Di tích Óc Eo và việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa
Tóm tắt
Những kết quả nghiên cứu về nền văn hóa Óc Eo đã giúp chúng ta hiểu biết sâu hơn về lịch sử, văn
hóa dân tộc. Có thể nói, việc khám phá các di tích, di vật của nền văn hóa Óc Eo được xem là một trong
những thành tựu lớn nhất của khảo cổ học Việt Nam trong hơn 70 năm qua. Tuy nhiên, trong thời kỳ
hiện nay, các khu di tích văn hóa Óc Eo đang đứng trước nguy cơ bị xâm hại, thậm chí mai một. Việc
bảo tồn các khu di tích đã trở nên cấp bách, đòi hỏi các cấp lãnh đạo từ trung ương đến địa phương,
đặc biệt là ngành văn hóa và các cơ quan hữu trách một sự quan tâm sâu sắc.
Bạn đang xem tài liệu "Di tích Óc Eo và việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Di tích Óc Eo và việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa
BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA T DI TÍCH ÓC EO VÀ VIỆC BẢO TỒN, PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHẠM NGỌC HÒA Tóm tắt Những kết quả nghiên cứu về nền văn hóa Óc Eo đã giúp chúng ta hiểu biết sâu hơn về lịch sử, văn hóa dân tộc. Có thể nói, việc khám phá các di tích, di vật của nền văn hóa Óc Eo được xem là một trong những thành tựu lớn nhất của khảo cổ học Việt Nam trong hơn 70 năm qua. Tuy nhiên, trong thời kỳ hiện nay, các khu di tích văn hóa Óc Eo đang đứng trước nguy cơ bị xâm hại, thậm chí mai một. Việc bảo tồn các khu di tích đã trở nên cấp bách, đòi hỏi các cấp lãnh đạo từ trung ương đến địa phương, đặc biệt là ngành văn hóa và các cơ quan hữu trách một sự quan tâm sâu sắc. Từ khóa: An Giang, bảo tồn, giá trị di sản, văn hóa Óc Eo Abstract The results of researches on Oc Eo culture have helped us to get more knowledge about the history and culture of the nation. It can be said that the discovery of Oc Eo cultural relics and relicts is considered one of the greatest achievements of Vietnamese archeology during over 70 years. However, at present, the Oc Eo cultural relics are facing the risk of being harmed, even lost. The conservation of those relics has become urgent, which requires deep concerns of the leaders from the central to local levels, especially the cultural sector and authorities. Keywords: An Giang, conservation, heritage values, Oc Eo culture 1. Văn hóa Óc Eo và những kết quả nghiên cứu tại An Giang rên vùng đất đồng bằng sông Cửu Long ngày nay đã có hàng nghìn tên đất, tên sông, tên núi, tên đồi, tên làng ấp, tên thị thành khác nhau. Những tên ấy, có số lượng nhiều nhất, được biểu thị bằng những từ Việt hoặc Hán Việt; còn lại, một số tên được biểu thị bằng từ Khơme và từ Chăm. Chúng là những dấu ấn cụ thể gợi lên hình ảnh thật phong phú, đặc sắc của quá trình tụ cư, khai phá đất đai, lập làng, dựng chợ của cộng đồng người Kinh, người Khơme, người Hoa, người Chăm ở nơi đồng bằng màu mỡ này. Bên cạnh những tên gọi, những từ thân quen và dễ nhận thức ấy, có một và chỉ một địa danh thật lạ, không phải tiếng Kinh, không phải từ Khơme, cũng không phải từ Hoa hoặc Chăm. Địa danh ấy được quen gọi là Óc Eo. Đó là tên một gò đất lẫn đá nổi trên mặt cánh đồng phía đông nam núi Ba Thê. Tên này vốn có từ lâu và đã truyền lưu qua nhiều