Điểm lại các nghiên cứu hóa học và hoạt tính sinh học một số loài sinh vật biển Việt Nam trong giai đoạn 2006-2012

TÓM TẮT

Nghiên cứu về hoá học các hợp chất thiên nhiên biển ở Việt Nam được coi là một trong

những hướng nghiên cứu quan trọng trong thế kỉ thứ 21.Tổng quan này đề cập đến những kết

quả nghiên cứu gần đây của nhóm nghiên cứu về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của

một số nhóm sinh vật biển ở Việt Nam bao gồm: nhóm hải miên, nhóm san hô mềm và nhóm da

gai. Các hợp chất thuộc lớp saponin, steroid, diterpene, glycolipid, và một số hợp chất khác đã

được phân lập và xác định cấu trúc. Trong số các hợp chất thu được, có những hợp chất thể hiện

hoạt tính gây độc tế bào trên một số dòng tế bào ung thư thử nghiệm, kháng sinh. Ngoài ra, một

số hợp chất còn được đánh giá khả năng kháng viêm, chống loãng xương và chống ô xy hóa.

Những thành quả nghiên cứu này đóng góp rất lớn vào kho tàng hóa học các hợp chất thiên

nhiên biển trên thế giới. Trên cơ sở những kết quả thu được, một số sản phẩm đã được triển khai

phục vụ chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.

pdf 13 trang yennguyen 4840
Bạn đang xem tài liệu "Điểm lại các nghiên cứu hóa học và hoạt tính sinh học một số loài sinh vật biển Việt Nam trong giai đoạn 2006-2012", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Điểm lại các nghiên cứu hóa học và hoạt tính sinh học một số loài sinh vật biển Việt Nam trong giai đoạn 2006-2012

