Đề tài Thực trạng và giải pháp để nâng cao hiệu quả của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN.

1. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là gì.

Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá trình chuyển đối căn bản, toàn diện

các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử

dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động

cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên

sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng xuất

xã hội cao.

Chúng ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa do đó ta cần quan tâm đến

nội dung cơ bản của công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là ta phải phát triển lực lượng sản xuất, cơ sở

vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trên cơ sở thực hiện cơ khí hoá nền sản

xuất xã hội và áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại; chuyển

đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá, hợp lý hoá và hiệu quả cao; thiết

lập quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

2. Vai trò của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đối với sự phát triển

kinh tế Việt Nam.

Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra đường

lối công nghiệp hoá và coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội. Phân tích những tác dụng cơ bản của công

nghiệp hoá đối với nền kinh tế đất nước hiện nay càng làm rõ ý nghĩa vai trò

trung tâm của công nghiệp hoá.

Công nghiệp hoá ở nước ta trước hết là quá trình thực hiện mục tiêu xây

dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình thực hiện chiến lược4

phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một xã

hội công nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ,

ngàycàng thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới xã hội

chủ nghĩa.

Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm là nền nông nghiệp lạc

hậu, bình quân ruộng đất thấp, 80% dân cư nông thôn có mức thu nhập rất thấp

sức mua hạn chế. Vì vậy công nghiệp hoá là quá trình tạo ra những điều kiện

vật chất kỹ thuật cần thiết về con người và khoa học - công nghệ, thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn

lực để không ngừng tăng năng xuất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng

nhanh, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho nhân dân, thực hiện công

bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.

pdf 28 trang yennguyen 1260
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Thực trạng và giải pháp để nâng cao hiệu quả của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Thực trạng và giải pháp để nâng cao hiệu quả của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam

