25,810 0,5 0,0512 1,5 0.2737 1,6 0,03875 0,5 ,316
TS110_10.1 0,17 1305 284 0,22 43,7 246,3 ±1.1 274 ±45 25,680 0,5 0,0517 2,0 0.2779 2,0 0,03895 0,5 ,227
TS110_1.1 0,09 785 202 0,27 26,6 248,9 ±1.3 243 ±41 25,400 0,5 0,0511 1,8 0.2771 1,9 0,03937 0,5 ,283
TS110_2.1 0,00 349 100 0,30 11,8 249,2 ±2.1 262 ±55 25,370 0,9 0,0515 2,4 0.2798 2,5 0,03942 0,9 ,335
(1)
206
Pb
/
238
U
Age
(1)
207
Pb
/
206
Pb
Age
Bảng 3. Các giá trị tuổi đồng vị U - Pb của granit khối Đá Thẻ (Quảng Nam). 
 Spot
%
206
Pbc
ppm
U
ppm
Th
232
Th
/
238
U
ppm
206
Pb*
(1)
238
U/
206
Pb
*
±%
(1)
207
Pb
*
/
206
Pb
*
±%
(1)
207
Pb
*
/
235
U
±%
(1)
206
Pb
*
/
238
U
±%
err
corr
DV160_9.1 0,14 356 186 0,54 20,6 419,1 ±2,5 449 ±47 14.887 0,6 0,0559 2,1 0,5180 2,2 0,06717 0,6 ,278
DV160_10.1 0,19 325 151 0,48 19,1 425,4 ±2,7 419 ±59 14,660 0,6 0,0552 2,7 0,5190 2,7 0,06821 0,6 ,236
DV160_8.1 0,07 799 496 0,64 47 426,4 ±2,2 450 ±29 14.625 0,5 0,0560 1,3 0.5275 1,4 0,06838 0,5 ,376
DV160_6.1 0,00 95 112 1,22 5,6 427,2 5,2 479 ±72 14,590 1,2 0,0567 3,2 0,5360 3,5 0,06852 1,2 ,358
DV160_4.1 0,97 962 559 0,60 57,3 427,9 ±1,9 444 ±53 14.571 0,5 0,0558 2,4 0,5280 2,4 0,06863 0,5 ,186
DV160_1.1 0,85 2164 1012 0,48 129 428,9 ±1,5 418 ±45 14.537 0,4 0,0551 2,0 0,5230 2,0 0,06879 0,4 ,183
(1)
206
Pb
/
238
U
Age
(1)
207
Pb
/
206
Pb
Age
 Nguyễn Văn Niệm và nnk. /Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 60 (1), 15 - 25 23 
Đông Dương và được cho là magma liên quan đến 
”tạo núi Indosini” (Trần Văn Trị, Vũ Khúc, 2009). 
Tuy nhiên, sự kiện kiến tạo liên quan đến chu kỳ 
tạo núi Indosini hiện nay vẫn còn có những tranh 
cãi. Giai đoạn Pecmi - Triat bao gồm một loạt các 
sự kiện kiến tạo xảy ra có tác động đến địa khối 
Đông Dương. Điển hình đầu tiên phải kể đến là hút 
chìm của biển cổ dưới mảng Đông Dương để hình 
thành loạt magma liên quan đến hút chìm này từ 
phía nam Sông Mã dọc theo đai tạo núi Trường 
Sơn trong suốt thời kỳ Pecmi - Triat giữa và kết 
thúc bằng pha va chạm giữa địa khối Nam Trung 
Hoa và Đông Dương trong khoảng cuối Triat giữa 
(Liu, et al., 2012; Pham Trung Hieu et al., 2017). 