Điểm lại các nghiên cứu hóa học và hoạt tính sinh học một số loài sinh vật biển Việt Nam trong giai đoạn 2006-2012
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 50 (6) (2012) 825-837 
ĐIỂM LẠI CÁC NGHIÊN CỨU HÓA HỌC VÀ HOẠT TÍNH 
SINH HỌC MỘT SỐ LOÀI SINH VẬT BIỂN VIỆT NAM 
TRONG GIAI ĐOẠN 2006-2012 
Châu Văn Minh*, Nguyễn Xuân Cường, Nguyễn Hải Đăng, Nguyễn Phương Thảo, 
Trần Hồng Quang, Nguyễn Hữu Tùng, Nguyễn Hoài Nam, Nguyễn Văn Hùng, 
Phan Văn Kiệm 
Viện Hóa sinh Biển, Viện KHCNVN, 18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội 
*Email: cvminh@vast.ac.vn 
Đến Tòa soạn: 17/12/2012; Chấp nhận đăng: 17/12/2012 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu về hoá học các hợp chất thiên nhiên biển ở Việt Nam được coi là một trong 
những hướng nghiên cứu quan trọng trong thế kỉ thứ 21.Tổng quan này đề cập đến những kết 
quả nghiên cứu gần đây của nhóm nghiên cứu về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của 
một số nhóm sinh vật biển ở Việt Nam bao gồm: nhóm hải miên, nhóm san hô mềm và nhóm da 
gai. Các hợp chất thuộc lớp saponin, steroid, diterpene, glycolipid, và một số hợp chất khác đã 
được phân lập và xác định cấu trúc. Trong số các hợp chất thu được, có những hợp chất thể hiện 
hoạt tính gây độc tế bào trên một số dòng tế bào ung thư thử nghiệm, kháng sinh. Ngoài ra, một 
số hợp chất còn được đánh giá khả năng kháng viêm, chống loãng xương và chống ô xy hóa. 
Những thành quả nghiên cứu này đóng góp rất lớn vào kho tàng hóa học các hợp chất thiên 
nhiên biển trên thế giới. Trên cơ sở những kết quả thu được, một số sản phẩm đã được triển khai 
phục vụ chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. 
Từ khóa: hoá học các hợp chất thiên nhiên biển; hải miên; san hô mềm; da gai. 
1. GIỚI THIỆU CHUNG 
Dược liệu Biển là nguồn cung cấp dồi dào các chất có hoạt tính sinh học và hiện đang thu 
hút được sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học trên thế giới. Đã có rất nhiều hợp chất được 
phát hiện từ những sinh vật biển sinh sống ở những nơi có điều kiện sống rất khắc nghiệt hoặc từ 
những sinh vật đặc biệt, dị thường, những sinh vật có hệ thống phòng vệ. Chính vì thế, những 
hợp chất này có những đặc tính vô cùng quý báu, tiềm tàng cho việc tạo thuốc chữa bệnh cho 
con người [1 - 3]. Hầu hết các hoạt chất chiết xuất từ dược liệu biển được định hướng vào các 
nghiên cứu in vitro, nghiên cứu tiền lâm sàng, nghiên cứu lâm sàng nhằm tìm kiếm các tác nhân 
hỗ trợ hoặc điều trị các bệnh hiểm nghèo như ung thư, Alzheimer, viêm nhiễm, sốt rét, bệnh lao... 
Cho đến nay đã có nhiều hoạt chất có nguồn gốc từ sinh vật biển được nghiên cứu thành thuốc 
và được cấp phép lưu hành điển hình như Ara-C, Trabectedin chữa ung thư; Ara-A điều trị bệnh 
Châu Văn Minh 
 826
Herpes, Ziconotide làm thuốc giảm đau. Ngoài ra còn có nhiều hoạt chất hiện đang được nghiên 
cứu lâm sàng và sẽ sớm có mặt trên thị trường [4]. 
Việt Nam nằm trong khu vực Thái Bình Dương, nơi có nguồn đa dạng sinh học vô cùng 
phong phú. Dọc theo chiều dài của đất nước ta là diện tích vùng biển và vùng ngập mặn, lợi thế 
này đã mang lại một nguồn lợi vô cùng phong phú và quý giá, bao gồm các loài cá, động vật đáy, 
rong biển, động thực vật phù du và các khu rừng ngập mặn [5]. Một vài năm trước đây nghiên 
cứu hóa học các hợp chất thiên nhiên biển ở Việt Nam còn rất mới, nghiên cứu tìm kiếm hoạt 
chất từ nguồn sinh vật biển nhằm phục vụ sản xuất thực phẩm chức năng hoặc dùng làm nguyên 
liệu nghiên cứu thuốc đang ở giai đoạn đầu. Các nghiên cứu trong giai đoạn này đã khai thác 
được một số sinh vật biển có hoạt tính sinh học như rắn biển, hải sâm, sao biển, vỏ tôm, vẹm 
xanh, cá nóc, san hô mềm và rong biển; đây là một số kết quả khả quan về tiềm năng Biển Việt 
Nam. Những năm gần đây nhằm nghiên cứu có hệ thống nguồn dược liệu biển Việt Nam, mô 
hình nghiên cứu liên ngành có sự kết hợp chặt chẽ của các nhà khoa học Hóa – Sinh - Y dược 
được thực hiện. Từ việc khảo sát các khu vực có khả năng khai thác các sinh vật biển nhằm tìm 
kiếm các khu vực có nguyên liệu nghiên cứu, đến nghiên cứu sàng lọc hoạt tính sinh học nhằm 
tìm kiếm các nhóm dược liệu, nghiên cứu hóa học theo định hướng hoạt tính sinh học nhằm phát 
hiện các hoạt chất trong dược liệu. Tiếp đó, đi sâu vào nghiên cứu chiết xuất các chất có hoạt 
tính sinh học từ các nhóm dược liệu biển được lựa chọn theo định hướng hoạt tính sinh học, đi 