Đề tài Thực trạng và giải pháp để nâng cao hiệu quả của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam
 1 
LỜI MỞ ĐẦU 
 Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải có nguồn 
nhân lực , vốn và tài nguyên . Đối với Việt Nam , cả hai nguồn lực tài 
chính và tài nguyên thiên nhiên đều rất hạn chế nên nguồn lực con người 
đương nhiên đóng vai trò quyết định .So với các nước láng giềng chúng ta 
có lợi thế đông dân , tuy nhiên nếu không được qua đào tạo thì dân đông 
sẽ là gánh nặng dân số còn nếu được qua đào tạo chu đáo thì đó sẽ là 
nguồn nhân lực lành nghề ,có tác động trực tiếp lên tốc độ tăng trưởng 
kinh tế của quốc gia. Một đội ngũ nhân lực lành nghề và đồng bộ cũng tạo 
nên sức hấp dẫn to lớn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam . 
Vì thế báo cáo chính trị đại hội Đảng toàn quốc lần 8 đã chỉ rõ : “ Giáo 
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu , phương hướng chung trong nhiều 
năm tới là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá 
hiện đại hoá đất nước ”. Báo cáo chính trị đại hội Đảng toàn quốc lần 9 
cũng nêu : “Phải tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành 
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Con đường công nghiệp hoá 
hiện đại hoá của nước ta có thể và cần rút ngắn thời gian . Thực tế cho 
thấy, sự phát triển kinh tế – xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố , nhiều điều 
kiện nhưng chủ yếu nhất vẫn là phụ thuộc vào con người .Điều khẳng 
định trên lại càng đúng với hoàn cảnh nước ta trong giai đoạn cách mạng 
đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. So sánh các nguồn lực 
với tư cách là điều kiện , tiền đề để phát triển đất nước và tiến hành công 
nghiệp hoá hiện đại hoá thì nguồn nhân lực có vai trò quyết định . Do vậy 
 2 
, hơn bất cứ nguồn lực nào khác ,nguồn nhân lực phải chiếm một vị trí 
trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội nước ta . Đây là 
nguồn lực của mọi nguồn lực , là nhân tố quan trọng bậc nhất để đưa nước 
ta nhanh chóng trở thành một nước công nghiệp phát triển . Do vậy , khai 
thác ,sử dụng và phát triển nguồn nhân lực là vấn đề quan trọng góp phần 
thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. 
Muốn có được một nguồn nhân lực có chất lượng tốt , chúng ta phải có 
những hoạt động tích cực để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nước 
nhà ,trước hết phải bắt đầu từ việc giáo dục và đào tạo. Giáo dục, đào tạo 
và bồi dưỡng là trang bị kiến thức truyền thụ kinh nghiệm, hình thành kỹ 
năng kỹ xảo trong hoạt động , hình thành nên phẩm chất chính trị, tư 
tưởng , đạo đức và tâm lý , tạo nên những mẫu hình con người đặc trưng 
và tương ứng với mỗi xã hội nhất định , tạo ra năng lực hành động cho 
mỗi con người Nội dung của giáo dục , đào tạo quy định nội dung của các 
phẩm chất tâm lý tư tưởng , đạo đức và định hướng sự phát triển của mỗi 
nhân cách . Chúng ta đang đặt con người vào vị trí trung tâm vì khi con 
người ở đúng vị trí của nó thì nó mới phát huy hết tiềm lực đang ngủ yên 
của Việt Nam . Đó là một chiến lược đúng đắn của nước ta hiện nay 
.Muốn làm được điều đó chúng ta cần phải nghiên cứu thực trạng một cách 
chính xác để đề ra giải pháp hợp lý, để làm sao nâng cao hiệu quả nguồn nhân 
lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đây là vấn đề hết sức quan 
trọng đối với nước ta hiện nay, do đó em chọn đề tài "Thực trạng và giải pháp 
để nâng cao hiệu quả của đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực phục vụ cho 
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam" 
 3 
 NỘI DUNG 
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN. 
1. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là gì. 
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá trình chuyển đối căn bản, toàn diện 
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử 
dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động 
cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên 
sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng xuất 
xã hội cao. 
Chúng ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa do đó ta cần quan tâm đến 
nội dung cơ bản của công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong thời kỳ quá độ lên 
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là ta phải phát triển lực lượng sản xuất, cơ sở 
vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trên cơ sở thực hiện cơ khí hoá nền sản 
