Đề xuất cải tiến thực tập Sư phạm ngoại ngữ nhìn từ góc độ chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm tiếng Anh

Tóm tắt: Thực tập sư phạm là một cấu phần quan trọng trong chương trình đào tạo cử nhân sư phạm

ngoại ngữ, giúp người giáo viên tương lai có thể học tập và phát triển năng lực sư phạm từ môi trường thực tế. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích chương trình đào tạo cử nhân sư phạm ngoại ngữ của 9 cơ sở giáo dục đào tạo tại Việt Nam, từ đó đưa ra các đề xuất cải tiến chương trình thực tập sư phạm ngoại ngữ nói chung và thực tập sư phạm tiếng Anh nói riêng của Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHNN - ĐHQGHN).

pdf 11 trang yennguyen 8000
Bạn đang xem tài liệu "Đề xuất cải tiến thực tập Sư phạm ngoại ngữ nhìn từ góc độ chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm tiếng Anh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề xuất cải tiến thực tập Sư phạm ngoại ngữ nhìn từ góc độ chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm tiếng Anh

Đề xuất cải tiến thực tập Sư phạm ngoại ngữ nhìn từ góc độ chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm tiếng Anh
TRAO ĐỔI
ĐỀ XUẤT CẢI TIẾN THỰC TẬP SƯ PHẠM NGOẠI NGỮ 
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO 
CỬ NHÂN SƯ PHẠM TIẾNG ANH
Hà Lê Kim Anh*
Phòng Đào tạo, Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN, 
Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận bài ngày 09 tháng 11 năm 2018 
Chỉnh sửa ngày 20 tháng 3 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 22 tháng 3 năm 2019
Tóm tắt: Thực tập sư phạm là một cấu phần quan trọng trong chương trình đào tạo cử nhân sư phạm 
ngoại ngữ, giúp người giáo viên tương lai có thể học tập và phát triển năng lực sư phạm từ môi trường thực 
tế. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích chương trình đào tạo cử nhân sư phạm ngoại 
ngữ của 9 cơ sở giáo dục đào tạo tại Việt Nam, từ đó đưa ra các đề xuất cải tiến chương trình thực tập sư 
phạm ngoại ngữ nói chung và thực tập sư phạm tiếng Anh nói riêng của Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại 
học Quốc gia Hà Nội (ĐHNN - ĐHQGHN).**
Từ khóa: chương trình đào tạo, sư phạm ngoại ngữ, thực tập
1. Đặt vấn đề1
Đào tạo giáo viên là đào tạo ngành nghề 
đặc biệt. Các sinh viên chương trình cử nhân 
sư phạm ngoại ngữ, bên cạnh những nhóm 
năng lực tổng quát và năng lực chuyên môn 
cần thiết đối với một giáo viên, thì còn đòi 
hỏi phải tham gia thực hành, thực tập giảng 
dạy với thời lượng đủ lớn để có thể tích lũy 
kinh nghiệm và bắt nhịp được với công việc 
giảng dạy sau khi tốt nghiệp. Yêu cầu cơ bản 
về năng lực giáo viên tiếng Anh phổ thông do 
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành năm 2014 
nêu rõ 5 lĩnh vực năng lực của người giáo viên 
tiếng Anh phổ thông, đó là: (1) Kiến thức về 
môn học và chương trình; (2) Kiến thức về 
dạy học tiếng Anh; (3) Kiến thức về học sinh; 
(4) Giá trị và thái độ nghề nghiệp; (5) Kết 
* ĐT.: 84-912440608
 Email: kimanhoi@yahoo.com
** Nghiên cứu này được hoàn thành với sự tài trợ của 
Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà 
Nội trong đề tài mã số N.16.18
nối và rút kinh nghiệm về dạy học tiếng Anh. 
Người giáo viên tương lai cần được trang bị 
đầy đủ 5 nhóm năng lực trên, trong đó, năng 
lực thứ 5 là Kết nối và rút kinh nghiệm về 
dạy học tiếng Anh sẽ được thực hiện chủ yếu 
thông qua các hoạt động kiến tập, thực hành 
và thực tập giảng dạy. Nguyễn Thị Thu Hằng 
(2009) khẳng định “Thực tập sư phạm là hoạt 
động giúp sinh viên làm quen với nghề sư 
phạm. Thông qua thực tập sư phạm, các nội 
dung chuyên môn, nghiệp vụ mà sinh viên đã 
tiếp thu được đem thử nghiệm vào thực tiễn 
giảng dạy và giáo dục”.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sử 
dụng phương pháp nghiên cứu khảo sát thực 
trạng và phân tích tổng hợp. Cơ sở dữ liệu của 
nghiên cứu là chương trình đào tạo cử nhân sư 
phạm ngoại ngữ của 9 cơ sở giáo dục đào tạo 
tại Việt Nam, tập trung vào những nội dung 
liên quan đến thực hành thực tập của sinh viên 
cử nhân sư phạm ngoại ngữ. Việc lựa chọn 
chương trình đào tạo của 9 cơ sở giáo dục đào 
tạo làm đối tượng nghiên cứu căn cứ trên chỉ 
117Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 116-126
tiêu và quy mô tuyển sinh của các đơn vị công 
bố trên Cổng thông tin tuyển sinh của Bộ Giáo 
dục và Đào tạo năm 2017. Căn cứ trên kết quả 
phân tích các chương trình đào tạo cử nhân sư 
phạm ngoại ngữ hiện hành, chúng tôi muốn 
đưa ra một số đề xuất nhằm cải tiến chương 
trình thực tập sư phạm ngoại ngữ tại ĐHNN 
- ĐHQGHN.