thế hệ mà ngày nay, không ai biết xuất xứ của nó nữa. Về ngữ nghĩa của cái tên Óc Eo, mọi người cũng không hề hay biết. Từ khi được giới nghiên cứu quan tâm, tên gọi Óc Eo được mọi người biết đến như một hải cảng phồn thịnh thuộc nền văn hóa cổ. Louis Malleret, nhà khảo cổ học người Pháp, đã phát hiện ra địa điểm này và cho khai quật lần đầu tiên tại một vùng đất thuộc huyện Thoại Sơn với diện tích khá lớn. Cánh đồng Óc Eo nay thuộc địa phận xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Cũng theo người dân địa phương, địa danh này trong tiếng Khmer có thể đọc là Ô Keo. Ô có nghĩa là vùng trũng, Keo là phát ra ánh sáng lóng lánh như thủy tinh. Sở dĩ cánh đồng được đặt tên như vậy là vì BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA dân địa phương thường thấy ở đây những ánh sáng lạ phát ra vào ban đêm mà không hiểu vì sao. Câu chuyện về từ Óc Eo hẳn còn nhiều tranh luận song một điều chắn chắn là, tên Óc Eo vốn từng là một địa danh đã tồn tại trong lịch sử cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nhìn về lịch sử, chúng ta thấy rằng Óc Eo là một nền văn hóa lớn, gắn liền với đất nước, con người châu thổ vùng đồng bằng sông Cửu Long; đồng thời, nó còn có mối quan hệ mật thiết với lịch sử Đông Nam Á thời cổ. Đây là một vùng đất cổ, dân cư đã tập trung từ cuối thời đại đá mới hay sơ kỳ thời đại kim khí, họ được nuôi dưỡng bằng phù sa sông Hậu và được kích thích bằng sự ra đời của luyện kim, vì thế sức sản xuất đã có điều kiện phát triển nhanh chóng, quá trình phân công lao động được đẩy mạnh. Óc Eo xuất hiện và dần dần trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa của cả vùng đồng bằng sông Cửu Long. Với vị trí quan trọng trên đường giao thông biển ở khu vực Đông Nam Á, Óc Eo đã trở thành nơi tập trung của thương nhân và thợ thủ công, nghĩa là có đủ điều kiện để thành thị hóa. Từ đó, Óc Eo càng có điều kiện để đón nhận các ảnh hưởng văn hóa bên ngoài cũng như tăng thêm các yếu tố kích thích sự phát triển bên trong. Sự nảy sinh và nở rộ của văn minh thành thị Óc Eo có thể được hình dung trong quá trình như vậy. Có thể nói, những nhân tố bên ngoài, ngoại sinh, quả đã góp phần vào việc tạo dáng cho một mô hình thành thị Óc Eo, thế nhưng động lực cho sự xuất hiện và phát triển văn minh Óc Eo phải là những nhân tố bên trong. Trong gần một thế kỷ nay, nhiều nhà khoa học phương Tây đã dày công khảo cứu về nền văn hóa Óc Eo. Đặc biệt, vào cuối năm 1944, nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret đã tiến hành khai quật khu di tích văn hóa Óc Eo và sau khi nghiên cứu, trong khoảng thời gian từ năm 1959 đến năm 1963, đã công bố toàn bộ kết quả khai quật trong một công trình đồ sộ mang tên Khảo cổ học vùng đồng bằng sông Mêkông, gồm 4 tập. Trong phạm vi Óc Eo, Malleret đã tìm thấy khoảng 150 di tích mang dấu vết văn hóa cổ, trong số đó có trên 10 di tích thuộc một nền văn hóa mà ông đặt tên là nền văn hóa Óc Eo, có tuổi được xác định từ thế kỷ II đến thế kỷ VII sau Công nguyên. Từ kết quả của những cuộc khai quật, đào thám sát trên mặt đất và những cuộc quan sát từ trên không, Malleret đã đưa ra nhận định: Ngay trên cánh đồng Giồng Cát và Giồng Xoài (ông