xuất xã hội và áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại; chuyển 
đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá, hợp lý hoá và hiệu quả cao; thiết 
lập quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 
2. Vai trò của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đối với sự phát triển 
kinh tế Việt Nam. 
Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra đường 
lối công nghiệp hoá và coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt 
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội. Phân tích những tác dụng cơ bản của công 
nghiệp hoá đối với nền kinh tế đất nước hiện nay càng làm rõ ý nghĩa vai trò 
trung tâm của công nghiệp hoá. 
Công nghiệp hoá ở nước ta trước hết là quá trình thực hiện mục tiêu xây 
dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình thực hiện chiến lược 
 4 
phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một xã 
hội công nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, 
ngàycàng thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới xã hội 
chủ nghĩa. 
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm là nền nông nghiệp lạc 
hậu, bình quân ruộng đất thấp, 80% dân cư nông thôn có mức thu nhập rất thấp 
sức mua hạn chế. Vì vậy công nghiệp hoá là quá trình tạo ra những điều kiện 
vật chất kỹ thuật cần thiết về con người và khoa học - công nghệ, thúc đẩy 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn 
lực để không ngừng tăng năng xuất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng 
nhanh, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho nhân dân, thực hiện công 
bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. 
Quá trình công nghiệp hoá tạo ra cơ sở vật chất để làm biến đổi về chất 
lực lượng sản xuất, nhờ đó mà nâng cao vai trò của con người lao động - nhân 
tố trung tâm của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện vật chất cho việc 
xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 
Nền kinh tế tăng trưởng và phát triển nhờ thành tựu công nghiệp hoá 
mang lại, là cơ sở kinh tế để củng cố và phát triển khối liên minh vững chắc 
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức trong sự 
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là góp phần tăng cường quyền 
lực, sức mạnh và hiệu quả của bộ máy quản lý kinh tế nhà nước. 
Quá trình công nghiệp hoá tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế 
độc lập, tự chủ vững mạnh trên cơ ở đó mà thực hiện tốt sự phân công và hợp 
tác quốc tế. 
Sự nghiệp công nghiệp hoá thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát 
triển, thúc đẩy quá trình quy hoạch vụng lãnh thổ hợp lý theo hướng chuyên 
 5 
canh tập chung làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng, các miền trở nên thống 
nhất cao hơn. 
Công nghiệp hoá không những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng 
trưởng phát triển cao mà còn tạo tiền dề vật chất để xây dựng, phát triển và 
hiện đại hoá nền quốc phòng an ninh. Sự nghiệp quốc phòng và an ninh gắn 
liền với sự nghiệp phát triển văn hoá, kinh tế xã hội. 
Thành tựu công nghiệp hoá tạo ra tiền đề kin tế cho sự phát triển đồng bộ 
về kinh tế - chính trị, văn hoá xã hội, quốc phòng và an ninh. Thành công của 
sự nghiệp công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng 
lợi của con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chính 
vì vậy mà công nghiệp hoá kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt 
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 
3. Lý luận nguồn nhân lực. 
Ngày nay khi vai trò của nguồn nhân lực đang ngày càng được thừa nhận 
như một yếu tố quan trọng bên cạnh vốn và công nghệ cho mọi sự tăng trưởng 
thì một trong những yêu cầu để hoà nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như thế 
giới là phải có được một nguồn nhân lực có đủ sức đáp ứng đựơc những yêu 
cầu của trình độ phát triển của khu vực, của thế giới, của thời đại. 
Nguồn nhân lực là toàn bộ những người lao động đang có khả năng tham 
gia vào các quá trình lao động và các thế hệ nôid tiếp sẽ phục vụ cho xã hội. 
Nguồn nhân lực với tư cách là một yếu tố của sự phát triển kinh tế - xã hội 
là khả năng lao động cả xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm 
dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Với cách hiểu này nguồn 
nhân lực tương đương với nguồn lao động. 
Nguồn nhân lực còn có thể hiểu là tổng hợp cá nhân những con người cụ 
thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh 
 6 
thần được huy động vào quá trình lao động. Với cách hiểu này nguồn nhân lực 
bao gồm những người từ giới hạn dưới độ tuổi lao động trở lên. 
Nguồn nhân lực được xem xét trên giác độ số lượng và chất lượng. Số 
lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng 
nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu này có quan hệ mật thiết với các chỉ tiêu quy mô 
và tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì 
dẫn đến quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại. Tuy 
nhiên, mối quan hệ dân số và nguồn nhân lực được biểu hiện sau một thời gian 
nhất định (vì đến lúc đó con người muốn phát triển đầy đủ, mới có khả năng 
lao động). 
Khi tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội, con người đóng 
vai trò chủ động, là chủ thể sáng tạo và chi phối toàn bộ quá trình đó, hướng nó 
tới mục tiêu nhất định. Vì vậy, nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là số lượng 
lao động đã có và sẽ có mà nó còn phải bao gồm một tổng thể các yếu tố thể 
lực, trí lực, kỹ năng làm việc, thái độ và phong cách làm việc... tất cả các yếu tố 
đó ngày nay đều thuộc về chất lượng nguồn nhân lực và được đánh giá là một 
chỉ tiêu tổng hợp là văn hoá lao động. Ngoải ra, khi xem xét nguồn nhân lực, 
cơ cấu của lao động - bao gồm cả cơ cấu đào tạo và cơ cấu ngành nghề cũng là 
một chỉ tiêu rất quan trọng. 
Cũng giống như các nguồn lực khác, số lượng và đặc biệt là chất lượng 
nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra của cải vật 
chất và tinh thần cho xã hội. 
Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu sử dụng lao động, những 
người lao động phải được đào tạo, phân bổ và sử dụng theo cơ cấu hợp lý, đảm 
bảo tính hiệu quả cao trong sử dụng. Một quốc gia có lực lượng lao động đông 
đảo, nhưng nếu phân bổ không hợp lý giữa các ngành, các vùng, cơ cấu đào tạo 
không phù hợp với nhu cầu sử dụng thì lực lượng lao động đông đảo đó không 
 7 
những không trở thành nguồn lực để phát triển mà nhiều khi còn là gánh nặng 
cản trở sự phát triển. 
4. Vai trò của nguồn nhân lực với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại 
hoá và với nền kinh tế tri thức ở nước ta. 
Ngày nay, trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học 
công nghệ và thông tin, sự giao lưu trí tuệ và tư tưởng liên minh kinh tế giữa 
các khu vực trên thế giới. Sự ra đời của nhiều công ty xuyên quốc gia đã tạo ra 
tốc độ yăng trưởng chưa từng thấy. Tình hình đó đã dẫn đến sự quốc tế hoá 
kinh tế thế giới, gây nên những đảo lộn về chính trị xã hội sâu sắc mang tính 
toàn cầu và đang đi đến thiết lập một trật tự thế giới mới. Trong bối cảnh đó 
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đang nổi lên là khu vực kinh tế năng động 
nhất. Một trong những yếu tố chủ chốt thức đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh 
chóng là vai trò của nguồn nhân lực. 
Nền kinh tế tri thức là kinh tế dựa trên các trụ cột chủ yếu là công nghệ 
thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... Để có được nền kinh tế 
tri thức cần phải xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc để phát triển khoa học công 
nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin; đồng thời phải đầu tư cho phát triển giáo 
dục đào tạo hay nói cách khác phải đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực. Các 
nước muốn phát triển nền kinh tế tri thức cần phải đầu tư cho phát triển con 
người mà cốt lõi là phát triển giáo dục và đào tạo, đặc biệt là đàu tư phát triển 
nhân tài. Nhà kinh tế học người Mỹ, ông Garry Becker- người được giải 
thưởng Nobel về kinh tế năm 1992, đã khẳng định: " không có đầu tư nào mang 
lại nguồn lợi lớn như đầu tư cho giáo dục" (Nguồn: The Economist 
17/10/1992). Nhờ có sự đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực mà nhiều nước 
chỉ trong một thời gian ngắn đã nhanh chóng trở thành nước công nghiệp phát 
triển. 
 8 
Việt Nam là nước đang phát triển có lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, 
nền kinh tế tri thức đối với Việt Nam là khái niệm hoàn toàn mới mẻ. Do vậy, 
có ý kiến cho rằng nền kinh tế tri thức đối với Việt Nam hiện nay quá xa và 
không hiện thực; cho rằng Việt Nam phải xây dựng xong công nghiệp hoá, hiện 
đại hoá để làm tiền đề cho kinh tế tri thức ra đời và phát triển, kinh tế tri thức 
không chỉ bao gồm các ngành mới xuất hiện dựa trên công nghệ cao, mà còn cả 