tiếp đến nghiên cứu ứng dụng tạo các sản phẩm hoặc nguyên liệu dược cụ thể kế thừa từ các kết 
quả nghiên cứu cơ bản. Kết quả thực hiện mô hình nêu trên, nhóm nghiên cứu đã tìm ra những 
hợp chất mới và những chất có hoạt tính sinh học, việc phát hiện ra các hợp chất mới là những 
đóng góp quan trọng vào danh mục các hoạt chất thiên nhiên biển của thế giới, đồng thời các 
hợp chất chiết xuất được còn là các hợp chất tạo nguồn định hướng cho các nghiên cứu tổng hợp, 
bán tổng hợp sau này nhằm tạo các sản phẩm có giá trị cao trong công nghiệp dược hoặc nông 
nghiệp. Những kết quả nghiên cứu về hóa học và hoạt tính sinh học (in vitro, invivo) góp phần 
tạo cơ sở định hướng cho việc nghiên cứu sâu hơn tạo ra các sản phẩm thực tế phục vụ chăm sóc 
sức khỏe cộng đồng [5, 6]. Trong báo cáo này, chúng tôi trình bày tóm tắt các kết quả nghiên 
cứu hóa học, hoạt tính sinh học và tiềm năng ứng dụng của các loài sinh vật biển thuộc nhóm hải 
miên (sponges), san hô mềm (soft coral), da gai (echinoderms) và một số loài khác ở Việt Nam 
được thực hiện trong giai đoạn từ 2006 đến nay. 
2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU HÓA HỌC VÀ HOẠT TÍN SINH HỌC 
Kết quả nghiên cứu sàng lọc, nghiên cứu phân bố, phân tích tài liệu tham khảo, đã bước 
đầu lựa chọn ba nhóm sinh vật biển tiềm năng là hải miên, san hô mềm và da gai nhằm tiến hành 
các nghiên cứu về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học. Kết quả thu được cho thấy các hợp 
chất chiết xuất được thuộc các nhóm chất: saponin, steroit, đitecpen, glycosphingolit, glycolipit 
và một số nhóm chất khác. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu hoạt tính sinh học cho thấy nhóm chất 
này có tiềm năng về gây độc tế bào trên các tế bào ung thư thử nghiệm, kháng sinh, chống ô xy 
hóa, kháng viêm và chống loãng xương. Cụ thể như sau: 
Nhóm chất saponin 
Các hợp chất saponin khung holostane rất điển hình cho các loài hải sâm thuộc chi 
Holothuria. Hai hợp chất holothurin A (1) và holothurin B (2) lần đầu tiên được phân lập từ loài 
hải sâm Holothuria martensii và H. vagabunda ở Việt Nam [7]. Các nghiên cứu tiếp theo về 
thành phần hóa học loài hải sâm H. scabra đã được phân lập được các hợp chất 1, 2, holothurin 
A2 (3) và ba hợp chất saponin mới là holothurin A3 (4), holothurin A4 (5) và holothurinogenin B 
Điểm lại các nghiên cứu hóa học và hoạt tính sinh học một số loài sinh vật biển Việt Nam  
827
(6). Trong đó, hợp chất 2 là thành phần chính của loài H. vagabunda, hợp chất 4 có hàm lượng 
khá cao trong loài H. scabra [8, 9]. Kết quả thử nghiệm hoạt tính gây độc tế bào trên các dòng tế 
bào ung thư thử nghiệm cho thấy các holothurin thể hiện hoạt tính gây độc tế bào trên ba dòng tế 
bào ung thư người được thử nghiệm là KB (Human epidemoid carcinoma - ung thư biểu mô), Fl 
(Fibril sarcoma of Uteus - Ung thư màng tử cung) và Hep-G2 (Hepatocellular carcinoma- Ung 
thư gan). Ở nồng độ thử nghiệm ban đầu 200 µg/ml, hợp chất 1, 2, 3 có khả năng gây độc với cả 
ba dòng tế bào KB, FL, Hep-G2, các hợp chất holothurin khác như 2, 4, 6 cũng cho kết quả gây 
độc tế bào rất ấn tượng. Đặc biệt hợp chất mới 4 phân lập được từ loài hải sâm H. scabra thể 
hiện hoạt tính mạnh trên ba dòng tế bào ung thư người được thử nghiệm là ung thư biểu mô 
(KB), ung thư màng tử cung (Fl) và ung thư gan (Hep-G2) với giá trị IC50 tương ứng là 0,57, 
0,39 và 0,23 µg/ml. Hợp chất 6 có hoạt tính trên dòng tế bào (Hep-G2) với IC50 đạt 2,33 µg/ml 
[7-9]. Quy trình chiết xuất hợp chất 2 từ loài hải sâm H. vagabunda và hợp chất 4 từ loài hải sâm 
H. scabra đã được nghiên cứu hoàn thiện và đăng ký độc quyền sáng chế [10, 11]. 
O RO
OH
HO
OO
O OO
O
O
OH
OCH3
OH
CH2OH CH2OH
OH
HO
OH
OH
CH3
OH
NaO3SO
O
O
H
O
H
HO
O
O O
HO
OH
OH
CH3
OH
O
O
OH
OO
O
OH
OH
1 R =
3 R =2 R = 25 4 R = 25 5 R= 25
6
Nhóm chất steroit và steroit glycosit 
 Nhóm chất steroit được tìm thấy ở hầu hết các mẫu nghiên cứu thuộc cả ba nhóm hải 
miên, san hô mềm và da gai ở Việt Nam. Hợp chất có hàm lượng cao và xuất hiện trong hầu hết 
các loài sinh vật biển thu thập được là cholesterol (7). Hợp chất này được phân lập từ loài san hô 
mềm Cladiella sp, sao biển Archaster typicus, hải miên Xestospongia testudinaria và Gellius 
varius [5]. Ngoài ra, các dẫn xuất của hợp chất 7 như 7α-hydroxy-cholesterol (8), 7β-hydroxy-
cholesterol (9) và dẫn xuất mới 7α-methoxy-cholesterol (10) được phân lập từ loài rong sụn 