gọi là cánh đồng Óc Eo) có một thành thị cổ bị vùi lấp dưới lòng đất. Ông đặt tên cho thành thị đó là Óc Eo hay còn gọi là thị cảng Óc Eo. Như vậy, với Malleret, từ cổ Óc Eo, nguyên để chỉ một gò đất theo tục truyền của người dân địa phương, đã hàm chứa một nội dung mới. Nó bao gồm chỉnh thể các di tích hiện còn tồn lưu dưới lòng đất và nổi trên mặt đất, nằm trong chu vi một thành thị cổ ở cánh đồng Giồng Xoài, Giồng Cát mà đã được phác dựng thành một bình đồ khá sinh động, bình đồ “đô thị Óc Eo”. Nói cách khác, với Malleret, Óc Eo xưa là một đô thị rộng lớn, một thị cảng phồn vinh, một trung tâm kinh tế sống động, có mối quan hệ giao thương Âu - Á rộng rãi. Đồng thời, đô thị Óc Eo xưa cũng là một di tích tiêu biểu cho nền văn minh của một quốc gia cổ hình thành vào loại sớm nhất ở Đông Nam Á (1, tr.215). Đây là một phát hiện lớn trong một công trình khoa học mang ý nghĩa mở đầu cho công cuộc nghiên cứu về Nền văn hóa Óc Eo và Vương quốc Phù Nam trên vùng đất Nam Bộ. Từ kết quả khai quật ban đầu, kết hợp với việc phát hiện nhiều di chỉ khảo cổ phân bố trong vùng, người ta đã lần lượt đưa ra nhiều nhận định, kiến giải liên quan đến văn hóa, lịch sử cổ xưa của vùng đất đồng bằng Nam Bộ: Thứ nhất, văn hóa Óc Eo phát triển trên một tầng cư dân bản địa ở vùng đồng bằng Nam Bộ. Thứ hai, văn hóa Óc Eo hội tụ nhiều luồng văn hóa cổ (từ truyền thống văn hóa thời kỳ đồ đá Nam Đông Dương, văn hóa Ấn Độ cổ đại đến các yếu tố văn hóa Địa Trung Hải và cả văn hóa Trung Hoa), trong đó yếu tố văn hóa Ấn Độ chiếm vai trò chủ đạo. Thứ ba, văn hóa Óc Eo là dấu vết vật chất của vương quốc Phù Nam - một trong những quốc gia cổ đại được hình thành sớm nhất ở Đông Nam Á vào thế kỷ I - VII sau Công nguyên (2, tr.150). Để tiếp tục tìm ra những di chỉ mới và luận chứng thêm cho nền văn hóa Óc Eo, năm 1977, BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA các nhà khảo cổ học Việt Nam tiếp tục tiến hành nhiều cuộc điều tra, khảo sát và khai quật khảo cổ học trên đất Nam Bộ, phát hiện thêm nhiều di tích không những trên vùng sông Hậu, mà cả trên vùng sông Tiền và sông Đồng Nai, gần như trên khắp địa bàn Nam Bộ. Những di tích này bao gồm di chỉ cư trú có tầng văn hóa dày trên dưới 3 mét, các công trình kiến trúc tôn giáo và các khu mộ táng. Hiện vật vô cùng phong phú với đủ loại, bao gồm: - Nhóm tượng thờ: Tượng Phật, tượng thần bằng các chất liệu gỗ, đá, đồng; tượng linh vật có yoni và linga, trong đó có một số hiện vật được làm bằng vàng; - Nhóm phù điêu và con dấu khắc trên gốm đá, thủy tinh, kim loại; - Nhóm tiền kim khí đúc bằng vàng, đồng, chì thiếc, chì sắt. Nhiều hiện vật bằng vàng và vàng lá có hình chạm khắc, nhiều đồ trang sức bằng đá quý, đá màu, thủy tinh, kim loại, nhiều loại đồ gốm và những vật dụng bằng đất nung, đá, gỗ. Những phát hiện về văn hóa Óc Eo trong thời gian gần đây cho thấy nền văn hóa này phân bố trù mật trên địa bàn các tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang và nhiều địa điểm khác thuộc vùng đồng bằng Nam Bộ. Hơn thế, các nhà khoa học đã phát hiện nhiều chứng tích của giai đoạn văn hóa tiền Óc Eo trên đất Nam Bộ, chứng tỏ đây là một nền văn hóa không chỉ có nguồn gốc bản