các ngành truyền thống đựoc cải tạo bàng khoa học công nghệ cao. Do đó 
không nên chờ cho đến khi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá kết thúc 
mới tiến hành xây dựng kinh tế tri thức, mà ngay trong giai đoạn này, để phát 
triển và theo kịp các nước trên thế giới, chúng ta phải đồng thời phải quan tâm 
tới những lĩnh vực mà chúng ta có thể tiếp cận. 
Đối với Việt Nam, một đất nước nông nghiệp, rõ ràng chúng ta không thể 
xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức như các nước công nghiệp phát triển. 
Thực ra đó là sự tiếp tục quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ở 
một trình độ cao hơn, dựa trên chất xám của con người. Mặt khác do xuất phát 
điểm của lực lượng sản xuất của ta thấp, mà tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt 
Nam phải phù hợp với điều kiện của Việt Nam, tức mang những đặc thù của 
mình. Do đó việc xác định nội dung các ngành kinh tế trong quá trình công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuẩn bị các điều kiện vật chất và con người để tiếp 
cận kinh tế tri thức trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của mọi cấp, mọi 
ngành, nhất là các cấp hoạch định chiến lược. Trong việc chuẩn bị ấy việc 
nghiên cứu thực trạng mạnh, yếu và tìm ra giải pháp phát triển nguồn nhân lực 
là quan trọng và cấp bách nhất trong giai đoạn hiện nay. 
Theo kinh nghiệm của nhiều nước thì nếu chỉ có lực lượng lao động đông 
và rẻ thì không thể tiến hành công nghiệp hoá, mà đòi hỏi phải có một đội ngũ 
lao động có trình độ chuyên môn cao. Chính nhờ lực lượng có trình độ chuyên 
môn cao mà Nhật Bản và các nước Nics (các nước công nghiêpj mới) vận hành 
 9 
có hiệu quả công nghệ nhập khẩu hiện đại, sản xuất ra nhiều mặt hàng có sức 
cạnh tranh cao với các nước công nghiệp phát triển trên thế giới. 
Để đảm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất 
nước, phải bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Với tư cách là mục tiêu 
và động lực phát triển, con người có vai trì to lớn không những trong đời sông 
kinh tế mà con trong lĩnh vực hoạt động khác. Bởi vậy phải quan tâm, nâng cao 
chất lượng con người, không chỉ với tư cách là người lao động sản xuất, mà với 
tư cách là công dân trong xã hội, một cá nhân trong tập thể, một thành viên 
trong cộng đồng nhân loại... Không thể thực hiện được công nghiệp ho ... ghề, phổ nghề, khu vực phi kết cấu... 
Lần đàu tiên trong những năm 1996-1998 bình quân mỗi năm tạo thêm chỗ làm 
việc mới cho khoảng1,2 đến 1,3 triệu lao động, tương đương với số lao động 
trẻ mới bước vào tuổi lao động mỗi năm. 
Quản lý nhà nước về nguồn nhân lực ngày càng được quan tâm, chính 
sách phát triển nguồn nhân lực ngày càng được hoàn thiện, đặc biệt là từ năm 
1995 đến nay, Bộ luật lao động đàu tiên ở nước ta được ban hành có hiệu lực 
và đang phát huy trong cuộc sống. Bộ luật lao động điều chỉnh các quan hệ lao 
động theo một cơ chế mới, dựa trên cơ sở tự do hoá lao động, giải phóng mọi 
tiềm năng lao động và nâng cao tính năng động xã hội của lao động. Thị trường 
sức lao động đã hình thành và ngày càng phát triển trở thành một thị trường 
thống nhâts, xoá br hàng rào hành chính, người lao động được tự do di chuyển 
và hành nghề theo pháp luật và sự hướng dẫn của nhà nước. Tiền công lao 
động ngày càng phản ánh đúng giá trị và giá cả lao động, có tính đến quan hệ 
cung cầu lao động tên thị trường sức lao động. Lao động được tự do, được giải 
phóng tạo ra động lực mới để mọi người lao động, sáng tạo có năng suất cao. 
Nếu ta tiếp tục có chính sách khuyến khích lao động chất xám và tay nghề tốt 
hơn, sẽ là yếu tố năng lực nội sinh to lớn phát triển nguồn nhân lực đất nước 
trong hiện tại cũng như trong tương lai. 
Những khó khăn thách thức trong tương lai. 
 20 
Nền kinh tế thế giới đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức và nước ta 
cũng ssang tiến hành môtj số nặt có thể của nó. Nền kinh tế tri thức có một số 
đặc trưng nổi bật sẽ đòi hỏi ở nguồn nhân lực tương ứng phải được đào tạo đặc 
biệt về nội dung và phương pháp mới. Những nét khái quát về nền kinh tế tri 
thức với các đặc trưng của nó đã đủ nhận thấy sẽ xuất hiện một thị trường lao 
động hết sức đặc biệt với thách thức mới đối với nguồn nhân lực. Đó là cơ cấu 
ngành nghề mới do cơ cấu công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, năng 
lượng và vi điện tử đòi hỏi. Rõ ràng đội ngũ lập trình viên kỹ thuật giỏi; các 