2. Phân tích chương trình đào tạo cử nhân 
sư phạm tiếng Anh của một số cơ sở giáo 
dục đào tạo
2.1. Giới thiệu chung
Căn cứ theo Đề án tuyển sinh công bố 
trên Cổng thông tin tuyển sinh năm 2017 
của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cả nước hiện có 
63 đơn vị đào tạo các ngành Sư phạm ngoại 
ngữ, trong đó có 26 trường đại học và 37 
trường cao đẳng. Trong số các cơ sở này, có 3 
trường đào tạo chuyên ngoại ngữ là ĐHNN - 
ĐHQGHN, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại 
học Huế, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại 
học Đà Nẵng, một số đơn vị đã đào tạo ngành 
Sư phạm tiếng Anh lâu năm như Trường Đại 
học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Trường 
Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Sư 
phạm - Đại học Thái Nguyên, Trường Đại học 
Vinh. Bên cạnh đó, còn có một số đơn vị có 
quy mô đào tạo các ngành Sư phạm ngoại ngữ 
khá lớn, ví dụ quy mô sinh viên sư phạm ngoại 
ngữ năm học 2016-2017 của Trường Đại học 
Thái Nguyên là 516 sinh viên, Trường Đại 
học Sư phạm Hà Nội là 494 sinh viên, Trường 
Đại học Đồng Nai là 485 sinh viên. 
Cũng theo số liệu công bố trên Cổng thông 
tin tuyển sinh đại học chính quy năm 2017 của 
Bộ Giáo dục và Đào tạo, tổng chỉ tiêu tuyển 
sinh bậc đại học các ngành Sư phạm ngoại 
ngữ năm 2017 là 2392 người, trong đó ngành 
Sư phạm tiếng Anh là 1.891 người, chiếm 
79%, các ngành Sư phạm ngoại ngữ ngoài 
tiếng Anh là 501 người, chiếm 21%.
Hình 1. Tổng chỉ tiêu tuyển sinh đại học các ngành Sư phạm ngoại ngữ năm 20171
1 Số liệu tổng hợp từ nguồn Đề án tuyển sinh đại học năm 2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo: www//http: thituyensinh.vn
118 H.L.K. Anh / Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 116-126
Thống kê chỉ tiêu các ngành Sư phạm 
ngoại ngữ tại 26 trường đại học cho thấy: 
- Tất cả 26 trường đều đào tạo ngành Sư 
phạm tiếng Anh;
- Có 19 trường chỉ đào tạo ngành Sư phạm 
tiếng Anh; 
- 2 trường tuyển Sư phạm tiếng Anh và Sư 
phạm tiếng Pháp là Trường Đại học Sư phạm 
Hà Nội và Đại học Cần Thơ; 
- 2 trường tuyển Sư phạm tiếng Anh, Sư 
phạm tiếng Pháp và Sư phạm tiếng Trung là 
Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Huế và 
Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng; 
- 1 đơn vị tuyển Sư phạm tiếng Anh, Sư 
phạm tiếng Pháp và Sư phạm tiếng Trung là 
Khoa Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên;
- 1 đơn vị là ĐHNN - ĐHQGHN đào tạo 
7 ngành Sư phạm ngoại ngữ gồm Sư phạm 
tiếng Anh, Sư phạm tiếng Nga, Sư phạm tiếng 
Pháp, Sư phạm tiếng Trung, Sư phạm tiếng 
Nhật, Sư phạm tiếng Đức và Sư phạm tiếng 
Hàn Quốc. 