địa với trung tâm là vùng đất Nam Bộ mà còn có quan hệ giao lưu rộng rãi với thế giới bên ngoài (3, tr.14). Dấu tích vật chất cho thấy, Óc Eo có sự liên hệ khá mật thiết với Trung Quốc, Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải. Trên tư liệu khảo cổ học cực kỳ phong phú, nhiều vấn đề khoa học đang đặt ra, lôi cuốn sự quan tâm của giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Đến năm 1983, các nhà khảo cổ học Việt Nam lại tiếp tục cuộc khai quật. Đối tượng được chọn để khai quật là những di chỉ “gò nổi”, “đống đá” thuộc khu vực phía bắc của di tích Óc Eo. Đó là gò Cây Trôm, gò Cây Cóc, gò Ông Côn, gò Cù lao Vôi, gò đá số 1, 7, 8, 10. Qua khai quật, các nhà khoa học đã phát hiện, thu thập được rất nhiều hiện vật. Phần lớn di vật tìm thấy tại đây được chế tác trong khoảng thế kỷ III đến thế kỷ V sau Công nguyên (còn di vật các vùng phụ cận thì muộn hơn). Qua đó, người ta có thể tiếp cận được diện mạo khá rõ nét và hình dung ra một cảnh quan sinh hoạt sinh động đặc trưng của một nền văn minh cổ - “văn minh Phù Nam” hoặc “văn hóa Óc Eo” (4, tr.153). Trong những năm 1994 - 1995, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ở Gò Cây Tung (An Giang) một di tích kiến trúc gạch có niên đại khoảng thế kỷ IX - X. Ở dưới lớp kiến trúc có một tầng cư trú dày, được xác định rõ ràng là trước Óc Eo. Tầng cư trú này phát lộ với những hiện vật phong phú, bao gồm đồ gốm văn thừng có vẽ màu, hơn 40 chiếc rìu đá cùng với các bàn mài, chày nghiền Điều đáng chú ý là ở đây người ta tìm được một loại rìu đá có hình tứ giác (chứ không gặp rìu có vai) và có một gờ nổi ở giữa lưỡi. Loại rìu này gần giống loại“bôn có mỏ” được tìm thấy ở Malaysia và Inđônêxia. Cùng với di tích Gò Cây Tung, những di vật và mộ táng được phát hiện ở các di chỉ khác như Lộc Giang, gò Cao Su (Long An), Long Bửu, Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ (Thành phố Hồ Chí Minh) đều góp phần khẳng định Óc Eo là một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, có quan hệ mật thiết với văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung mà chủ nhân chủ yếu của nền văn hóa này là cư dân Mã Lai – Đa Đảo. Những dấu vết khảo cổ cũng cho thấy văn hóa vật chất vùng Tây sông Hậu rất gần với người Chăm. Chính Malleret khi tiến hành khai quật tại Óc Eo cũng đã từng nhận xét rằng các kiến trúc ở đây “phần lớn được lợp mái ngói bằng, một kiểu khác hẳn ở Ăngko” (7, tr. 314). Nhiều viên chì lưới tìm thấy ở Óc Eo chứng tỏ cư dân miền Tây sông Hậu đã phát triển nghề đánh cá. Những dấu hiệu còn lại của hệ thống kênh đào đã nói lên kinh nghiệm và tài nghệ làm thủy lợi, khai phá và canh tác ở đồng bằng trũng thấp của nhóm cư dân Mã Lai – Đa Đảo ven biển. Trong 13 tỉnh, thành của vùng đồng bằng sông Cửu Long thì An Giang là tỉnh tập trung nhiều nhất các di tích và di vật của nền văn hóa Óc Eo. Theo những kết quả điều tra, phát hiện của ngành khảo cổ học trong những năm qua thì ở An Giang, các di tích thuộc nền văn hóa này thường phân bố trên nhiều địa hình BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA đồi núi, đồng bằng với độ cao thấp khác nhau. Nhiều di tích nằm rải rác trên các triền núi, các chân núi