chuyên gia công nghệ phần mềm ở mọi lĩnh vực và các lao động kỹ thuật sử 
dụng Internet giỏi là yêu cầu mới của nhân lực trong thị trường lao động mới 
của nền kinh tế thị trường. 
Nguồn nhân lực trong tương lai sẽ phải được coi trọng giáo dục về tư duy 
sáng tạo, về năng lực tự chủ, tự học hỏi và cần được đào tạo kỹ năng thành 
thạo, linh hoạt về công nghệ mới; về quản lý mạng và đặc biệt là năng lực về 
kinh doanh; về tính nhạy cảm với cái mới và sự bền vững trong phát huy bản 
sắc dân tộc với nền văn hoá vững chắc. 
Cũng cần nhấn mạnh đến một vài phương tiện quan trọng của nguồn nhân 
lực mới trong nền kinh tế thị trường, đó là năng lực sử dụng máy vi tính, năng 
lực sử dụng ngoại ngữ và năng lực giao tiếp, đó là những phương tiện giúp cho 
lao động kỹ thuật phát huy với hiệu quả cao không chỉ ở thị trường lao động 
trong nước mà cả ở thị trường lao động quốc tế. 
Dân số trẻ về lâu dài là một thế mạnh, song trước mắt xét về mặt kinh tế, 
nếu không có một chính sách phù hợp sẽ bất lợi, do bình quân số người phải 
nuôi dưỡng (trẻ em ăn theo) trên một lao động cao hơn các nước khác, kèm 
theo đó là những khó khăn về việc làm, giáo dục, y tế và dịch vụ xã hội khác 
Tốc độ tăng nguồn lao động còn ở mức cao, đến năm 2000 bình quân mỗi 
năm tăng nguồn lao động khoảng 2,95%. Thời kỳ 2001 đến 2010, số lao động 
 21 
cần giải quyết việc làm mới vào khoảng 11-12 triệu người, hầu hết là lao động 
trẻ, trong khi nguồn lực đầu tư cả trong nước và quốc tế cho phát triển sản xuất 
rất hạn chế. Theo tính toán, sau năm 2000 trên tổng thể nước ta vẫn dư thừa lao 
động. Mặt khác tỷ lệ thất nghiệp thành thị hiện nay còn rất lớn và đang có xu 
hướng tăng lên. Năm 1999 tỷ lệ đó là 6,85%, tăng thêm 0,84% so với năm 
1997; đặc biệt là Hà Nội, tỷ lệ đó là 9,09% so tổng lực lượng lao động. Trong 
nông thôn, tình trạng thiếu việc làm rất nghiêm trọng và cũng đang có xu 
hướng tăng lên, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động trong nông thôn của lực lượng 
lao động trong độ tuổi, năm 1998 là 71,13%, so với 1997 giảm 2,01% (1997 là 
73,14%). Trong khi đó lại thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật cao. Nhiều lĩnh 
vực như: láp ráp ô tô, đóng tàu, dầu khí v.v. phải thuê lao động ở nước ngoài, 
đó là một mâu thuẫn gay gắt hiện nay. 
Chính sách của nhà nước còn thiếu đồng bộ, nhất là chính sách thuế, đất 
đai, tín dụng v.v. chưa khuyến khích và tạo ra động lực đẩy mạnh đầu yư trong 
nước để phát triển sản xuất, tạo mở việc làm, trong khi nguồn vốn còn trong 
dân rất lớn, nhưng dân chưa đầu tư vào các ngành chính sản xuất, mà chủ yếu 
đầu tư vào dịch vụ, buôn bán phi sản xuất. Trong hoạt động mở rộng thị 
trường, kể cả thị trường nội địa và ngoài nước thì năng lực tổ chức thị trường 
còn yếu kém; chưa có chính sách khuyến khích tiêu dùng hàng nội để kích 
thích sản xuất trong nước phát triển, từ đó tạo thên nhiều chỗ làm việc mới. Tất 
nhiên hàng trong nước cũng phải nâng chất lượng, mẫu mả và giá cả hợp lý. 
Với chủ trương tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, 
hiện đại hoá đất nước, nhất là công nghiệp, hoá hiện đại hoá nông thôn, tập 
trung phát triển các ngành, các lĩnh vực, các sản phẩm có lợi thế. Nâng cao 
hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, nước ta phải đối mặt với một thách 
thức lớn về chất lượng nguồn nhân lực. Tỷ lệ nguồn lao động qua đào tạo rất 
thấp (năm 1998 tỷ lệ này là 17,8%). Chưa có chính sách phân luồng trong giáo 
 22 
dục và đào tạo, cơ cấu đào tạo bất hợp lý, tỷ lệ giữa đại học, cao đẳng, trung 
học và công nhân kỹ thuật là 1-1,6-3,6. Trong khi các nước khác là 1-4-10; 
giáo dục, đào tạo nặng về bằng cấp, thi cử, xu hướng thương mại hoá trong đào 
tạo khá phổ biến; đào tạo không gắn với sản xuất và thị trường sức lao động 
(không gắn với sử dụng); lao động trong nông nghiệp nông thôn hầu như không 
được đào tạo. Có thể nói điểm yếu cơ bản nhất của giáo dục và đào tạo nguồn 
nhân lực nước ta thời gian qua là chưa tạo ra được một đội ngũ có năng lực và 
có tính năng động xã hội cao, đáp ứng yêu cầu của sản xuất, của thị trường sức 
lao động. 
Với những lợi thế trên, Việt Nam có nhiều cơ hội để tiến tới nền kinh tế tri 
thức vào những thập kỷ tới của thế kỷ XXI. Tuy nhiên, bước đột phá sẽ phải từ 
việc đổi mới tư duy và thể chế quốc gia trong điều kiện mới của đất nước và 
của thế giới, đồng thời tập trung cao vào việc giáo dục đào tạo nguồn nhân lực 
mới chất lượng cao, phù hợp và đón đầu chiến lược phát triển kinh tế xã hội 