Hình 2. Chỉ tiêu tuyển sinh đại học các ngành SPNN năm 2017 tại 26 cơ sở đào tạo2
2.2. Phân tích các chương trình đào tạo1
Chúng tôi tiến hành phân tích sơ bộ về các 
học phần liên quan đến thực tập, thực tế, phát 
triển năng lực nghề nghiệp trong chương trình 
đào tạo ngành Sư phạm tiếng Anh của 9 cơ sở 
giáo dục đào tạo, gồm:
1. Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại 
học Huế
2. Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học 
Đà Nẵng
2 Số liệu tổng hợp từ nguồn Đề án tuyển sinh đại học 
năm 2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo: www//http: 
thituyensinh.vn
3. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
4. Trường Đại học Sư phạm Thành phố 
Hồ Chí Minh
5. Trường Đại học Sư phạm - Đại học 
Thái Nguyên
6. Đại học Vinh
7. Trường Đại học Đồng Tháp
8. Đại học Cần Thơ
9. Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học 
Quốc gia Hà Nội (ĐHNN - ĐHQGHN)
Tổng số tín chỉ toàn bộ chương trình đào 
tạo cử nhân Sư phạm tiếng Anh và sự phân bổ 
các học phần liên quan đến thực tập, thực tế 
được thể hiện trong bảng dưới đây:
119Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 116-126
STT Tên trường
Tổng 
số TC 
CTĐT
Các học phần liên quan đến thực hành thực tập
STT Tên học phần Số TC
1
Trường Đại 
học Sư phạm 
Tp. Hồ Chí 
Minh
135
1 Nhập môn nghề giáo 1
2 Các hoạt động giáo dục ở trường phổ thông 2
3 Giao tiếp sư phạm 2
4 Giảng tập tiếng Anh 3
5 Rèn luyện kỹ năng thực tập thường xuyên 2
6 Thực tập sư phạm 1 2
7 Thực tập sư phạm 2 6
Tổng 18
2
Trường Đại 
học Sư phạm 
Hà Nội
1 Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm 1
2 Thực tập sư phạm 1 2
3 Tham quan thực tế 1
4 Thực tập sư phạm tiếng Anh (TA) 1 2
5 Thực tập sư phạm 2 4
Tổng 10
3
Trường Đại 
học Ngoại 
ngữ - Đại học 
Huế
141
1 Kiến tập và thực tập sư phạm 5
Tổng 5
4
Trường Đại 
học Ngoại ngữ 
- Đại học Đà 
Nẵng
148
1 Phát triển nghiệp vụ sư phạm (Tự chọn) 2
2 Thực tập sư phạm 5
Tổng 7
5
Trường Đại 
học Sư phạm 
- Đại học Thái 
Nguyên
130
1 Giao tiếp sư phạm 2
2 Thực hành sư phạm tiếng Anh (TA) 1 2
3 Thực hành sư phạm TA 2 2
4 Thực hành sư phạm TA 3 2
5 Thực tập sư phạm 1 2
6 Thực tập sư phạm 2 3
Tổng 13
6 Đại học Vinh 125
1 Nhập môn ngành sư phạm 2
2 Kiến tập sư phạm 1
3 Kỹ thuật và thực hành giảng dạy TA 5
4 Thực tập sư phạm 5
Tổng 13
7
Đại học Cần 
Thơ
140
1
Hoạt động giáo dục trong nhà trường phổ 
thông
2
2 Kiến tập sư phạm tiếng Anh 2
3 Thực tập sư phạm tiếng Anh 3
Tổng 7
120 H.L.K. Anh / Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 116-126
8
Đại học Đồng 
Tháp
1
Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên 
1-5
5
2 Kiến tập sư phạm tập trung 5
3 Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên 6 1
4 Thực tập sư phạm 4
Tổng 15
9
ĐHNN - 
ĐHQGHN
136 1
Thực tập 3
Tổng 3
Căn cứ vào sự phân bổ các học phần trong 
chương trình đào tạo của 9 cơ sở đào tạo trên, 
có thể nhận thấy một số điểm nổi bật sau đây:
2.2.1. Số lượng học phần và tổng số tín chỉ 
các học phần liên quan đến thực hành, thực 
tập của các trường tương đối khác nhau
Bảng trên cho thấy, số lượng học phần 
và tổng số tín chỉ các học phần liên quan đến 
thực hành, thực tập trong chương trình đào 
tạo ngành Sư phạm tiếng Anh của 9 trường 
không đồng đều. Trong đó, một số trường có 
số học phần và số tín chỉ về nghề nghiệp và 
thực tập sư phạm khá cao như Trường Đại 
học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh: 18 
tín chỉ, Trường Đại học Đồng Tháp: 15 tín 
chỉ, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái 
Nguyên và Trường Đại học Vinh: 13 tín chỉ, 
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội: 10 tín chỉ. 
Các trường có số học phần và số tín chỉ liên 
quan thấp là 3 trường chuyên ngoại ngữ, trong 
đó, ĐHNN - ĐHQGHN thấp nhất, chỉ có một 
học phần Thực tập 3 tín chỉ; Trường Đại học 
Ngoại ngữ - Đại học Huế và Trường Đại học 
Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng có học phần 
thực tập sư phạm gồm 5 tín chỉ. Bên cạnh đó, 
Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng 
có thêm một học phần là Phát triển nghiệp vụ 
sư phạm. Tuy nhiên, đây là học phần tự chọn.
2.2.2. Thực tập được chia thành nhiều học 
phần riêng biệt
Các học phần chuyên về kiến tập, thực tập 
được đa số các cơ sở giáo dục đào tạo thiết 
kế với số lượng tín chỉ phù hợp, tách thành 
các học phần khác nhau. Ví dụ, Trường Đại 
học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh chia 
thực tập sư phạm thành 2 học phần với tổng 
số tín chỉ là 8; Trường Đại học Sư phạm Hà 
Nội có 4 học phần về thực tập với tổng số 9 tín 
chỉ, trong đó, còn có 1 học phần riêng về thực 
tập Sư phạm tiếng Anh; Trường Đại học Sư 
phạm – Đại học Thái Nguyên có 5 học phần 
với tổng số 11 tín chỉ, trong đó, có 3 học phần 
Thực hành sư phạm tiếng Anh và 2 học phần 
thực tập sư phạm; Trường Đại học Vinh có 
học phần Kiến tập sư phạm 1 tín chỉ và Thực 
tập sư phạm 5 tín chỉ; Trường Đại học Cần 
Thơ cũng chia 2 học phần với tổng số 5 tín 
chỉ là Kiến tập sư phạm tiếng Anh (2 tín chỉ) 
và Thực tập sư phạm tiếng Anh (3 tín chỉ); 
Trường Đại học Đồng Tháp chia thành 2 học 
phần với tổng số 9 tín chỉ là Kiến tập sư phạm 
tập trung (5 tín chỉ) và Thực tập sư phạm (4 
tín chỉ).