như ở vùng Bảy Núi, núi Sam, núi Ba Thê, núi Sập hoặc quy tụ thành từng khu vực, từng cụm trên mặt đồng bằng thấp ở các cánh đồng Giồng Cát, Giồng Xoài thuộc xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn. Ngoài ra, di tích còn được phát hiện trên địa bàn huyện Tri Tôn, Tịnh Biên và một số huyện, thị xã trong tỉnh. Qua nhiều đợt khai quật, các nhà khảo cổ đã phát hiện và bổ sung nhiều hiện vật quý giá hết sức phong phú về loại hình và đa dạng về chất liệu. Các di tích của nền văn hóa Óc Eo ở An Giang, ngoài những kiến trúc tường gạch đồ sộ của các kiểu đền đài, còn có các ngôi mộ cổ xây bằng đá trên các gò đắp nện bằng đất sét, những kiến trúc dựng trên các cọc gỗ cắm đứng, những khu cư trú trên gò cao, trong ruộng thấp nằm ven những đường nước cổ. Ngay tại khu Óc Eo, các loại di tích ấy có mật độ tập trung khá dày, đan xen với nhau, có vẻ như hợp thành một quần thể di tích có tính chất và đặc điểm của một trung tâm văn hóa quy mô, một đô thị cảng có tầm cỡ và có thể là của một trung tâm chính trị quan trọng. Nhiều tư liệu phong phú của văn hóa Óc Eo đã đóng góp vào nhận thức về một nền nghệ thuật Phật giáo và Hinđu giáo ở đồng bằng sông Cửu Long vào thế kỷ V. Văn hóa Óc Eo có sự kế thừa và phát triển từ các nền văn hóa tiền Óc Eo ngay trên mảnh đất Nam Bộ từ cuối thời đại đồ đồng (5, tr.1825). Tiếp tục nghiên cứu trong lòng đất ở khu vực này và ở nhiều di tích khác trong tỉnh An Giang, qua phát hiện của người dân địa phương và qua những cuộc điều tra, sưu tầm, khai quật, nhiều hiện vật quý giá, đẹp đẽ, độc đáo và tinh tế đã được thu lượm. Những hiện vật này có số lượng tới hàng nghìn chiếc với nhiều kiểu loại kích thước, chất liệu khác nhau. Có những hiện vật lớn như pho tượng thần Vishnu (cao tới 3,3 mét), thờ trong chùa Linh Sơn (núi Ba Thê), pho tượng “Đức Bà” thờ tại miếu Bà Chúa Xứ ở núi Sam. Lại có những hiện vật nhỏ bé được chế tạo với trình độ kỹ thuật rất cao như nhẫn, bông tai, bùa đeo, con dấu, đồng tiền bằng vàng, đồng, thiếc. Có những hạt đá quý, mã não, thủy tinh, lưu ly nhiều màu sắc. Ngoài ra, còn có nhiều vật dụng, dụng cụ thủ công bằng đồng, đá, đất nung, đồ gốm như vòng tay, lục lạc, giá kê, búa, dùi đục, tượng, khuôn đúc, nồi nấu kim loại, cối, chày, bàn nghiền, bàn xoa, dọi xe sợi, chì lưới, bình có vòi, nồi, vò, bát, đĩa, đèn, chậu v.v Toàn bộ những di tích, di vật trên đã minh chứng đầy đủ cho vùng đất An Giang từng một thời, vào những thế kỷ đầu Công nguyên (thế kỷ II - VI) là trung tâm lớn của một nền văn hóa vừa đường bệ, hoành tráng trong quy mô lại vừa đặc sắc, tinh vi về phong cách. Khi nhận định, các nhà nghiên cứu đều coi những di tích này là tiêu biểu cho đỉnh cao kinh tế, kỹ thuật của sự phát triển, phồn vinh ở vùng đồng bằng sông Cửu Long thời đó. Sự phát triển của văn hóa Óc Eo (An Giang) có thể được chia thành hai giai đoạn quan trọng như sau: Giai đoạn sớm (thế kỷ I - IV): Đây là giai đoạn văn hóa Óc Eo định hình và phát triển. Cư dân cổ trên khu vực Óc Eo đã dần chiếm lĩnh toàn bộ vùng đồng bằng thấp Tứ giác Long Xuyên. Gắn liền với việc chuyển từ tiền sử muộn sang sơ sử và bắt đầu hình thành nhà nước phong kiến sơ khai cùng với việc mở rộng địa bàn