Kappaphycus alvarezii [12]. Nghiên cứu thành phần hóa học loài hải miên Dysidea cinerea [13] 
cho thấy sự phong phú của nhóm chất steroit như các hợp chất ostreasterol (11), isofucosterol 
(12) và 5,8-epidioxycholest-6-en-3β-ol (13). Hợp chất 13 cũng được phân lập từ loài hải miên G. 
varius [14], X. testudinaria [15] và cầu gai Diadema setosum [16]. Kết quả nghiên cứu hoạt tính 
gây độc tế bào cho thấy, hợp chất 13 thể hiện hoạt tính mạnh trên cả ba dòng tế bào ung thư 
người được thử nghiệm là ung thư biểu mô KB (IC50 = 2,0 µg/ml), ung thư gan Hep-G2 (IC50 = 
2,4 µg/ml) và ung thư màng tử cung FL (IC50 = 3,93 µg/ml) [16]. Nghiên cứu thành phần hóa 
học của loài hải miên Haliclona clathrata đã phân lập được hợp chất steroit mới là 24-nor-5α-
cholestan-3β,23,24-triol (14) cùng với hợp chất 11, (24R)-24-ethylcholest-4-ene-3,6-dione (15), 
Châu Văn Minh 
 828
(24R)-24-ethylcholest-3,6-dione (16) [17,18]. Ngoài ra, các hợp chất cholest-7-ene-3β,5α,6β-
triol (17) và 6β-methoxycholest-7-ene-3β,5α-diol (18) từ loài loài hải miên G. varius [14]; 
saringosterol (19), cholest-7-en-3-one (20) và 7 từ loài hải miên X. testudinaria [15]; (22E)-5α-
egosta-7,22-dien-3β-ol (21) và 5α-cholest-7-en-3β-ol (22) từ loài hải miên Aplysina sp [19] 
cũng được xác định. Một điều đáng quan tâm là hợp chất 19 được các nhà khoa học trên thế giới 
công bố có hoạt tính kháng vi khuẩn lao Mycobacterium tuberculosis rất mạnh với giá trị nồng 
độ ức chế tối thiểu (MIC-Minimum inhibitory concentration) là 0,25 µg/ml và đây là giá trị MIC 
nhỏ nhất cho các hợp chất thiên nhiên được chiết tách từ thực vật tính đến năm 2001. Giá trị này 
tương đương với giá trị MIC của thuốc chữa lao rifampin. Ngoài ra hợp chất này còn có độ độc 
thấp và tính đặc hiệu cao [20]. Theo tác giả Brent RC, với lớp chất steroit tính đến năm 2003 chỉ 
có ba hợp chất là axit fusidic, saringosterol và endoperoxide có hoạt tính kháng vi khuẩn lao với 
giá trị MIC ≤ 4 µg/ml [21]. Gần đây, ba hợp chất steroit mới có cấu trúc vòng propan ở mạnh 
nhánh là petrosterol-3,6-dione (23), 5,6α-epoxypetrosterol (24), iantheketal A (25), cùng với 
petrosterol (26) và aragusterol B (27) được phân lập từ loài hải miên Ianthella sp. Các hợp chất 
23, 24 và 26 thể hiện hoạt tính gây độc tế bào trên các dòng tế bào ung thư A549 (phổi), HL-60 
(máu), MCF-7 (vú), SK-OV-3 (buồng trứng) và U937 (máu) với giá trị IC50 trong khoảng 8,4 - 
22,1 µM, đồng thời kích thích quá trình appoptosis của tế bào HL-60 [22]. Ngoài ra, các hợp 25 
và 27 thể hiện hoạt tính gây độc tế bào trên ba dòng tế bào ung thư người là MCF-7 (vú), SK-
Hep-1 (gan) và HeLa (cổ tử cung) với giá trị IC50 trong khoảng 12,8-27,8 µM [23]. 
O
OHO 13
HO
OH
19 O
O
23
Từ loài san hô mềm Cladiella sp, nhóm tác giả đã phân lập được hợp chất 9,11-secosteroit 
glycosit mới là cladiasterol (28) cùng với 3β,6α,11-trihydroxy-24-methylene-9,11-secocholest-7-
en-9-one (29). Tại thời điểm đó, 28 là hợp chất 9,11-secosteroit glycosit đầu tiên được phân lập 
từ thiên nhiên [24]. Tiếp theo, một hợp chất 9,11-secosteroit mới là sarcomilasterol (30) cùng 
với sarcoaldesterol B (31) và ergosta-1β,3β,5α,6β-tetraol (32) từ loài san hô mềm Sarcophyton 
mililatensis [25]; pakisterol A (33) và 24-methylcholestane-3β,5α,6β,25-tetrol 25-monoacetate 
(34) từ san hô mềm Lobophytum sp [26]; các hợp chất dihydroxy-24-methylene-9,11-
secocholestan-5-en-9-one (35), (24S)-ergostane-3β,5α,6β,25-tetraol (36), và (24S)-ergostane-
3β,5α,6β,25-tetraol 25-monoacetate (34) được phân lập từ san hô mềm Lobophytum compactum 
[27, 28]. Ảnh hưởng của các sterol phân lập được từ loài san hô mềm S. mililatensis lên sự biệt 
hóa của tiền nguyên bào xương MC3T3-E1 được ghi nhận thông qua những đánh giá về hoạt 
động của enzim ALP (alkaline phosphatase), một trong những chỉ thị cho quá trình biệt hóa 
nguyên bào xương. Cả ba hợp chất trên đều có hiệu quả làm tăng rõ rệt hoạt động của enzim này 
ở nồng độ 0,3 và 3 µM. Trong đó hợp chất 32 cho hiệu quả mạnh nhất. Tiếp theo, các thí nghiệm 
về hiệu quả tác động của các sterol đối với sự khoáng hóa (một quá trình quan trọng trong quá 
trình biệt hóa) được tiến hành. Kết quả cho thấy, hợp chất 30 và 32 có tác dụng kích thích rõ rệt 
đối với sự khoáng hóa ở các tế bào MC3T3-E1 [25]. 
Điểm lại các nghiên cứu hóa học và hoạt tính sinh học một số loài sinh vật biển Việt Nam  