Một sự kiện kiến tạo khác đã ảnh hưởng đến khu 
vực Đông Dương từ phía nam trong thời kỳ 
Permian - Triassic đó là pha đóng biển sau cung 
giữa Đông Dương và Sukhothai Arc trong giai 
đoạn đầu đến cuối Permian, sau một vụ va chạm 
giữa khối Sibumasu với Arc Sukhothai trong Triat 
giữa - muộn (Ian, 2011; Sone, & Metcalfe, 2008; 
Wakita, & Metcalfe, 2005). Sự kiện này có thể dẫn 
đến hình thành rộng rãi magma Pecmi - Triat ở 
khu vực Thái Lan, Lào, Campuchia và có thể cả ở 
Việt Nam. Các nghiên cứu gần đây cũng cho thấy 
có sự kiện nhiệt kiến tạo giai đoạn Pecmi - Triat 
khá phổ biến ở địa khu Kon Tum, bao gồm loạt các 
đá magma cùng tuổi có những đặc tính địa hóa liên 
quan đến hút chìm, loạt tuổi biến chất Pecmi 
muộn - Triat ghi nhận trên các đá biến chất của 
phức hệ Ka Nack, Ngọc Linh (Yasuhito, et al., 
2004). Tuy nhiên giai đoạn nhiệt kiến tạo này liên 
quan đến sự kiện kiến tạo nào thì vẫn là câu hỏi 
lớn và cần có sự nghiên cứu chi tiết trong những 
công trình tiếp theo. 
Tuổi thành tạo mới của khối Bến Tuần (T2) và 
khối Đá Thẻ (D1) sẽ góp phần luận giải bối cảnh 
kiến tạo của các đới cấu trúc, sinh khoáng của 
chúng trong thời gian tiếp theo. Cụ thể, một số nhà 
địa chất xếp granit khối Bến Tuần tuổi Kreta thuộc 
bối cảnh tạo núi - sau tạo núi Mesozoi thượng, còn 
giai đoạn T2 lại thuộc bối cảnh rìa lục địa tích cực - 
va chạm Paleozoi thượng - Mesozoi hạ (Tạ Trọng 
Thắng, 1998.); granit khối Đá Thẻ trước đấy cũng 
định tuổi Kreta và xếp chúng vào bối cảnh kiến tạo 
rift nội lục, nhưng thời kỳ 427 tr.n (D1) lại thuộc 
bối cảnh kiến tạo va chạm mảng (Nguyễn Xuân 
Bao và nnk., 2000; Cát Nguyên Hùng và nnk., 
1996). Do đó, đây cũng là cơ sở cho việc phân chia 
cấu trúc kiến tạo hay các tổ hợp thạch kiến tạo của 
đai tạo núi Trường Sơn, Đà Nẵng - Sê Kông trong 
thời kỳ Paleozoi - Mesozoi của bối cảnh kiến tạo 
chung vùng Đông Nam Châu Á. Tương ứng với sự 
thay đổi bối cảnh kiến tạo hình thành magma sẽ 
ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sinh khoáng 
của khu vực. Kết quả nghiên cứu này còn làm cơ 
sở để so sánh giữa các khối magma được xếp vào 
phức hệ Bà Nà như khối Bà Nà, Ngọc Tụ v.v, là tiêu 
chí xác định rõ hơn kiểu granitoid Bà Nà, định 
hướng luận giải sinh khoáng hiện nay còn nhiều 
tranh cãi. Tuy nhiên, cần có những nghiên cứu 
thêm về bản chất của magma mới giải quyết được 
các vấn đề nêu trên, sẽ được làm sáng tỏ thêm ở 
những bài báo tiếp theo. 
5. Kết luận 
Các kết quả nghiên cứu thạch học, tuổi đồng 
vị U - Pb khoáng vật zircon bằng phương pháp 
SHRIMP cho phép nhóm tác giả rút ra một số kết 
luận sau: 
- Đặc điểm thạch học granit khối Bến Tuần đa 
dạng về tướng: granit hạt vừa, granit hạt nhỏ, 
granit pegmatit. Trong khi đó, granit khối Đá Thẻ 
đồng nhất, không chứa khoáng vật phụ orthit, 
sphen như khối Bến Tuần; 
- Tuổi kết tinh của đá granit khối Đá Thẻ là 
427 ± 2,4 tr.n tương đương với magma hình thành 
kiểu liên quan đới hút chìm trong gian đoạn 
Paleozoi sớm trên khối Đông Dương. Trong khi đó 
khối Bến Tuần có tuổi kết tinh là 244,5 ± 1,5 tr.n 
tương đương với magma tạo núi Indosini. Tuy 
nhiên cần có những nghiên cứu cụ thể về loạt 
magma này trong địa khối Kon Tum. 
6. Lời cảm ơn 
Kết quả nghiên cứu thuộc Đề tài “Nghiên cứu 
chuyên hóa địa hóa molipden các thành tạo 
granitoid kiểu Bà Nà và tiềm năng sinh khoáng Mo 
của chúng” đang triển khai từ giai đoạn 2016 - 
2018. Mã số: TNMT.2016.03.05. Chủ nhiệm: 
Nguyễn Văn Niệm. 