cư trú thì các công trình tôn giáo cũng có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều hiện vật đặc trưng của văn hóa Óc Eo như các kiểu dáng của đồ gốm, đế đất nung, những trang sức bằng đồng, chì, thiếc, con dấu, bùa đeo đều được phát hiện trong giai đoạn này. Giai đoạn phát triển (thế kỷ IV - VI, VII): Vào thời kỳ này, cư dân Óc Eo đã hoàn toàn làm chủ vùng đồng bằng miền Tây sông Hậu, vùng U Minh và vùng trũng thấp Đồng Tháp Mười. Đây cũng là thời kỳ mà các kiến trúc tôn giáo được phát hiện nhiều nhất và chủ yếu được xây bằng gạch hoặc bằng gạch đá hỗn hợp. Trong đó, khu vực Óc Eo vẫn là nơi tập trung nhiều kiến trúc nhất, quy mô nhất chứng tỏ nó giữ vị trí trung tâm quan trọng ở đồng bằng Nam Bộ. Có thể nói, văn hóa Óc Eo thời đó có vai trò quan trọng trong lịch sử. Nó hàm chứa trong mình những sáng tạo diệu kỳ của những lớp người đã khuất. Nó hội tụ mọi giá trị lớn về khoa học kỹ thuật, văn hóa – xã hội của người An Giang thuở trước nói riêng và người dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung. BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA 2. Những hạn chế, bất cập trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa Óc Eo Hiện nay, hiện trường các khu di tích trong quần thể văn hóa Óc Eo đã có nhiều biến đổi do tác động của thiên nhiên và đặc biệt là của con người. Trong đó, các “gò nổi” và “đống đá” bị tổn hại nhiều và đã lộ ra nhiều vết tích văn hóa. Có những gò hầu như đã bị mất hết dấu vết như gò Cây Dúi, gò Tre, gò Điển Điển; có gò đã mất phần nửa hoặc chỉ còn phần dưới chân như gò Cây Trôm (bị đào lấy đi một nửa phần phía Bắc, làm lộ ra kiến trúc gạch rộng lớn và đã bị khai quật). Gò Lớn trong hệ thống gò của Giồng Cát hầu như đã bị bóc mất phần trên; tường gạch của các kiến trúc hầu như không còn; nay chỉ thấy những phiến đá của chân bệ thờ và những khối đá hoa cương nằm la liệt, vốn là vật liệu của móng kiến trúc nói trên. Gò Mồ Côi cũng bị đào phá làm lộ ra nhiều tường gạch xây thành từng ô chữ nhật. Các gò lớn khác và nhiều gò nhỏ cũng đều có hiện tượng đào tìm vàng, tạo thành những hố nhỏ hoặc bị sạt lở, bị san lấp trồng cây, làm lộ ra những tường gạch (gò Cây Thị, gò Kamnap), những đá hoa cương, gạch vỡ, cát trắng (gò Ông Phi, gò Bà Chruôn, gò ông Môn) (6, tr.21). Từ đó đến nay, không có một cuộc điền dã nào được tiến hành tại đây. Di tích tiếp tục bị hủy hoại bởi những người đào tìm vàng. Một thực trạng khác là khá nhiều di tích có nguy cơ bị phá hủy hoàn toàn, việc nghiên cứu tổng hợp, đi vào chiều sâu của nền văn hóa cổ này còn quá ít. Trong khi đó, giới khoa học trong và ngoài nước đang mong đón nhận những phát hiện mới tại các di tích. Công việc dò tìm và khai quật di sản văn hóa Óc Eo hiện nay được tiến hành một cách chậm chạp so với tốc độ phát triển của quá trình đô thị hóa. Điều đáng nói là, trên thực tế ai cũng có thể dễ dàng hình dung được rằng, chỉ vài chục năm nữa thôi, phần lớn các di chỉ về nền văn hóa quan trọng độc đáo này sẽ phải vĩnh viễn nằm yên trong lòng đất, nơi mà đô thị và các khu công nghiệp mới sẽ mọc lên. Viễn cảnh ấy nhất định sẽ xảy ra, chừng đó, mọi quyết định khai quật để biết thêm về nền văn hóa cổ hẳn