829
O
O
28
O
HO 30 HO 37
H
H
OH
HO
O
OHHO
HO
H3C
OH
HO
H
O
OH
Gần đây, một steroit mới là lobophytosterol (37) cùng với (22S,24S)-24-methyl-22,25-
epoxyfurost-5-ene-3β,20β-diol (38), (24S)-24-methylcholest-5-ene-3β,25-diol (39), (24S)-
ergost-5-ene-3β,7α-diol (40), pregnenolone (41) và cholesterol (7) được phân lập từ loài san hô 
mềm Lobophytum laevigatum [29]. Hợp chất 37 thể hiện hoạt tính mạnh trên ba dòng tế bào ung 
thư được thử nghiệm là là A549 (phổi), HCT-116 (ruột) và HL-60 (máu) với giá trị IC50 tương 
ứng là 4,5, 3,2 và 5,6 µM. Kết quả nghiên cứu tiếp theo cho thấy hoạt tính gây độc tế bào của 
hợp chất 37 có thể là do cơ chế kích thích apoptosis của các tế bào trên. Ngoài ra, các hợp chất 
38, 39 và 41 thể hiện hoạt tính kích hoạt PPARs (peroxisome proliferator-activated receptors) và 
có thể giữ vai trò quan trọng trong trong quá trình điều hòa glucose, lipit và cholesterol trong cơ 
thể [29]. 
OH
OH
HO
OHOH
OH
OH
CH2OH
OH
46
OH
OH
HO
OHOH
OH
OH
R
OH
44 R = OH
45 R = H
Bên cạnh đó, các nghiên cứu về thành phần steroit của các loài da gai cũng thu được một số 
kết quả đáng quan tâm. Các hợp chất steroit mang nhiều nhóm hydroxy 2α,3β,12α,21,24R,25-
hexahydroxylanosta-8-en (42) và 24R-ergosta-7,22-dien-3β,5α,6β-triol (43) từ loài hải sâm H. 
scabra; 27-norcholestan-3β,4β,5α,6α,8β,14α,15α,24R-octol (44), 27-norcholestan-
3β,4β,5α,6α,7β,8β,-14α,15α,24R-nonol (45), ergost-22-en-3β,4β,5α,6α,8β,14α,-
15α,22E,24R,25R,26-nonol (46) và 20 từ loài sao biển A. typicus [30, 31], đã được phân lập và 
xác định cấu trúc. Các hợp chất 44, 45 và 46 có cấu trúc rất đặc trưng với rất nhiều nhóm OH 
đính vào khung sterol và mới chỉ được công bố từ loài sao biển A. typicus. Do đó, các hợp chất 
này có thể được sử dụng như các chất chỉ thị hóa học trong việc giám định loài sao biển A. 
typicus. 
Nhóm chất đitecpen 
Từ loài san hô mềm S. mililatensis, nhóm tác giả đã phân lập và xác định cấu trúc được 07 
hợp chất đitecpen dạng khung cembranoit. Một điều đáng quan tâm là trong số đó có tới 05 hợp 
chất có cấu trúc mới là (-)-7β-hydroxy-8α-methoxydeepoxysarcophytoxide (47), (-)-17-
hydroxysarcophytonin A (48), (+)-7β,8β-dihydroxydee ... 93) từ loài hải miên Aplysina sp [19]; 3,5-
dimethyl-4-al-pyrol (94) và 22-dehydroclerosterol (95) từ loài rong Sargassum swartzii [47], ba 
hợp chất sắc tố caroten là peridinin (96), peridininol (97) và all-trans-(8R,69R)-peridininol-5,8-
furanoxide (98) từ loài san hô mềm Sarcophyton elegans [48]; cũng được phân lập và xác định 
cấu trúc. Hợp chất 82 thể hiện hoạt tính gây độc tế bào mạnh trên hai dòng tế bào ung thư A-549 
(phổi) HT-29 (ruột kết) với giá trị IC50 tương ứng là 8,2 và 5,6 µM [26]. 
Một nghiên cứu gần đây về thành phần hóa học của loài vi khuẩn lam Lyngbya majuscula ở 
Việt Nam còn phát hiện ra hai hợp chất mới được đặt tên là nhatrangin A (99) và B (100), cùng 
với hai hợp chất đã biết có chứa brom là drodebromoaplysiatoxin (101) và anhydroaplysiatoxin 
(102) [49]. Tiếp theo, ba hợp chất biscembranoit là ximaolide F (103), methyl tortuoate B (104) 
và nyalolide (105) được phân lập từ loài san hô mềm Lobophytum laevigatum năm 2011 [35]. 
Hai hợp chất 103 và 104 thể hiện hoạt tính ức chế hoạt hóa NF-κB được kích thích bằng TNF-α 
ở tế bào Hep-G2 với giá trị IC50 tương ứng là 6,9 and 6,7 µM. Ngoài ra, hai hợp chất này còn ức 
chế sự biểu hiện của các gen iNOS và COX-2. Ở nồng độ được nghiên cứu, các hợp chất này 
không thể hiện độc tính đối với tế bào Hep-G2 cho thấy tính đặc hiệu của hoạt tính kháng viêm 
của chúng và gợi mở cho các nghiên cứu ứng dụng tiếp theo của hai hợp chất này cũng như loài 
san hô mềm L. laevigatum theo định hướng hoạt tính kháng viêm [35]. 
O
COOCH3
CH3
O
CH3
H
HO CH3
CH3
O
O
O
H3
C
CH3
CH3
CH3
H H H
OH
O
CH3
H
O
O
O
O
HO
O
O
O
CH3
H
H
H
H
O
COOCH3
CH3
CH3
OH
HHO
O
H
CH3
CH3
O
O
O
H3C
H
H3C H
CH3
CH3
H
OH3C
102 103 104
Cùng với các nghiên cứu nêu trên còn có các nghiên cứu về tảo biển, rong biển và các lipit 
và các axit béo có hoạt tính sinh học có nguồn gốc thiên nhiên biển Việt Nam, các kết quả 
nghiên cứu này góp phần đáng kể vào bức tranh tổng thể của hóa học các hợp chất thiên nhiên 
biển Việt Nam [50 - 53]. 
3. TIỀM NĂNG ỨNG DỤNG 
Đối với ngành hợp chất thiên nhiên nói chung và dược liệu biển nói riêng, quá trình nghiên 
cứu từ lúc sàng lọc ban đầu, tách chiết, thử hoạt tính các hợp chất và thực hiện các nghiên cứu 