2.2.3. Chương trình đào tạo thiết kế một 
số học phần bổ sung cho thực tập
Bên cạnh các học phần Kiến tập, Thực tập, 
nhiều trường thiết kế các học phần bổ sung để 
người học hiểu biết về nghề nghiệp và thực tế 
giáo dục phổ thông, cụ thể gồm: (1) Các học 
phần để định hướng nghề nghiệp như Nhập 
môn nghề giáo của Trường Đại học Sư phạm 
thành phố Hồ Chí Minh, Nhập môn ngành sư 
phạm của Trường Đại học Vinh); (2) Các học 
phần giúp người học làm quen với môi trường 
giáo dục phổ thông như Các hoạt động giáo 
dục của trường phổ thông của Trường Đại 
học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Hoạt 
động giáo dục trong nhà trường phổ thông của 
Trường Đại học Cần Thơ, Tham quan thực tế 
của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; (3) Các 
học phần rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường 
121Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 116-126
xuyên như Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm 
thường xuyên của Trường Đại học Sư phạm 
thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Sư 
phạm Hà Nội, Trường Đại học Đồng Tháp. 
Có thể thấy, bên cạnh những học phần phát 
triển năng lực nghề nghiệp cho giáo viên như 
Lý luận giảng dạy, Phương pháp giảng dạy, 
Kiểm tra đánh giá, thì nhóm các học phần liên 
quan đến thực tập, thực tế cũng được các cơ sở 
giáo dục đào tạo quan tâm xây dựng và triển 
khai. Tại nhiều cơ sở đào tạo, những học phần 
này không những được thiết kế với lượng tín 
chỉ chiếm tỉ trọng phù hợp trong chương trình 
đào tạo, mà còn thiết kế các học phần ‘vệ tinh’ 
bên cạnh học phần Kiến tập, Thực tập, giúp 
người học có những hiểu biết và định hướng 
đúng đắn về nghề nghiệp, làm quen với thực tế 
môi trường giáo dục phổ thông ngay từ những 
năm đầu tiên, có những trải nghiệm hoạt động 
dạy học và cọ xát liên tục để phát triển năng 
lực nghiệp vụ sư phạm.
Những phân tích về các học phần kiến tập, 
thực tập trong chương trình đào tạo ngành Sư 
phạm tiếng Anh của 9 cơ sở giáo dục đào tạo 
trên đây cho thấy chương trình đào tạo ngành 
Sư phạm tiếng Anh của ĐHNN - ĐHQGHN 
có số học phần và số tín chỉ liên quan đến 
thực tập thấp nhất, chỉ có một học phần Thực 
tập 3 tín chỉ. Điều này phần nào chứng minh 
những phân tích và đánh giá sơ bộ của chúng 
tôi tại phần 2.
3. Phân tích chương trình đào tạo cử nhân 
Sư phạm tiếng Anh của ĐHNN - ĐHQGHN
3.1. Mục tiêu đào tạo và phân bổ giữa các 
khối kiến thức
Cũng giống như đa số các chương trình 
đào tạo cử nhân sư phạm ngoại ngữ của các 
cơ sở đào tạo tại Việt Nam, chương trình đào 
tạo cử nhân Sư phạm tiếng Anh hiện nay của 
ĐHNN - ĐHQGHN tập trung phát triển các 
nhóm năng lực: (1) nhóm năng lực chung 
mang tính chất nền tảng tổng quát; (2) năng 
lực thực hành tiếng; (3) năng lực về kiến thức 
ngôn ngữ, văn hóa; (4) năng lực về nghiệp vụ 
sư phạm và phương pháp giảng dạy.
Chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm 
tiếng Anh tại ĐHNN - ĐHQGHN được thiết 
kế theo chuẩn đầu ra, gồm 136 tín chỉ, chia 
thành 5 khối kiến thức.
Khối kiến thức chung gồm 27 tín chỉ được 
giảng dạy chung trong ĐHQGHN, gồm các 
học phần về Lý luận chính trị, Tư tưởng Hồ 
Chí Minh, Ngoại ngữ 2, Tin học cơ sở, Kỹ 
năng bổ trợ, giúp người học hình thành các 
năng lực chung mang tính chất nền tảng tổng 
quát.
Khối kiến thức theo lĩnh vực được thiết 
kế gồm 15 tín chỉ với 5 học phần, sinh viên 
lựa chọn 2 học phần tương đương 6 tín chỉ. 
Ngoài học phần Địa lý đại cương, Môi trường 
và phát triển do khoa phụ trách giảng dạy, 
các học phần còn lại được tổ chức giảng dạy 
chung trong toàn trường, sinh viên cũng có 
thể tích lũy các môn học này tại các trường 
thành viên trong ĐHQGHN. 
Khối kiến thức theo khối ngành được thiết 
kế gồm 8 tín chỉ với 3 học phần, trong đó có 
2 học phần bắt buộc và 1 học phần tự chọn. 