sẽ không còn là chuyện đơn giản. 3. Một số kiến nghị nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Óc Eo Trước hết, để đảm bảo tính hiệu quả trong công tác bảo tồn, Nhà nước cần thực hiện ngay một chương trình với mục tiêu và tiến độ cụ thể cho việc tôn tạo có trọng điểm và phát huy có hiệu quả giá trị di sản văn hóa Óc Eo nhằm phục vụ đời sống văn hóa của người dân trong vùng. Đây là chương trình có nội dung thật đa dạng và nhiều yêu cầu khác nhau nên đòi hỏi sự tham gia của nhiều nhà khoa học và các nhà nghiên cứu ở nhiều ngành thuộc khoa học xã hội, văn hóa và nghệ thuật. Do đó, để thu hút sự tham gia của các nhà khoa học vào việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Óc Eo, Chính phủ cần tăng cường đầu tư nguồn vốn và nguồn nhân lực bảo tồn cho địa phương. Công tác bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích là một hoạt động mang tính đặc thù nên Nhà nước cần có chính sách riêng biệt. Thứ hai, Ban Quản lý di tích văn hóa Óc Eo nhanh chóng lập kế hoạch điều tra, kiểm kê toàn bộ khu di tích; bên cạnh đó, cần tổ chức nghiên cứu môi trường sinh thái, sự biến đổi của khí hậu, lịch con nước sông Hậu để có kế hoạch lâu dài tránh cho các di tích khỏi bị ngập nước; đồng thời, thực hiện tốt công tác tuyên truyền cho người dân ở trong và quanh khu di tích về tầm vóc, giá trị lịch sử - văn hóa của di tích Óc Eo, hướng dẫn họ sử dụng đất đai một cách hợp lý trong xây dựng các công trình và trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiến tới xóa bỏ mọi hành vi xâm phạm di tích. Thứ ba, Ban Quản lý di tích văn hóa Óc Eo cần làm tốt công tác giữ gìn và bảo quản hiện vật. Chúng ta biết rằng, việc tiếp nhận các hiện vật là quan trọng, nhưng việc tạo điều kiện bảo đảm cho các hiện vật được tồn tại lâu dài còn quan trọng hơn. Do đó, tại nhà trưng bày phải có kho bảo quản đủ tiêu chuẩn để tập trung được tất cả các hiện vật văn hóa Óc Eo mà trước đây còn để rải rác ở các nơi trong khu di tích. Mặt khác, để đảm bảo sự an toàn cho các hiện vật có giá trị kinh tế cao như các hiện vật bằng kim loại quý và đá quý, nên đưa chúng vào bảo quản trong tủ bảo hiểm. Những hiện vật đưa ra trưng bày cũng phải được đặt trong tủ kính có khóa chắc chắn. Những hiện vật BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA bị hư hỏng nhẹ phải kịp thời tu sửa Riêng đối với những hiện vật có nguy cơ bị hủy hoại như tượng gỗ, cột gỗ, Ban Quản lý nên mời các chuyên gia về kỹ thuật bảo quản đến gia cố nhằm tăng tuổi thọ cho chúng. Thứ tư, Ban Quản lý di tích văn hóa Óc Eo cần tăng cường công tác bảo vệ các di tích, nhất là các di tích tiêu biểu của nền văn hóa; cùng với việc bảo vệ là áp dụng các biện pháp kỹ thuật để tạo nên những địa điểm bảo tàng lộ thiên phục vụ khách tham quan, du lịch. Khi sắp xếp các hiện vật trong nhà trưng bày, Ban Quản lý cần xây dựng mô hình toàn bộ khu di tích để giới thiệu cho khách tham quan trước khi đưa họ đến thực địa. Để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo tồn, tỉnh An Giang cần tổ chức đào tạo, cung cấp cho Ban Quản lý những cán bộ chuyên trách có trình độ chuyên môn sâu để họ vừa sưu tầm, nghiên cứu, vừa giới thiệu, hướng dẫn cho khách