tiền lâm sàng, lâm sàng, đưa được sản phẩm ra thị trường phải mất một thời gian rất dài. Các 
nghiên cứu này cũng đòi hỏi một quy trình thực hiện rất công phu, khoa học và kinh phí tập 
trung. Với điều kiện hiện nay ở nước ta thì việc thực hiện hoàn thiện quá trình này sẽ là khó 
khăn và đòi hỏi thời gian dài. Do vậy, hướng phát triển của ngành hóa sinh biển cần đi tắt đón 
Điểm lại các nghiên cứu hóa học và hoạt tính sinh học một số loài sinh vật biển Việt Nam  
833
đầu, thực hiện các bước sàng lọc ban đầu, xây dựng mô hình nghiên cứu thực nghiệm tạo tiền đề 
cho các nghiên cứu tiếp sau nhằm từng bước phát triển các nguyên liệu hoặc chế phẩm thành sản 
phẩm thực sự và đưa sản phẩm ra phục vụ cuộc sống. Bên cạnh đó, cần xúc tiến tìm hiểu, phát 
hiện nhóm dược liệu biển tiềm năng, có khả năng khai thác trong thời gian ngắn, có khả năng 
nuôi dưỡng hoặc nuôi trồng, có khả năng tạo ra các chế phẩm sinh học hoặc thực phẩm chức 
năng, ví dụ như các nhóm rong biển, tảo biển, hải sâm và vi sinh vật biển. Hiện nay, thực phẩm 
chức năng là mầm giao thoa giữa thực phẩm và thuốc, các sản phẩm này được người tiêu dùng 
đón nhận và tiêu thụ với số lượng lớn vì người ta có thể sử dụng chúng như các thực phẩm thông 
thường. Bên cạnh một số sản phẩm đã có mặt trên thị trường như chế phẩm sinh học ameabocyte 
lysate từ sam biển, calcialginat làm thuốc cầm máu, cao rắn biển và cao cá ngựa, thuốc chữa 
bỏng Các kết quả nghiên cứu gần đây của chúng tôi cũng cho ra những sản phẩm thực phẩm 
chức năng góp phần định hướng cho các nghiên cứu ứng dụng như chế phẩm salamin, chế phẩm 
TMC hạ cholesterol máu, viên tăng lực từ hải sâm, viên bionamin, viên haliotis. Đây là những 
sản phẩm đặt nền móng cho các nghiên cứu sâu hơn, rộng hơn nhằm tạo ra các sản phẩm có chất 
lượng cao phục vụ cuộc sống. 
Một số thực phẩm chức năng có nguồn gốc từ sinh vật biển Việt Nam 
4. KẾT LUẬN CHUNG 
Những kết quả của công trình nghiên cứu trên góp rất lớn vào kho tàng hợp chất thiên 
nhiên biển trên thế giới, góp phần quảng bá và đưa các thông tin về nghiên cứu biển Việt Nam 
vươn ra quốc tế. Công trình còn góp phần thúc đẩy và phát triển hướng nghiên cứu các hoạt chất 
sinh học biển ở Việt Nam và tạo cơ sở khoa học định hướng cho các đơn vị nghiên cứu triển 
khai, các công ty trong việc ứng dụng để ra các sản phẩm có giá trị như thực phẩm chức năng. 
Trong giai đoạn tiếp theo, nhóm nghiên cứu tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu hóa học và hoạt 
tính sinh học trên các đối tượng sinh vật biển nhiều tiềm năng như da gai, hải miên, san hô mềm. 
Ngoài ra, sẽ tập trung hướng nghiên cứu về tiềm năng dược liệu biển từ động vật thân mềm, vi 
sinh vật biển và tài nguyên của rừng ngập mặn nhằm góp phần định hướng khai thác hợp lý 
nguồn tài nguyên dược liệu Biển của Việt Nam. 
Lời cảm ơn. Công trình này được hoàn thành với sự tài trợ kinh phí của đề tài nghiên cứu cơ bản-Nafosted 
(mã số: 104.01.2010.08). 
Châu Văn Minh 
 834
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Chau Van Minh, Phan Van Kiem, Nguyen Hai Dang - Asean J. Sci. Tech. Develop. 22 
(4) (2006) 297-311. 
2. Proksch P., Edrada-ebel R., Ebel R. - Mar. Drugs 1 (1) (2003) 5-17. 
3. Blunt J. W., Copp B. R., Munro M. H. G., Northcote P. T., Prinsep M. R. - Nat. Prod. Rep. 
28 (1) (2011) 196−268. 
4. Mayer A. M. S., Glaser K. B., Cuevas C, Jacobs R. S., Kem W., Little R. D., McIntosh J. 
M., Newman D. J., Potts B.C., Shuster D. E. - Trends Pharmacol. Sci. 31 (6) (2010) 255. 
5. Châu Văn Minh, Phan Văn Kiệm, Nguyễn Hải Đăng - Các hợp chất có hoạt tính sinh học 
từ sinh vật biển, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2007. 
6. Châu Văn Minh, Nguyễn Hải Đăng, Nguyễn Xuân Cường, Phan Văn Kiệm, Hoàng 
Thanh Hương - Tạp chí Khoa học và Công nghệ 45 (6-DB) (2007) 1−18. 
7. Châu Văn Minh, Phan Văn Kiệm, Lê Mai Hương, Phạm Quốc Long, Young Ho Kim - 
Tạp chí Hoá học 43 (6) (2005) 768−772. 
8. Nguyen Van Thanh, Nguyen Hai Dang, Phan Van Kiem, Nguyen Xuan Cuong, Hoang 
Thanh Huong, Chau Van Minh - Asean J. Sci. Tech. Develop. 23 (4) (2006) 253−259. 
9. Nguyen Hai Dang, Nguyen Van Thanh, Phan Van Kiem, Le Mai Huong, Chau Van Minh, 
Young Ho Kim - Arch. Pharm. Res. 30 (11) (2007) 1387−1391. 
10. Châu Văn Minh, Phan Văn Kiệm, Lê Mai Hương - Phương pháp chiết hợp chất 
Holothurin B từ loài hải sâm Holothuria vagabunda, Bằng độc quyền sáng chế (Việt 