Nhóm các học phần tự chọn được thiết kế 
gồm 14 tín chỉ với 7 học phần. Các học phần 
trong khối kiến thức này được tổ chức giảng 
dạy chung trong toàn trường với hình thức lớp 
học phần. Trong đó, học phần Phương pháp 
luận nghiên cứu khoa học và Tư duy phê phán 
được tổ chức giảng dạy bằng tiếng Anh. 
Các học phần trong khối kiến thức theo lĩnh 
vực và khối kiến thức ngành giúp người học 
hình thành những năng lực nền tảng liên quan 
đến ngành đào tạo, cung cấp kiến thức về văn 
hóa Việt Nam, lý luận ngôn ngữ học, phương 
pháp nghiên cứu khoa học, tư duy phản biệ ... 
 (2) Thực tập cá nhân tại cơ sở do sinh 
viên tự liên hệ: Nhà trường cũng có những 
quy định linh hoạt cho phép người học có 
thể tự liên hệ một cơ sở thực tập và thực hiện 
việc thực tập một cách độc lập tại cơ sở tiếp 
nhận. Quy định này còn linh hoạt cả về thời 
gian thực tập, người học không nhất thiết phải 
chờ đến học kỳ cuối cùng mà ngay sau khi kết 
thúc năm thứ 3, tức là người học đã tích lũy 
được những học phần cơ bản nhất trong khối 
kiến thức ngành, là có thể tự liên hệ để triển 
khai học phần thực tập của mình. Người học 
vẫn phải đảm bảo thực hiện các nội dung theo 
đúng quy định trong Quy chế thực tập, lập kế 
hoạch, viết nhật ký và báo cáo thực tập đầy 
đủ. Nhà trường cử giảng viên hướng dẫn để tư 
vấn, hỗ trợ sinh viên khi cần thiết.
3.3. Đánh giá sơ bộ
Trên cơ sở những phân tích trên đây, có 
thể nhận thấy, học phần thực tập và việc triển 
khai học phần này có một số điểm chưa hợp 
lý, cụ thể là: 
123Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 116-126
Học phần thực tập chiếm tỉ lệ tín chỉ thấp
Tổng số tín chỉ toàn khóa học là 136, trong 
đó chỉ có 3 tín chỉ cho học phần thực tập, 
chiếm tỉ lệ 2,2%. Tỉ lệ này là rất thấp. Tuy một 
số hoạt động về tập giảng có thể được giảng 
viên đan xen trong các học phần như Phương 
pháp giảng dạy tiếng Anh, Thiết kế giáo án 
và phát triển tài liệu, nhưng nhìn chung, với 
số tín chỉ thực tập thấp như vậy, rất khó triển 
khai các hoạt động mang tính đồng bộ xuyên 
suốt trong toàn khóa học để giúp người học 
hình thành và phát triển năng lực thực hành 
sư phạm.
Thời gian thực tập chưa hợp lý
Như phân tích phía trên, học phần thực 
tập sư phạm trong chương trình hiện hành chỉ 
tập trung vào năm cuối, khi sinh viên đã hoàn 
thành các học phần cốt lõi trong khối kiến thức 
ngành sư phạm ngoại ngữ. Tổng thời gian thực 
tập là 6 tuần, tương đương 30 ngày làm việc. 
Sinh viên tự liên hệ thực tập có thể tiến hành 
thực tập vào học kỳ 1 năm thứ tư. Sinh viên 
thực tập theo đoàn sẽ được bố trí thực tập đầu 
học kỳ 2 năm thứ tư. Trong thời gian này, sinh 
viên phải cùng lúc thực hiện nhiều nhiệm vụ 
như làm quen với môi trường dạy học và các 
hoạt động của trường phổ thông, học về công 
tác chủ nhiệm, dự giờ, thực hiện các nhiệm vụ 
hỗ trợ giáo viên trên lớp học, tham gia tổ chức 
các hoạt động cho học sinh, soạn giáo án, thực 
hành giảng dạy trên lớp, viết nhật ký thực tập, 
viết báo cáo thực tập... 
Như vậy, có thể thấy các nội dung yêu cầu 
về thực tập khá đa dạng, đòi hỏi người giáo 
sinh phải có những kỹ năng xử lý công việc 
tốt mới có thể cùng lúc làm quen, học hỏi và 
hoàn thành các nội dung thực tập trên. Việc bố 
trí toàn bộ nội dung thực tập trong một đợt vào 
năm cuối là chưa thực sự hợp lý.