tham quan, đồng thời, cũng để họ Như vậy, những kết quả nghiên cứu về nền văn hóa Óc Eo đã giúp chúng ta hiểu biết sâu hơn về lịch sử, văn hóa dân tộc. Có thể nói, việc khám phá các di tích, di vật của nền văn hóa Óc Eo được xem là một trong những thành tựu lớn nhất của khảo cổ học Việt Nam trong hơn 70 năm qua. Tuy còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và thảo luận, nhưng với những gì khoa học đưa lại, chúng ta có thể khẳng định rằng: thời cổ đại, sau các nền văn hóa tiền sử, văn hóa Óc Eo là một trong những trung tâm văn hóa tiêu biểu nhất của đất nước. Tuy nhiên, trong thời kỳ hiện nay, các khu di tích văn hóa Óc Eo đang đứng trước nguy cơ bị xâm hại, thậm chí mai một. Việc bảo tồn các khu di tích đã trở nên cấp bách, đòi hỏi các cấp lãnh đạo từ trung ương đến địa phương, đặc biệt là ngành văn hóa và các cơ quan hữu trách một sự quan tâm sâu sắc. P.N.H (Nghiêncứuviên,HọcviệnChínhtrịkhuvựcIV) làm tốt công tác tuyên truyền cho mỗi người dân địa phương hiểu được giá trị di sản văn hóa Óc Eo, qua đó nâng cao được sự kiểm soát việc bảo tồn di sản này bằng dư luận. Thứ năm, Ban Quản lý di tích văn hóa Óc Eo cần thực hiện việc biên tập, giới thiệu những dạng ấn phẩm khác nhau về các phát hiện, các kết quả nghiên cứu cho người dân trong và ngoài nước; từng bước thực hiện việc trưng bày dưới dạng chuyên đề các di tích, di vật của nền văn hóa này để tiến tới xây dựng nội dung chính thức cho nhà trưng bày. Để phát huy hơn nữa vai trò của mình trong công tác bảo tồn di tích, Ban Quản lý nên tăng cường học hỏi kinh nghiệm của các địa phương khác trong công tác bảo tồn, lưu giữ hiện vật, để từ đó tìm ra giải pháp bảo tồn hiệu quả nhất cho khu di tích của mình; đặc biệt, cần sớm phối hợp với các cơ quan chức năng, lập hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ để đề nghị UNESCO công nhận di tích văn hóa Óc Eo là di sản văn hóa thế giới. Thứ sáu, Ủy ban Nhân dân các tỉnh có chung di tích lịch sử văn hóa Óc Eo cần có kế hoạch phối hợp nhằm tiến tới xây dựng một quy hoạch chung bảo vệ di tích. Tài liệu tham khảo 1. Nhiều tác giả (1984), Văn hóa Óc Eo và các văn hóa cổ ở đồng bằng sông Cửu Long, Long Xuyên. 2. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2008), Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, Nxb. Thế giới, Hà Nội. 3. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2014), Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 4. Nguyễn Hữu Hiệp (2011), Tìm hiểu một số địa danh cổ ở An Giang qua truyền thuyết, Nxb. Lao động, Hà Nội. 5. Nguyễn Văn Chuẩn, Trịnh Tất Đạt (2010), Từ điển bách khoa đất nước con người Việt Nam, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội. 6. Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải (1995), Văn hóa Óc Eo những khám phá mới, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 7. L. Malleret (1963), L’archéologie du delta du Mékong, Tome 3, Paris. Ngày nhận bài: 30 - 11 - 2016 Ngày phản biện, đánh giá: 4 - 3 - 2017 Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2017 BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA
File đính kèm:
- di_tich_oc_eo_va_viec_bao_ton_phat_huy_cac_gia_tri_van_hoa.pdf