của Việt Nam tới những năm 2020. 
Nguồn nhân lực Việt Nam hơn bao giờ hết cần được đào tạo để phát triển 
nội lực với giá trị mới và vượt qua được những thách thức mới cuae thị trường 
lao động trong nền kinh tế tri thức tương lai. 
2. Một số giải pháp nhằm giải quyết hợp lý vấn đề về nguồn nhân lực. 
Nhìn rõ được thực trạng về nguồn nhân lực của nước ta để chúng ta phát 
huy những điểm mạnh, khắc phục và hạn chế những điểm yếu đồng thời đưa ra 
được những yêu cầu đối với giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực. Một mặt 
pphải trực tiếp giải quyết vấn đề về chất lượng nguồn nhân lực, về trình độ văn 
hoá và trình độ chuyên môn kỹ thuật, mặt khác phải giải quyết vấn đề nâng cao 
thể lực người lao động và phân phối nguồn lao động một cách hợp lý. Trong 
trình tự giải quyết phải đi tuần tự từ tiếp tục xoá mù chữ, phổ cập tiểu học, 
trang bị những kiến thức cơ bản, đào tạo nghề từ sơ cấp đến các bậc cao hơn 
 23 
nhưng phải tạo ra một bộ phận người lao động có chất lượng cao, đặc biệt phải 
chú trọng đào tạo lao động kỹ thuật, nhằm đáp ứng nhu cầu của những ngành 
công nghệ mới, các khu công nghiệp và các khu kinh tế mở. 
Trước tiên , việc mở rộng quy mô giáo dục đào tạo là rất cần thiết. Nhưng 
cố gắng mở rộng quy mô giáo dục đào tạo của nước ta vẫn không theo kịp 
được tốc độ gia tăng dân số. Quy mô mọi ngành, bậc học hiện nay chưa đáp 
ứng được yêu cầu theo học của mọi lứa tuổi. Nhìn chung số học sinh và số 
trường lớp ở mọi ngành học từ mẫu giáo, các cấp phổ thông, trung học chuyên 
nghiệp, cao dẳng, đại học đều tăng. Các hệ thống trung tâm xúc tiến việc làm, 
các trung tâm kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp và nhiều cơ sở dạy nghề bán 
công, dân lập tư thục được thành lập. Quy mô đào tạo có chuyển biến là nhờ 
tăng cường hình thức đào tạo ngắn hạn. Riêng đối với quy mô của hệ thống đào 
tạo nghề này càng bị thu hẹp. Đảng và nhà nước cần có chính sách khuyến 
khích mở rộng và hỗ trợ cho các trường dạy nghề nhằm thu hút học sinh, sinh 
viên, khắc phục sự mất cân đối trong cơ cấu ngành học, bậc học của giáo dục 
đào tạo. Giáo dục mầm non có tầm quan trọng đặc biệt đứng từ gọc độ chuẩn bị 
nền tảng về thể lực và trí lực cho nguồn nhân lực. Giáo dục phổ thông , đặc biệt 
là giáo dục tiểu học theo kinh nghiệm của các nước đang phát triển, là một 
trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định các cơ hội và tăng trưởng kinh 
tế. Giáo dục đào tạo chuyên môn nghiệp vụ kỹ thuật ngoài ý nghĩa với tăng 
trưởng kinh tế còn đặc biệt quan trọng trong việc phát triển, giảm nguy cơ tụt 
hậu. Tuy nhiên những bất cập giữa những ngành đào tạo, giữa các bậc học đã 
gây khó kăn không ít cho sự phát triển của nền kinh tế. Một số ngành được học 
sinh, sinh viên theo học như một phong trào, một số ngành thì rất ít người theo 
học. Nế không có sự điều chỉnh kịp thời, Việt Nam sẽ nhanh chóng gặp phải 
khó khăn về đội ngũ kỹ sư, công nhân kỹ thuật như ở nhiều nước Asean, nhất 
là ở Thái Lan. 
 24 
Giáo dục và đào tạo ở thành phố, đồng bằng có điều kiện phát triển hơn ở 
nông thôn, vùng núi, vùng sâu vùng xa. Vì vậy, việc giáo dục đào tạo con 
người ở những vùng này rất khó khăn. Để nâng cao trình độ của nguồn nhân 
lực ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, Nhà nước đã có chính 
sách cấp học bổng, giảm học phí, ưu tiên các học sinh nghèo vượt khó. Từ đó 
giúp họ có điều kiện học tập, tìm kiếm việc làm nâng cao mức sống. Chính nhờ 
những chủ trương đúng đắn này mà những bất hợp lý trong cơ cấu vùng, miền 
của giáo dục đào tạo nguồn nhân lực được điều chỉnh phần nào. 
Yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng nguồn nhân lực là việc đổi 
mới mục tiêu, nội dung chương trình và phương pháp đào tạo. Việc hội b\nhập 
và cạnh tranh kinh tế đòi hỏi hàng hoá phải đạt tiêu chuẩn quốc tế để tăng khả 
năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, từ đó đòi hỏi phải có trình độ công 
nghệ cao và khả năng sử dụng tương ứng các công nghệ đó. Ngoài giáo dục 
đào tạo văn hoá chuyên môn, nghiệp vụ về mặt lý thuyết, cần chú ý điều kiện 
thực hành, ứng dụng, giáo dục kỷ luật, tác phong lao động công nghiệp, rèn 
luyện kỹ năng và khả năng thích ứ của nền kinh tế thị trường. Song song với 
vấn đề giáo dục, đào tạo con người, chúng ta phải quan tâm đến vấn đề dân số, 
sức khoẻ để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giảm sức ép đối với quy mô 
và chất lượng giáo dục, 