Tài liệu tham khảo 
Bùi Minh Tâm (chủ biên), 2010. Hoạt Động 
magma Việt Nam. Viện Khoa học Địa chất Và 
Khoáng sản.. 
Cát Nguyên Hùng, 1996. Báo cáo đo vẽ bản đồ địa 
chất và khoáng sản nhóm tờ Hội An - Đà Nẵng 
24 Nguyễn Văn Niệm và nnk. /Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 60 (1), 15 - 25 
tỷ lệ 1/50.000. Liên đoàn bản đồ địa chất Miền 
Nam. 
Gardner, C. J., Graham, I. T., Belousova, E., Booth, G. 
W., Greig, A., 2017. Evidence for Ordovician 
subduction - related magmatism in the Truong 
Son terrane, SE Laos. Implications for 
Gondwana evolution and porphyry Cu 
exploration potential in SE Asia. Gondwana 
Res., 44, 139 - 156. 
Ian Metcafe, 2011. Paleozoic - Mesozoic history of 
SE Asia.  
Lan, C. Y., Chung, S. L., Long, T. V., Lo, C. H., Lee, T. 
Y., Mertzman, S. A. and Shen, J., 2003. 
Geochemical and Sr - Nd isotopic constraints 
from the Kontum massif. Central Vietnam on 
the crustal evolution of the Indochina block. 
Precam. Res., 122. 7 - 27. 
Lê Đức Phúc, 2009. Đặc điểm thạch học - khoáng 
vật, thạch địa hóa các đá granitoit khối Bà Nà. 
No.07 - 2009. Science & Technology 
Development 12. 
Lê Đức Phúc, 2009. Thạch luận granitoit khối Hải 
Vân. Science & Technology Development 12. 55 
- 2009. 
Léo, A. H., Joao, O. S. S., 2004. Predominance of 
high Th/U, magmatic zircon in Brazilian Shield 
sanstones. Geological Society of America. 
Liu, J., Tran, M. D., Tang, Y., Nguyen, Q. L., Tran, T. 
H., Wu, W., Chen, J., Zhang, Z., Zhao, Z., 2012. 
Permo - Triassic granitoids in the northern 
part of the Trung Son belt, NW Vietnam. 
Geochronology, geochemistry and tectonic 
implications. Gondwana Research 22, 628 - 
644. 
Nguyễn Văn Niệm (Chủ biên), Đỗ Đức Nguyên, 
Nguyễn Minh Long, Bùi Hữu Việt, Đoàn Thị 
Ngọc Huyền, Hoàng Thị Thùy Linh, 2014. Báo 
cáo Nghiên cứu đặc điểm địa hóa của molipden 
trong thành tạo granitoid khối Ngọc Tụ (phức 
hệ Bà Nà) làm cơ sở dự báo tiềm năng khoáng 
sản molipden. Viện Khoa học Địa chất và 
Khoáng sản. Hà Nội. 
Nguyễn Văn Trang (Chủ biên), 1986 - 1995. Báo 
cáo thuyết minh, Bản đồ địa chất và khoáng sản 
nhóm tờ Huế - Quảng Ngãi tỷ lệ 1: 200.000 (Tờ 
Hướng Hóa - Huế - Đà Nẵng; Tờ Hội An) . Liên 
đoàn Bản đồ Địa chất miền Bắc. 
Nguyễn Xuân Bao (Chủ biên), 2000. Nghiên cứu 
kiến tạo và sinh khoáng Nam Việt Nam. Liên 
đoàn bản đồ địa chất Miền Nam. 
Nguyễn Xuân Bao, Dương Văn Cầu, Trịnh Long, 
2015. Các đới kiến tạo phần đất liền Nam Việt 
Nam. Tạp chí địa chất, loạt A. 352-354. 16-27. 
Phạm Huy Thông (Chủ biên), 1997. Báo cáo thuyết 
minh: Bản đồ địa chất và tìm kiếm khoáng sản 
nhóm tờ Huế tỷ lệ 1: 50.000. Liên đoàn Bản đồ 
Địa chất miền Bắc. 