Nội dung chương trình thực tập chưa 
đồng bộ và xuyên suốt
Thực tập là quá trình người học làm quen, 
học hỏi, thực hành các hoạt động nghề nghiệp 
trước khi chính thức tham gia công việc. Việc 
thực tập được triển khai với sự tham gia của 
3 bên là người học, giảng viên hướng dẫn tại 
trường đại học và giáo viên hướng dẫn tại cơ 
sở tiếp nhận thực tập. Các hoạt động phát triển 
năng lực nghề nghiệp, năng lực giảng dạy cho 
sinh viên cần được tổ chức đồng bộ và nên bắt 
đầu từ những năm đầu tiên. Do đó, cần xây 
dựng một chương trình xuyên suốt và đồng 
bộ từ năm thứ nhất để giúp người học hình 
thành và phát triển năng lực giảng dạy. Những 
nội dung của chương trình này gồm có định 
hướng nghề nghiệp từ năm thứ nhất, tổ chức 
cho sinh viên được quan sát thực tế, sau đó là 
kiến tập, và cuối cùng mới là thực tập. Như 
vậy, người học sẽ có một quá trình tích lũy 
lâu dài, hình thành những hiểu biết thực tiễn 
về môi trường giáo dục phổ thông. Điều này 
sẽ giúp họ hòa nhập và bắt nhịp với công việc 
nhanh hơn, thuận lợi hơn, đồng thời đáp ứng 
tốt hơn yêu cầu của công việc.
4. Đề xuất cải tiến về thực tập sư phạm tại 
ĐHNN - ĐHQGHN
4.1. Bổ sung học phần Kiến tập
Bên cạnh học phần thực tập với 3 tín chỉ 
như hiện nay, để tăng thời lượng thực hành 
thực tập cho người học, tạo cơ hội cho người 
học làm quen với môi trường phổ thông ngay 
từ những năm đầu tiên, chương trình đào tạo 
cử nhân Sư phạm tiếng Anh cần bổ sung thêm 
ít nhất một học phần Kiến tập 3 tín chỉ. Học 
phần Kiến tập có mục tiêu giúp người học làm 
quen với môi trường dạy học và các hoạt động 
của trường phổ thông, nắm bắt các hoạt động 
liên quan đến công tác giảng dạy tiếng Anh 
của người giáo viên, có khả năng vận dụng 
những kiến thức đã học để bước đầu phân tích, 
đánh giá các hoạt động dạy học. Với mục tiêu 
như vậy, các hoạt động chính của học phần 
Kiến tập gồm:
- Hướng dẫn của giảng viên đại học trước 
khi sinh viên tham gia kiến tập tại trường phổ 
thông. Nội dung hướng dẫn tập trung vào việc 
giới thiệu về cơ sở tiếp nhận kiến tập, mục 
tiêu và nội dung chương trình kiến tập, các 
yêu cầu năng lực sinh viên cần đạt cũng như 
124 H.L.K. Anh / Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 116-126
các loại báo cáo cần nộp sau khi kết thúc thời 
gian kiến tập.
- Kiến tập tại trường phổ thông: Gồm các 
hoạt động như quan sát, dự giờ môn tiếng 
Anh, tham gia tổ chức các hoạt động ngoại 
khóa cho học sinh, làm quen và hỗ trợ công 
tác giáo viên chủ nhiệm. Sinh viên cần lập kế 
hoạch kiến tập, viết nhật ký kiến tập, ghi chép 
để tổng hợp thành báo cáo kiến tập. 
- Đánh giá kết quả kiến tập: Giảng viên 
phụ trách học phần Kiến tập sẽ chấm và nhận 
xét các báo cáo Kiến tập, tổ chức 2-3 buổi 
đánh giá kết quả của đợt kiến tập để sinh viên 
có những trao đổi, thảo luận, chia sẻ kinh 
nghiệm trong thời gian đi kiến tập.
Với những nội dung nêu trên, học phần 
Kiến tập gồm 3 tín chỉ có thể tổ chức với thời 
lượng được phân bổ gồm 1 buổi hướng dẫn 
3-4 giờ + thời gian kiến tập tại trường phổ 
thông từ 2-3 tuần + đánh giá kết quả kiến tập 
2-3 buổi khoảng 6-8 giờ.
4.2. Bổ sung một số học phần hỗ trợ định 
hướng nghề nghiệp
Bên cạnh các học phần Kiến tập, Thực 
tập, những nhà thiết kế chương trình nên bổ 
sung một số học phần để định hướng đạo đức 
nghề nghiệp, giới thiệu chuẩn năng lực giáo 
viên ngoại ngữ, hỗ trợ người học hình thành 
năng lực tự học, năng lực phát triển bản thân 
và phát triển chuyên môn. Ngoài ra, cũng có 
thể thiết kế các học phần giới thiệu về hoạt 
động của trường phổ thông (tìm hiểu điều lệ 
trường phổ thông, các văn bản quy định liên 
quan, hệ thống giáo dục phổ thông, chương 
trình giảng dạy, công tác chủ nhiệm, công tác 
Đoàn-Hội, nhiệm vụ của giáo viên...), hoặc 
hoạt động của các trường đại học cao đẳng 
và nhiệm vụ của giảng viên đại học, chuẩn 
năng lực giảng viên (vì có những sinh viên 
tốt nghiệp sẽ giảng dạy tại các trường đại học, 
cao đẳng), hoặc học phần về phát triển kỹ 
năng giao tiếp sư phạm (giao tiếp với đồng 
nghiệp, với học sinh, phụ huynh, kỹ năng xử 
lý các tình huống sư phạm...).
Những học phần này sẽ giúp người học 
hình thành và phát triển các năng lực ‘vệ tinh’, 
hỗ trợ cho việc phát triển năng lực nghề nghiệp 
tổng thể, giúp người học sẵn sàng tham gia 
công tác giảng dạy ngay sau khi tốt nghiệp.