Nam), số 5846, 2006. 
11. Châu Văn Minh, Phan Văn Kiệm, Nguyễn Hải Đăng, Nguyễn Văn Thanh, Lê Mai Hương, 
Đỗ Công Thung, Trần Thu Hương, Nguyễn Xuân Cường - Hợp chất Holothurin A3 có 
hoạt tính chống ung thư và phương pháp chiết hợp chất này từ loài hải sâm Holothuria 
scabra, Bằng độc quyền sáng chế (Việt Nam), số 6852, 2008. 
12. Phạm Quốc Long, Châu Văn Minh, Trần Bạch Dương, Nguyễn Văn Thanh, Phan Văn 
Kiệm, Tạp chí Khoa học và Công nghệ 43 (6A) (2005) 77−83. 
13. Nguyễn Thị Phương Chi, Hoàng Thanh Hương, Châu Văn Minh, Tạp chí Dược học 345 
(2005) 10−12. 
14. Nguyễn Xuân Cường, Nguyễn Hải Đăng, Đỗ Công Thung, Trần Thu Hương, Nguyễn Thị 
Kim Thúy, Phan Văn Kiệm, Châu Văn Minh - Tạp chí Hoá học 45 (6) (2007) 776−780. 
15. Nguyễn Xuân Cường, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thu Phương, Vũ Văn Thành, Phan Văn 
Kiệm, Châu Văn Minh - Tạp chí Khoa học và Công nghệ 45 (3) (2007) 43−50. 
16. Chau Van Minh, Phan Van Kiem, Le Mai Huong and Young Ho Kim - Arch. Pharm. Res. 
27 (7) (2004) 734−737. 
17. Châu Văn Minh, Phan Văn Kiệm, Hoàng Thanh Hương, Phạm Quốc Long, Nguyễn Xuân 
Cường, Nguyễn Hoài Nam - Tạp chí Khoa học và Công nghệ 43 (2) (2005) 91−95. 
18. Châu Văn Minh, Phan Văn Kiệm, Hoàng Thanh Hương, Nguyễn Xuân Cường, Nguyễn 
Hoài Nam - Tạp chí Hóa học và ứng dụng 5 (2004) 35−40. 
19. Châu Văn Minh, Phan Văn Kiệm, Hoàng Thanh Hương, Phạm Quốc Long, Nguyễn Xuân 
Cường, Nguyễn Hoài Nam - Tạp chí Hóa học và ứng dụng 4 (2004) 15−18. 
Điểm lại các nghiên cứu hóa học và hoạt tính sinh học một số loài sinh vật biển Việt Nam  
835
20. Gerald A. W., Scott G. F., Gloria M., Joseph J. H., Wiliam M. M., Barbara N. T. - J. Nat. 
Prod. 64 (2001) 1463−1464. 
21. Brent R. C. - Nat. Prod. Rep. 20 (2003) 535−557. 
22. Tung N. H., Minh C. V., Ha T. T., Kiem P. V., Huong H. T., Dat N. T., Nhiem N. X., Tai 
B. H,. Hyun J. H., Kang H. K., Kim Y. H. - Bioorg. Med. Chem. 19 (16) (2009) 
4584-4588. 
23. Tung N. H., Minh C. V., Kiem P. V., Huong H. T., Ha T. T., Dat N. T., Nhiem N. X., 
Cuong N. X., Hyun J. H., Kang H. K., Kim Y. H. - Arch. Pharm. Res. 32 (12) (2009) 
1695−1698. 
24. Chau Van Minh, Nguyen Xuan Cuong, Phan Van Kiem - Asean J. Sci. Tech. Develop. 24, 
(3) (2007) 275−283. 
25. Chau Van Minh, Nguyen Xuan Cuong, Tran Anh Tuan, Choi E. M., Kim Y. H., Phan 
Van Kiem - Nat. Prod. Commun. 2 (11) (2007) 1095−1100. 
26. Nguyen Huu Tung, Chau Van Minh, Phan Van Kiem, Huong H.T., Nguyen Hoai Nam, 
Nguyen Xuan Cuong, Tran Hong Quang, Nguyen Xuan Nhiem, Hyun J. H., Kang H. K., 
Kim Y. H. - Arch. Pharm. Res. 33 (4) (2010) 503−508. 
27. Chau Van Minh, Phan Van Kiem, Nguyen Xuan Nhiem, Nguyen Xuan Cuong, Nguyen 
Phuong Thao, Nguyen Hoai Nam, Hoang Le Tuan Anh, Do Cong Thung, Dinh Thi Thu 
Thuy, Kang H. K., Jang H. D., Kim Y. H. - Bioorg. Med. Chem. Lett., 21 (7) (2011) 
2155−2159. 
28. Châu Văn Minh, Trần Thu Hà, Đinh Thị Thu Thủy, Phan Văn Kiệm, Nguyễn Phương 
Thảo, Nguyễn Xuân Cường, Nguyễn Hoài Nam, Nguyễn Xuân Nhiệm, Hoàng Lê Tuấn 
Anh, Vũ Anh Tú, Ninh Khắc Bản - Tạp chí Hóa học 49 (4) (2011) 458−462. 
29. Tran Hong Quang, Tran Thu Ha, Chau Van Minh, Phan Van Kiem, Hoang Thanh Huong, 
Nguyen Thi Thanh Ngan, Nguyen Xuan Nhiem, Nguyen Huu Tung, Nguyen Phuong 
Thao, Dinh Thi Thu Thuy, Song S. B., Boo H. J., Kang H. K., Kim Y. H. - Bioorg. Med. 
Chem. Lett. 21 (2011) 2845−2849. 
30. Châu Văn Minh, Nguyễn Xuân Cường, Nguyễn Văn Thanh, Hoàng Thanh Hương, Phan 
Văn Kiệm - Tạp chí Hoá học 45 (3) (2007) 382−386. 
31. Phan Văn Kiệm, Nguyễn Văn Thanh, Nguyễn Xuân Cường, Châu Văn Minh - Tạp chí 
Hoá học 45 (4) (2007) 513−517. 
32. Nguyen Xuan Cuong, Tran Anh Tuan, Phan Van Kiem, Chau Van Minh, Eun Mi Choi, 
Young Ho Kim - Chem. Pharm. Bull. 56 (7) (2008) 958−992. 
33. Nguyễn Xuân Cường, Trần Anh Tuấn, Phan Văn Kiệm, Châu Văn Minh - Tạp chí Khoa 
học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, 1 (1) (2007) 55−60. 
34. Liang X. T., Fang W. S. - Medicinal Chemistry of Bioactive Natural Products, John 
Willey & Son, New Jersey, 2006, pp. 257−300. 
35. Tran Hong Quang, Tran Thu Ha, Chau Van Minh, Phan Van Kiem, Hoang Thanh Huong, 
Nguyen Thi Thanh Ngan, Nguyen Xuan Nhiem, Nguyen Huu Tung, Bui Huu Tai, Dinh 
Thi Thu Thuy, Seok Bean Song, Hee-Kyoung Kang, Young Ho Kim - Bioorg. Med. 
Chem. 19 (2011) 2625−2632. 
Châu Văn Minh 
 836
36. Trần Thu Hà, Trần Hồng Quang, Nguyễn Hữu Tùng, Nguyễn Xuân Nhiệm, Nguyễn Xuân 