Trong điều kiện của VIệt Nam hiện nay, yêu cầu đa dạng hoá các loại hình 
đào tạo rất cần thiết để bổ xung, cải thiện hiện trạng nguồn nhân lực nhằm khắc 
phục những bất hợp lý về việc phân bổ nguồn lực, đồng thời nâng cao hiệu quả 
đầu tư cho giáo dục đào tạo để phục vụ nhu cầu phát triển. Trong lĩnh vực giáo 
dục hướng nghiệp, chúng ta cần phải kết hợp một cách khoa học giữa kế hoạch 
phát triển toàn diện với chính sử dụng sau đào tạo hợp lý để giảm lãng phí về 
chi phí giáo dục đào tạo của xã hội và của gia đình. Người lao động đào tạo ra 
được làm việc đúng ngành, đúng nghề đúng khả năng và sở trường của mình. 
 25 
Ngoài ra, giáo dục hướng nghiệp cũng đòi hỏi phải có công tác dự báo nghề để 
xác định được xu hướng phát triển và nhu cầu về lao động trong từng giai đoạn. 
Giáo dục đào tạo chính quy, dài hạn là cơ sở để hình thành nên bộ phận người 
lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao có kỹ năng tiếp cận với khoa 
học, công nghệ mới hiện đại. Ngoài ra cần mở rộng các loại hình đào tạo ngắn 
hạn để cải thiện hiện trạng nguồn nhân lực hiện nay và nhanh chóng nâng cao 
số lao động đã qua đào tạo của ta lên. Hình thức giáo dục tại chức và từ xa cần 
chú ý hơn đến chất lượng và hiệu quả của giáo dục. 
 KẾT LUẬN 
Trong bất kỳ một xã hội nào, một đất nước nào, vấn đề đào tạo nguồn 
nhân lực cũng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Nguồn nhân lực đó được 
đào tạo một cách có chất lượng tốt, nâng cao trình độ của nguồn nhân lực thì 
lực lượng sản xuất mới có thể phát triển mạnh được, trình độ lực lượng sản 
xuất mới có thể nâng cao hơn, bởi lẽ lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản 
xuất và con người. Con người là nguồn nhân lực, lực lượng sản xuất phản ánh 
mối quan hệ, sự tác động kích thích của con người vào tư liệu sản xuất, con 
người có được đào tạo, được trang bị thì mới có thể có trình độ để sử dụng tư 
liệu sản xuất một cách hiệu quả. Điều này càng quan trọng càng trở nên cấp 
thiết khi tư liệu sản xuất ở đây lại là máy móc, công nghệ khoa học kỹ thuật, tư 
liệu sản xuất này đòi hỏi phải có nguồn nhân lực có đầy đủ trình độ thì mới có 
thể thực hiện có hiệu quả được. Vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá quả thực 
 26 
là vấn đề không dễ thực hiện được vì thực hiện được vấn đề này có nghĩa là 
chuyển đổi từ lực lượng sản xuất thấp kém sang một lực lượng sản xuất có 
trình độ cao, hiện đại. Điều này càng trở nên khó khăn đối với những nước có 
nền kinh tế kém phát triển thậm chí cả với những nước đang phát triển, những 
nước có nền kinh tế cơ bản là nông nghiệp, có nguồn vốn ít ỏi và khoa học thấp 
kém. Nước ta là một nước đang phát triển và cũng đang thực hiện công nghiệp 
hoá, hiện đại hoá và những khó khăn kể ở trên nước ta đều có cả, song dựa vào 
đâu mà Đảng và nhà nước ta đã quyết định thực hiện chiến lược này. Điều đó 
đã được Đảng và nhà nước ta thông qua thực trạng nguồn nhân lực của nước ta 
thấy được những thuận lợi và lợi thế mà nước ta hoàn toàn có khả năng thực 
hiện được sự nghiệp này. Nước ta có dân số lớn, có nguồn lao động dồi dào đặc 
biệt là lực lượng lao động trẻ ở nhóm tuổi từ 14-35 nhóm có ưu thế về sức 
khoẻ, sức vươn lên, năng động và sáng tạo. Đường lối đổi mới của Đảng đã mở 
ra khả năng phát triển nền kinh tế, quản lý nhà nước về nguồn nhân lực ngày 
càng được quan tâm. Chúng ta có rất nhiều lợi thế khác, bên cạnh đó có hạn 
chế khó khăn và thách thức, song phân tích được thực trạng Đảng và nhà nước 
ta đã có giải pháp khắc phục giải quyết hợp lý đảm bảo sự nghiệp công nghiệp 
hoá, hiện đại hoá sẽ đi đến thắng lợi. Điều quan trọng nhất là chúng ta bởi lẽ 
chúng ta có truyền thống là dân tộc anh hùng, đoàn kết và có lòng yêu nước cao 
cả, sự thông minh vốn có chắc chắn chúng ta sẽ là một nước phát triển trong 
tương lai sẽ tạo ra được nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá - 
hiện đại hoá. 
 27 
TÀI LIỆU THAM KHẢO. 
1. Giáo trình kinh tế chính trị học. 
2. Văn kiện đại hội Đảng. 
3. Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế xã hội quá độ lên chủ nghĩa 
xã hội ở Việt Nam. 
4. Nghiên cứu nghị quyết của Đảng về vấn đề công nghiệp hoá , hiện đại 
hoá đất nước. 
5. Tạp chí Giáo dục số 11 ( 8/ 2001) 
6. Tạp chí Thông tin kinh tế số 5,7 –1999 ; số 6 – 2000 
7. Tạp chí Lao động & Xã hội số tháng 1/2001 
8. Các sách báo tạp chí. 
 28 

File đính kèm:

  • pdfde_tai_thuc_trang_va_giai_phap_de_nang_cao_hieu_qua_cua_dao.pdf