Trong trường hợp do giới hạn của tổng số 
tín chỉ toàn chương trình đào tạo không cho 
phép thiết kế nhiều học phần, những nội dung 
này có thể được tổ chức theo hình thức chuyên 
đề đan xen trong quá trình đào tạo.
4.3. Xây dựng chương trình xuyên suốt và 
đồng bộ
Để phát triển nhóm năng lực chuyên 
ngành sư phạm cho người học, những người 
xây dựng chương trình đào tạo cần thiết kế các 
học phần đảm bảo tính đồng bộ và xuyên suốt. 
Tính đồng bộ thể hiện ở chỗ mỗi học phần đưa 
vào chương trình đào tạo sẽ đóng góp một vai 
trò nhất định để giúp người học hình thành 
và phát triển một năng lực được mô tả trong 
chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo. Từ đó, 
các học phần thuộc nhóm phát triển năng lực 
chuyên ngành sư phạm sẽ đảm bảo người học 
đạt được những năng lực cần thiết về nghiệp 
vụ sư phạm. Tính xuyên suốt thể hiện ở việc 
các học phần trong nhóm này sẽ được tổ chức 
đào tạo trải đều trong cả khóa học, giúp người 
học định hình về nghề nghiệp, làm quen môi 
trường phổ thông ngay từ năm đầu tiên, có sự 
tiếp xúc và cọ xát thường xuyên với công tác 
giảng dạy tại trường phổ thông, chuẩn bị tốt 
cho bước thực tập giảng dạy vào năm cuối. 
Việc thiết kế không chỉ dừng lại ở khâu lựa 
chọn đưa học phần nào vào trong chương 
trình đào tạo, mà còn phải tính đến mục tiêu, 
nội dung và các hoạt động giáo dục kèm theo.
Có thể gợi ý một số học phần và hoạt động 
như sau:
- Định hướng nghề nghiệp: sau khi sinh 
viên nhập học;
- Học các học phần như đạo đức nghề giáo 
viên, các hoạt động của trường phổ thông, kỹ 
năng giao tiếp sư phạm;
- Tham quan và tìm hiểu về trường phổ 
thông: trong học kỳ đầu tiên và học kỳ thứ hai;
- Kiến tập: Trong học kỳ thứ ba hoặc học 
kỳ thứ tư;
125Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 116-126
- Hỗ trợ hoạt động tại trường phổ thông: 
Tất cả các học kỳ;
- Thực tập: học kỳ 7 hoặc học kỳ 8.
4.4. Thiết lập mối quan hệ hợp tác bền vững 
với các cơ sở tiếp nhận thực tập 
Hiện nay, một yêu cầu thực tế đang được 
đặt ra đối với các cơ sở giáo dục đào tạo là 
vấn đề tăng cường kết nối với nhà tuyển dụng. 
Mục đích của việc kết nối này là để tìm hiểu, 
nắm bắt nhu cầu của nhà tuyển dụng về kế 
hoạch tuyển dụng ngắn hạn, trung hạn và dài 
hạn, về các yêu cầu của nhà tuyển dụng đối 
với năng lực của ứng viên, sự tham gia của 
nhà tuyển dụng vào quá trình đào tạo v..v. Là 
một ngành mang tính chất đặc thù, đào tạo cử 
nhân sư phạm nói chung và đào tạo cử nhân 
sư phạm ngoại ngữ hiện nay chịu sự chi phối 
của các chính sách và chiến lược giáo dục vĩ 
mô của Chính phủ và chiến lược phát triển của 
từng địa phương. Chính vì vậy, bên cạnh việc 
thực hiện các nhiệm vụ đào tạo phù hợp với 
chiến lược giáo dục vĩ mô, cũng rất cần có sự 
kết nối thường xuyên giữa cơ sở đào tạo với 
chính quyền và sở giáo dục - đào tạo các địa 
phương cũng như các trường phổ thông. Sự 
kết nối nên mang tính tương tác hai chiều: một 
mặt giúp các cơ sở đào tạo nắm bắt nhu cầu 
nguồn nhân lực của địa phương, vùng miền và 
cả nước, một mặt các trường đại học cũng cần 
thể hiện vai trò tư vấn định hướng phát triển 
ngành nghề cho các địa phương. 
Việc tạo sự kết nối thường xuyên và bền 
vững giữa các cơ sở giáo dục đào tạo sư phạm 
nói chung và sư phạm ngoại ngữ nói riêng với 
các trường phổ thông hoặc các trường đại học, 
cao đẳng tại địa phương có nhu cầu tiếp nhận 
sinh viên thực tập là điều cần thiết. Các cơ sở 
tiếp nhận thực tập sẽ là điểm đến thường xuyên 
cho các hoạt động tham quan, kiến tập, thực tập 
của sinh viên ngành sư phạm ngoại ngữ trong cả 
khóa học. Sinh viên ngành sư phạm ngoại ngữ 
sẽ được nhúng trong môi trường giáo dục thực 
tiễn, cọ xát các hoạt động giáo dục, từ đó phát 
triển các năng lực sư phạm, sẵn sàng tham gia 
công tác giảng dạy ngay sau khi tốt nghiệp. Bên 
cạnh đó, sinh viên thực tập cũng hỗ trợ cho công 
tác giảng dạy và các hoạt động ở trường phổ 
thông. Việc kết nối giữa cơ sở đào tạo sư phạm 
ngoại ngữ với đơn vị tiếp nhận thực tập có thể 
thể hiện thông qua việc ký kết văn bản hợp tác. 