Pham Trung Hieu, Shuang, Q. L., Yang, Y., Ngo Xuan 
Thanh, Le Tien Dung, Vu Le Tu, Wolfgang, S., 
Fukun, C., 2017. Stages of late Paleozoic to 
early Mesozoic magmatism in the Song Ma 
belt, NW Vietnam: evidence from zircon U - Pb 
and Hf isotope composition geochronology. 
International Journal of Earth Sciences 106(3). 
855 - 874. 
Sone, M., & Metcalfe, I., 2008. Parallel Tethyan 
sutures in mainland SE Asia. New insights for 
Palaeo - Tethys closure. Compte Rendus 
Geoscience 340, 166 - 179. 
Tạ Trọng Thắng, 1998. Tuổi và đặc điểm biến dạng 
của đới cắt trượt biến dạng dẻo Đà Nẵng - A 
Lưới - Khe Sanh. Tạp chí Địa chất A/245. 81 - 
89. 
Trần Hoàng Vũ, 2015. Tuổi đồng vị U - Pb trong 
zircon của granit khối Ngọc Tụ, huyện Đăk Tô, 
tỉnh Kon Tum. Hội nghị Khoa học kỷ niệm 70 
năm thành lập Ngành địa chất. Tổng cục Địa 
chất và Khoáng sản. 
Trần Văn Trị, Vũ Khúc (Chủ biên), 2009. Địa chất 
và Tài nguyên Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học 
Tự nhiên và Công nghệ. 
Tran Thanh Hai, Zaw, K., Halpin, J. A., Manaka, T., 
Meffre, S., Lai, C. K., Lee, Y., Le, H. V., Dinh, S., 
2014. The Tam Ky - Phuoc Son shear zone in 
Central Vietnam. Tectonic and metallogenic 
implications. Gondwana Res 26. 144 - 164. 
Wakita, K., & Metcalfe, I., 2005. Ocean Plate 
Stratigraphy in East and Southeast Asia. 
Journal of Asian Earth Sciences 24. 679 - 702. 
Yasuhito, O., Nobuhiko, N., Masaaki, O., Tran Ngoc 
Nam, Tsuyoshi, T., Toshiaki, T. and Pham Binh,
 Nguyễn Văn Niệm và nnk. /Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 60 (1), 15 - 25 25 
 2004. Permo - Triassic ultrahigh - 
temperature metamorphism in the Kontum 
massif, Central Vietnam. Journal of 
Mineralogical and Petrological Sciences 99. 225 
- 241. 
ABSTRACT 
Some new results of lithological characteristics and U - Pb age of granit 
of Ben Tuan, Da The block 
Niem Van Nguyen 1, Nguyen Duc Do 1, Tam Minh Bui 3, Tu Trong Mai 2, Thuy Bich Thi Nguyen 2, 
Long Minh Ngo 1, Thanh Xuan Ngo 4, Huyen Ngoc Thi Doan 1, Viet Huu Bui 1, Thanh Hung 
Pham1, Thu Thi Ho 2 
1 Vietnam institute of Geosciences and mineral resources, Vietnam 
2 General Department of Geology and Minerals of Vietnam, Vietnam 
3 Geological Society of Vietnam, Vietnam 
4 Faculty of Geology Geosciences and Geoengineering, Hanoi University of Minning and Geology, Vietnam 
Ben Tuan granite blocks belong to the Long Dai structure, and Da Le block belongs to the Da Nang - Se 
Kong structure zone. At present, most of the studies arranged rocks of two blocks into the Ba Na complex 
that is Kreta age. Research results show that the two intrusional blocks have relatively different lithological 
and mineral characteristics. Accordingly, Ben Tuan block appears granite rocks to be rich in pegmatite 
lumps and orthite, sphen minerals. The results of U - Pb zircon age determined by SHRIMP method for Ben 
Tuan block granitoid is 244.5 ± 1.5 Ma (T2), the Da The block is 427 ± 2.4 Ma (D1) shows that these two 
intrusive bloks are not the same as the intrusive magma complex, formed in different techtonic structures. 
The magmatic formations of Da The block are closely related to Caledonia mountain setting, and the 
magmatic ones of the Ben Tuan block are related to Indosini mountain setting. The results of this study is of 
great significance in the interpretation of the Truong Son and Da Nang - Se Kong mountain belt during the 
Paleozoic - Mesozoic period in the context of the tectonic setting in Southeast Asia. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_ket_qua_moi_ve_dac_diem_thach_hoc_va_tuoi_u_pb_cua_th.pdf