Cường, Nguyễn Hoài Nam, Nguyễn Tiến Đạt, Hoàng Thanh Hương, Đỗ Thị Thảo, Young 
Ho Kim, Châu Văn Minh, Phan Văn Kiệm - Tạp chí Hóa học 48 (4B) (2010) 290−295. 
37. Đinh Thị Thu Thủy, Châu Văn Minh, Trần Thu Hà, Phan Văn Kiệm, Nguyễn Phương 
Thảo, Nguyễn Xuân Cường, Nguyễn Hoài Nam, Nguyễn Xuân Nhiệm, Hoàng Lê Tuấn 
Anh, Vũ Anh Tú - Tạp chí Dược học 52 (429) (2012) 41−45. 
38. Châu Văn Minh, Nguyễn Văn Thanh, Nguyễn Xuân Cường, Phan Văn Kiệm, Nunziatina 
De Tommasi, Lâm Ngọc Thiềm - Tuyển tập Hội nghị Hóa học Hữu cơ Toàn quốc lần thứ 
IV, tr. 446−450 (2007). 
39. Châu Văn Minh, Phan Văn Kiệm, Hoàng Thanh Hương, Nguyễn Xuân Cường, Nguyễn 
Văn Thanh, Nguyễn Hoài Nam - Tạp chí Hóa học và ứng dụng 12 (2004) 22−25. 
40. Nguyễn Xuân Cường, Phan Văn Kiệm, Châu Văn Minh - Tạp chí Khoa học và Công 
nghệ 45 (2) (2007) 41−47. 
41. Qi S. H., Shang S., Huang J. S., Xiao Z. H., Wu J., Long L. J. - Chem. Pharm. Bull. 52 
(8) (2004) 986−988. 
42. Yamazaki T., Sugawara F., Ohta K., Masaki K., Nakayama K., Sakaguchi K., Sato N., 
Shahara J., Fujita T. - United States Patent, No. US 6.759.522 B2, 2004. 
43. Châu Văn Minh, Phan Văn Kiệm, Hoàng Thanh Hương, Nguyễn Xuân Cường, Phạm 
Quốc Long, Nguyễn Hoài Nam - Tạp chí Hoá Học 43 (4) (2005) 499−502. 
44. Châu Văn Minh và cs - Báo cáo tổng kết khoa học đề tài KC09.15, 2005. 
45. Chau Van Minh, Phan Van Kiem, Tran Anh Tuan, and Nguyen Xuan Cuong - Adv. Nat. 
Sci. 9 (2) (2008) 157-161. 
46. Châu Văn Minh, Nguyễn Xuân Cường, Phan Văn Kiệm, Lê Mai Hương, Đỗ Công Thung 
- Hợp chất axít 20-bromo-(11E,15E,19E)-eicosa-11,15,19-triene-7,9,17-triynoic và 
phương pháp chiết hợp chất này từ loài hải miên Xestospongia testudinaria, Bằng độc 
quyền sáng chế (Việt Nam), số 8852, 2010. 
47. Nguyễn Minh Thanh, Luyện Quốc Hải, Lại Kim Dung, Phan Văn Kiệm, Châu Văn Minh, 
Đặng Diễm Hồng - Tạp chí Công nghệ sinh học 6 (4A) (2008) 713−720. 
48. Châu Văn Minh, Phan Văn Kiệm, Nguyễn Hoài Nam, Nguyễn Xuân Cường, Nguyễn 
Phương Thảo, Nguyễn Hải Đăng, Trần Hồng Quang, Nguyễn Tiến Đạt, Đỗ Công Thung, 
Đinh Thị Thu Thủy - Tạp chí Hóa học 48 (5) (2010) 627−631. 
49. Chlipala G. E., Pham H. T., Nguyen V. H., Krunic A., Shim S. H., Soejarto D. D., Orjala 
J. - J. Nat. Prod. 73 (4) (2010) 784−787. 
50. Trần Đình Toại, Châu Văn Minh - Tiềm năng rong biển Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa 
học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2004. 
51. Phạm Quốc Long, Châu Văn Minh - Lipid và các axit béo có hoạt tính sinh học có nguồn 
gốc thiên nhiên, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2005. 
52. Trần Đình Toại, Châu Văn Minh - Rong biển dược liệu Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa 
học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2005. 
53. Châu Văn Minh và cs. - Báo cáo tổng kết khoa học đề tài KC.09.09/06-10, 2009. 
Điểm lại các nghiên cứu hóa học và hoạt tính sinh học một số loài sinh vật biển Việt Nam  
837
ABSTRACT 
STUDY ON CHEMISTRY AND BIOACTIVITY OF SOME MARINE ORGANISMS IN 
VIETNAM (2006-2012) – A REVIEW 
Chau Van Minh*, Nguyen Xuan Cuong, Nguyen Hai Dang, Nguyen Phuong Thao, 
Tran Hong Quang, Nguyen Huu Tung, Nguyen Hoai Nam, Nguyen Van Hung, Phan Van Kiem 
Institute of Marine Biochemistry, VAST, 18 Hoang Quoc Viet, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
*Email: cvminh@vast.ac.vn 
Marine natural product chemistry in Vietnam is considered as an important research field in 
the 21st century. This review briefly covered our recently investigations on the chemical 
composition and biological activity of several marine organisms living in Vietnamese sea 
including sponges, soft corals and echinoderms. A number of compounds belong to the class of 
saponin, steroid, diterpene, glycolipid, and several other skeletons have been isolated. Those 
compounds potently exhibited cytotoxicity against human cancer cells and antimicrobial activity. 
Their effects on osteoblastic differentiation, anti-inflammatory effects and antioxidant activity 
were also recognised. The results have significantly contributed to the worldwide marine natural 
product database. From the obtained results, several products have been developed for human 
healthcare. 
Keywords: marine natural product chemistry; sponge; soft coral; Echinoderm. 

File đính kèm:

  • pdfdiem_lai_cac_nghien_cuu_hoa_hoc_va_hoat_tinh_sinh_hoc_mot_so.pdf