Trong đó cơ sở giáo dục đào tạo cam kết hỗ trợ 
cơ sở tiếp nhận thực tập trong việc cử các giảng 
viên, chuyên gia phối hợp tổ chức tọa đàm, hội 
thảo tập huấn phát triển chuyên môn cho giáo 
viên ngoại ngữ của cơ sở tiếp nhận thực tập, 
cam kết giới thiệu những sinh viên ưu tú khi cơ 
sở tiếp nhận thực tập cần tuyển dụng giáo viên. 
Cơ sở tiếp nhận thực tập cam kết tiếp nhận thực 
tập sinh thường xuyên, định kỳ, tạo điều kiện 
để thực tập sinh và giảng viên hướng dẫn triển 
khai các hoạt động theo chương trình thực tập đã 
quy định. Ngoài ra, trường đại học cũng có thể 
mời giáo viên phổ thông tham gia giảng dạy một 
số nội dung về thực tế hoạt động tại trường phổ 
thông, kỹ năng ứng xử sư phạm
5. Kết luận
Thực tập sư phạm là một cấu phần quan 
trọng trong chương trình đào tạo cử nhân sư 
phạm ngoại ngữ, giúp người giáo viên tương 
lai có thể học tập và phát triển năng lực sư 
phạm từ môi trường thực tế. Trên cơ sở phân 
tích chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm 
tiếng Anh của ĐHNN - ĐHQGHN và một 
số trường đại học khác, bài viết đi sâu đánh 
giá mức độ phù hợp của nội dung thực tập 
sư phạm đồng thời đưa ra những đề xuất cải 
tiến cho các hoạt động thực tập nói riêng, hoạt 
động nâng cao năng lực sư phạm nói chung 
cho sinh viên chương trình đào tạo cử nhân 
Sư phạm tiếng Anh tại ĐHNN - ĐHQGHN. 
Hy vọng những đề xuất này sẽ được các cán 
bộ liên quan, đặc biệt là người thiết kế chương 
trình đào tạo, cân nhắc để cải tiến chương trình 
và nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo.
Tài liệu tham khảo
Phạm Thị Kim Anh (2015). Chương trình đào tạo giáo 
viên ở Việt Nam - một số bất cập và định hướng phát 
triển. Hội thảo khoa học quốc tế Phát triển chương 
trình đào tạo giáo viên - Cơ hội và thách thức, Đại 
học Sư phạm Thái Nguyên.
126 H.L.K. Anh / Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 116-126
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014). Khung năng lực ngoại 
ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam (ban hành theo Thông 
tư 01/2014-TT-BGDĐT ngày 24/1/2014). 
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014). Hướng dẫn thực hiện 
Yêu cầu cơ bản về năng lực giáo viên tiếng Anh 
phổ thông (công văn số 729/BGDĐT-NGCBQLGD 
ngày 25/2/2014). 
Đề án Ngoại ngữ Quốc gia 2020, Bộ Giáo dục và Đào 
tạo (2014). Khung năng lực giáo viên tiếng Anh 
của Việt Nam (Competency Framework for English 
Language Teachers: ETCF).
Nguyễn Thị Thu Hằng, Đỗ Thị Phương Thúy, Nguyễn 
Thị Phương Hoa (2009). Về thực tập sư phạm 
của sinh viên hệ sư phạm Trường Đại học Ngoại 
ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội. Tạp chí Khoa học 
ĐHQGHN: Ngoại ngữ, 25(1), 51-56. 
Đinh Xuân Khoa, Thái Văn Thành, Nguyễn Ngọc Hiền 
(2018). Phát triển chương trình và mô hình đào tạo 
giáo viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Tạp chí 
Khoa học Giáo dục Việt Nam, 1.
Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà 
Nội (2015). Khung chương trình đào tạo ngành 
Sư phạm tiếng Anh (ban hành theo Quyết định số 
4062/QĐ-ĐHNN ngày 29/11/2012 và Quyết định 
số 3065/QĐ-ĐHQGHN ngày 30/9/2015 của Giám 
đốc Đại học Quốc gia Hà Nội).
IMPROVING TEACHING PRACTICUM: SUGGESTIONS 
FROM THE ANALYSIS OF FOREIGN LANGUAGE 
TEACHER EDUCATION CURRICULA
Ha Le Kim Anh
Academic Affair Department, VNU University of Languages and International Studies, 
Pham Van Dong, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
 Abstract: Teaching practicum is an important component of a foreign language teacher 
education program, which helps future teachers to learn and develop pedagogical competence in a 
real-life context. Within the scope of this article, we focus on analyzing the foreign language teacher 
education curricula of 9 universities in Vietnam, and offer our recommendations for improving 
foreign language teacher education in general and English teaching practicum in particular at the 
University of Languages and International Studies, Vietnam National University, Hanoi.
Keywords: curriculum, foreign language teacher education, practicum

File đính kèm:

  • pdfde_xuat_cai_tien_thuc_tap_su_pham_ngoai_ngu_nhin_tu_goc_do_c.pdf